- 6 - Aubaret đề nghị hiệp ước mới cho chuộc lại ba tỉnh-
Với sự chuyên nghiệp và não trạng như thế, Aubaret phải phác thảo cho xong bản hiệp ước mới vừa có lợi cho Pháp vừa có thể cho Tự Đức chấp nhận. Sứ bộ Phan Thanh Giản từ chối tham gia ý kiến, viện dẫn lý do không có thẩm quyền. Sứ bộ rời nước Pháp ngày 10.11.1863. Hiệp ước mới coi như chính phủ Pháp đã thông qua. Còn “Aubaret xuống tàu ở cảng Marseille ngày 29.1.1864 đi Bangkok, để nhận nhiệm sở Lãnh sự Pháp tại thành phố này... Dự kiến tới kinh đô Việt Nam vào tháng 4, nhưng bệnh đau mắt nặng đã giữ chân ông ở Singapore thêm một tháng... Mãi đến ngày 24.5.1864, Aubaret mới tới Sài Gòn, và phái đoàn đi Huế ngày 14.6.1864... Thực ra Aubaret ở Huế từ ngày 15.6.1864 tới ngày 20.7.1864. Cuộc thương thảo chính thức bắt đầu từ ngày 23.6.1864 và chấm dứt bằng việc ký kết ngày 15.7.1864 hai hiệp ước Chính trị và Thương mại” [1].
Bản dự thảo Hòa ước mới do một mình Aubaret soạn, tuy có tham khảo ý kiến của sứ đoàn Phan Thanh Giản, nhưng đều bị khước từ vì lý do chưa có chỉ thị của Tự Đức. Aubaret cứ cho là bản dự thảo đã có sự đồng ý của sứ đoàn Phan Thanh Giản (!), nên đề nghị chỉ thương thuyết trên dự thảo này. “Thực vậy chúng ta biết là Phan Thanh Giản cùng với hai phó sứ và bồi sứ, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản, đi sứ ở Pháp về, mang theo một bản dự thảo Hòa ước, thay thế cho Hòa ước 5.6.1862. Theo dự thảo Hòa ước mới: Pháp trả lại cho Việt Nam ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và chỉ giữ lại một vài địa điểm làm nơi buôn bán. Ngược lại triều đình Huế phải trả cho Pháp một khoản tiền bồi thường rất lớn hằng năm. Phái bộ Phan Thanh Giản phải lưu lại Sài Gòn từ 11 đến 17 tháng 2 năm Tự Đức 17, tức từ 18 đến 24 tháng 3 năm 1864, trong lúc chờ tàu trở về Huế” [2].
Sử Thực lục ghi rõ lập trường và hoạt động ứng phó với hiệp ước mới như sau: Tháng 5 năm Giáp Tý, “Viên toàn quyền sứ thần nước Phú Lãng Sa là Hà Ba Lý (Aubaret) đến kinh định lại hòa ước. Sai Phan Thanh Giản sung chức Toàn quyền chánh sứ, Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh sung làm Phó sứ để hội bàn. Trước đây (1863), sứ thần là bọn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản sang Tây (nói việc chuộc lại ba tỉnh) trở về đem hai bức thư của hai nước Phú Y nói về việc tục ước và việc buôn bán, tiến trình... Một khoản nói ta muốn chuộc lại ba tỉnh, họ cũng thuận nhường, nhưng phải cắt bỏ 8 xứ (192 xã thôn) giao về nước ấy... Một khoản: đưa giả số bạc chuộc trong hạn ba năm, mỗi năm 50 vạn đồng... Một khoản... đặt quan lãnh sự... Một khoản: đạo trưởng, đạo dân tùy nơi lập nhà thờ...
“Vua (Tự Đức) đem tờ ước thư và các bản đình nghị, sai trung sứ đến hỏi Trương Đăng Quế (khi ấy đã về nghỉ việc). Đăng Quế tâu nói: Trong tờ hòa ước, chỗ quan trọng nhất duy khoản thứ 2 về việc cắt bỏ giới hạ ba tỉnh, cho họ đóng ở các xứ ấy, và khoản thứ 19 số bạc bồi thường chia làm hạn năm, hai khoản ấy mà thôi... Xin khi Toàn quyền họp bàn, nên y như ta đã định, cố giữ bền lòng, chớ bị họ làm lay động, cứ lấy lẽ là dân nghèo của ít làm cớ nói, hoặc không thấy họ cự lại, may ra việc ta được xong...
Bọn Toàn quyền sứ là Phan Thanh Giản tâu nói: nhiều lần cùng Hà Bá Lý bàn về hai khoản cắt đất và bồi bạc, viên ấy đã có châm chước... Còn các khoản khác, gián hoặc cũng có sửa đổi lại 1, 2 điểm mà thôi, vâng mệnh đi làm việc không có công trạng gì, thực biết phụ lòng ủy thác. Nay đình thần có kế gì diệu hơn, có thể khiến cho viên ấy, phải nghe lời. Xin chỉ bảo cho biết hoặc nhờ ơn kén lấy 1, 2 người giỏi giang gánh vác công việc ấy, ngõ hầu người mới địa vị cao, khiến cho kẻ kia kính phục mà nghe lời.
Vua lại giao xuống cho đình thần duyệt bàn. Bọn thân phiên đại thần phúc tâu: Các công việc ấy thực cũng khó nói, nghĩ ra cũng không có kế gì khác. Ba vị đại thần toàn quyền ấy, ngôi thứ và đức vọng, các quan ở trong triều không ai hơn được, và lại có kinh nghiệm làm việc, xin nên giao cho làm việc ấy từ trước đến sau. Vua nghe lời...
Khi ấy, sứ giả của nước Phú đến kinh đã lâu, bọn Toàn quyền đại thần mấy lần bàn nói mà sứ nước Phú cứ một niềm theo như trong bản hòa ước mới. Cấp sự trung ở 6 khoa, Khởi cư chú, Viện Tập hiền, các thuộc viện ở Bộ, Viện, Quán, Các đều dâng mật sớ nói là tục ước rất có quan ngại, không bằng hãy giữ theo ước cũ (Nhâm Tuất với 12 khoản), còn việc chuộc lại ba tỉnh, đợi sau sẽ hay. Vả lại sứ thần nước ta sang Tây khi bắt đầu khâm mạng phải đi (1863), không cho được có toàn quyền, nếu có ý kiến gì, cũng phải đợi triều đình châm chước, thế mà không biết nói thế nào, để sứ nước kia khi đến, chỉ một mực theo bản ước mới, sự thể đã đến như thế, nếu có thiếu sót sai lầm, xin do bọn sứ thần phải chịu trách nhiệm.
Vua bèn bảo bọn Phan Thanh Giản rằng: ba người bọn ngươi nên biết công luận không bằng lòng đâu, phải hết sức làm việc, cốt sao cho không thẹn hổ và không nhầm lỗi mới được...” [3].
Khi hai đoàn sứ giả đồng ý xong bản hòa ước mới về các sứ vụ chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường; vấn đề bồi thường chiến phí; vấn đề truyền giáo; vấn đề giao thông thương nghiệp,..., “Toàn quyền sứ thần là bọn Phan Thanh Giản cùng sứ nước Phú là Hà Bá Lý đem sắc văn trao đổi cho nhau. Sứ nước Phú xin vào từ biệt trước mặt vua về nước, sai đem các phẩm hàng gửi tặng vua nước ấy. Vua ngự điện Cần Chánh. Hà Bá Lý và hai viên thuộc quan (Duval, Cuverville) tới sân làm lễ ba lần cúi đầu. Vua cho vời lên điện, cho ngồi và ban nước trà. Vua nói: gửi lời thăm Quốc chúa được mạnh khỏe, từ nay đến trăm năm về sau, mọi việc đều được tất cả” [4].
Sau đó, Aubaret viết trong Tiểu sử: “Tôi đã được Tự Đức tiếp kiến riêng, cuối cùng tôi thấy tận mắt nhân vật mà chỉ các quan lại cao cấp được phép nhìn trong các buổi thiết triều. Tôi trò chuyện rất lâu với nhân vật quyền uy Phương Đông này, và phải thú nhận, tôi trở về với ấn tượng rất tốt đẹp về ông. Người nhà ta tương đối không có hiểu biết thiết thực về đất nước này, nên không thể hình dung một biến chuyển tinh thần tương tự trong một cỗ máy như vậy là điều rất hiếm hoi, tôi phải nói điều này, đó là một cảm xúc rất hiếu kỳ khi tiến tới cạnh ngai vàng đồ sộ, mà bọn trần tục không bao giờ dám ngước mắt nhìn” [5].
“Ngày 15.7.1864, hai hiệp ước được phê chuẩn ở Huế. Ngày 20.7.1864, Aubaret rời kinh đô Việt Nam” [6].
Chú thích:
[1] Trương Bá Cần, Hoạt động..., sđd, trang 115-117.
[2] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 134.
[3] Đại Nam thực lục. Tập XXX, sđd, trang 84-93.
[4] Đại Nam thực lục. Tập XXX, sđd, trang 96.
[5] Trương Bá Cần, Hoạt động ngoại giao... Sđd, tr. 117.
[6] Như trên, trang 125.