- 7 - Nguyễn Trường Tộ nhận định tình thế sau khi có hiệp ước mới
Qua ngả báo chí và các nguồn tin khác, Nguyễn Trường Tộ đã nắm bắt được nội dung của hiệp ước mới, nên đã viết Kế hoạch duy trì hòa ước mới (Di thảo số 4) gửi tới Phan Thanh Giản khoảng ngày 18-24.3.1864, tức là khi Phan Thanh Giản từ Pháp về tới Sài Gòn và đợi tàu ra Huế. Chúng tôi xin trích dẫn bản điều trần này:
Tôi là Nguyễn Trường Tộ xin kính bẩm,
Sự thế hiện nay rất khó xử, phải tìm người giúp, bủa lưới bốn mặt, để họ không được hoành hành, thì bản minh ước mới lâu dài được, phải lấy kinh nghiệm các nước khác đã bị trúng ám kế của họ để làm gương, và bắt chước những mưu mô mà các nước khác đã chế ngự được họ. Hai lối ấy là việc rất gấp cho tình thế hiện nay. Tôi đã trình bày sơ lược với hai vị phó sứ (Phạm Phú Thứ) và bồi sứ (Ngụy Khắc Đản) rằng việc ấy mười phần chắc chắn không nghi ngờ gì nữa. Vì họ nghĩ rằng nước ta từ trước chưa bao giờ giao thiệp với nước ngoài, chưa hiểu rõ các mánh khóe nên họ mới dùng những kế đã thi thố ở các nước khác ra thi thố với ta. Nếu đại nhân (Phan Thanh Giản) đã có mưu kế riêng rồi, thì tôi không dám bàn nữa. Còn nếu muốn mưu tính việc thiên hạ, khiến những bọn ghét nhau tự xâu xé lẫn nhau, để ta được nhân đó mà hưởng lợi, như xưa kia Anh mất Hợp Chúng Quốc là vì có nước Pháp xen vào; Khang Hy được chia bờ cõi với người Nga vì bị Hà Lan dụ dỗ; Nhã Điển khỏi bị thần phục Thổ Nhĩ Kỳ, vì có Anh, Pháp giúp đỡ; các nước Nhật Nhĩ Man (Đức) khỏi bị thôn tính là nhờ các nước lớn giữ cho. Lý do vì sao được như thế, trong tờ trình bày tháng trước tôi đã bẩm qua rồi. Cúi xin đại nhân soi xét tấm lòng thành đem việc chuyển tâu lên. Nếu ngày kia có việc, tôi xin được phụ giúp, tôi cũng có thể trình bày một vài ý kiến để chuộc tội trước.
Hiện nay tôi muốn đi qua kinh đô nước Anh. Nhân nước Anh có mở đại hội cách trí, họ thường sai người đi khắp các nước đến các đầu phố phỏng vấn về tình hình người phương Tây giao tế với các nước khác như thế nào (việc này có tương quan đến đại thế tung hoành, phân hợp của các nước). Người này đến Gia Định, phỏng vấn người Pháp gần đây thế nào, Đại Nam thế nào, nhưng người Pháp không chịu nói sự thật. Y nghe tiếng tôi, tự đến hỏi thăm. Thật tình có bụng muốn gặp nhau nên nhân y muốn mời tôi cùng đi, tôi mừng thầm cho đó là cơ hội tốt khiến tôi có thể đến tận nước Anh, như trong tờ mật bẩm ngày trước tôi đã nói lý do cần đi nước ngoài là vì thế...
Tháng trước, tôi đã bẩm lên quan Thượng thư bộ Binh (Trần Tiễn Thành) biết rằng: Họ muốn làm kế bưng tai ăn trộm chuông, cho nên gấp rút phái thuyền đến Kinh xin hoàn thành công việc. Đấy là mưu kế độc ác. Có hai lẽ (hai lẽ ấy tôi đã bẩm rõ rồi). Vả lại trong tờ hòa ước họ có buộc một điều kiện là: “Có thuận cho thi hành mới được thi hành”, chính là mưu ngăn chặn người khác chia lợi với mình sau này vậy. Vì gần đây các nước ký hòa ước chung với phương Tây, phần nhiều đều có các nước cùng chứng vào, nên khó bề tự ý muốn làm gì thì làm. Chỉ có lần này họ đem kế ấy thi hành ở nước ta. Họ biết chắc chắn thế nào ta cũng sẽ vi phạm trước. Ý họ muốn mượn cớ đấy để phía Nam lấy Cao Miên, phía Bắc thông lên Vân Nam (họ nghe nói tơ Vân Nam tốt nhất thiên hạ, lại nghe Hải Dương có mỏ than) chứ không phải chỉ vì ba tỉnh mà thôi. Từ 1864, đã thấy trước.
Họ trả lại cho ta một là vì danh nghĩa ép buộc (điều này ngày trước tôi cũng đã bẩm lên quan bộ Binh biết rõ. Xin đợi đến khi về Kinh xem lại kỹ càng).
Hai là để lấy lòng (điều này chưa dám nói rõ).
Ba là tạm mua hư danh, rồi sẽ thong thả thực hiện ý đồ (tôi đã từng dò biết được chắc chắn không sai, họ cũng bàn bạc với nhau rằng: Sứ bộ nước Nam đã sang, mà ta cứ giữ khư khư không cho, sợ sinh sự không tốt đẹp, như mấy việc tôi đã nói ở trên. Vả lại họ giữ chưa được vững, sợ người khác giúp ta, âm thầm chẹn họng họ. Chi bằng bề ngoài giả tiếng là cho chuộc mà nâng cao giá lên. Nếu ta chịu hết điều kiện, thì hiện nay họ được lợi. Ngày sau ta không khỏi trái ước. Lúc ấy hai mối lợi họ đều được, mà ta thì không có lời lẽ gì để bộc bạch với thiên hạ, họ mới có thể giữ được bền vững lâu dài, như việc người nước Anh trước kia. Hoặc là muốn ta cho sự thề ước quá nặng, lại tưởng ta không biết đường lối, khó tìm được người giúp đỡ, chỉ cứ lúng túng lấy nặng nhẹ làm điều, kéo dài ngày tháng. Hoặc ta nghi ngờ mà không chịu, hay chịu mà không theo đúng lời họ yêu cầu, thì họ sẽ có lời lẽ với thiên hạ, mà cái cớ để lấy lại càng thêm vững chắc...
Vậy một là phải tìm được ngoại viện để phá mưu của họ (điều này có nhiều chỗ cơ yếu, khó nói vắn tắt được).
Hai là phải tìm những tụi du côn của nước nào có giao hiếu với họ, âm thầm đến nước ta (tuy bọn chúng cũng có nhiều người muốn theo ta nhưng ta chưa biết tìm đường đấy thôi. Còn như bọn vô lại các nước, ở tản mát khắp nơi, cũng có nhiều người rất là mạnh khỏe gan dạ. Nếu ta biết khéo dùng thường thường được chúng ra sức liều chết. Tôi đã biết hạng người ấy mang tội phiêu lưu, không cần gì ở trên đời này cả. Chỉ cần được no ấm khoái lạc thì dù có chết cũng không từ. Nếu ta dùng được thì có lợi rất lớn để gieo lòng nghi hoặc cho họ.
Ba là phải học hết các món khôn khéo của họ, mà trong khi qua lại giao tế, phải nhượng họ ba phần. Đại phàm đem chuyện phi lý mà buộc cho người, tất nhiên phải có dựa vào một lý lẽ nào đó. Nếu ta không có điều gì để họ có thể chấp lý được thì chắc chắn họ phải im không dám hành động gì. Cứ bủa vây bốn mặt rồi chờ khi có tệ (tệ này tôi đã dự đoán không sai, mười năm sau sẽ thấy) mới có thể mưu đồ được...
Tôi xét thấy sự thế hiện nay chỉ người Anh có thể cộng tác được với ta. Vì Anh và Pháp có mối thù truyền kiếp. Nay người bác của vua Pháp bị người Anh đày ở ngoài một đảo xa xôi, người Pháp lấy làm xấu hổ.
Người Anh mất Hợp Chúng Quốc do Pháp hất cẳng; người Pháp sở dĩ tạm thời hợp tác với người Anh vì người Anh giỏi về đường biển. Nay nếu có đánh nhau thì người Pháp chỉ giỏi về đường bộ, không thể biến hóa được (khoản này có nhiều điều lợi hại, nhưng không quan thiết đến ta nên không nói kỹ làm gì). Vả lại, người Anh hiện đã làm chủ được tình thế phương Đông, hơn gấp mười Pháp, cho nên Pháp phải miễn cưỡng hòa thuận với Anh. Nhưng tính người Pháp hay kiêu điệu, lại hay nghe dèm pha, nên cũng dễ ly gián. Người Anh tuy giữ được nhiều nơi, nhưng chưa chỗ nào hiểm trở bằng Gia Định. Nay nếu Pháp lấy được Gia Định thì sẽ bất lợi cho mình. Nên nếu có cơ hội thuận tiện, lẽ nào người Anh bỏ qua. Nay nếu ta tỏ ý cầu viện người Anh, thì cũng dễ nói. Đấy là một điều lợi...
Người Pháp với ta, sự việc chưa biết đến đâu là cùng. Gần đây, nhiều khi người Pháp cũng mời người Anh cùng đi đôi với họ. Nếu nay ta không gấp rút thông hiếu với người Anh trước, vạn nhất ngày sau lại sinh chuyện, mà Pháp với Anh đã đi đôi với nhau rồi, thì ta chịu sao nổi? Nay nếu ta biết liệu trước sẽ có thể giao hảo được với người Anh, thế thì dù sau này có xảy ra việc gì ắt họ sẽ một là sợ danh nghĩa, hai là vì cảm tình mà hòa hoãn, đấy là bốn điều lợi.
Người Pháp tuy tự khoe khoang giàu mạnh, nhưng so lực lượng cũng đã chịu nhường người Anh. Nay nghe ta thân thiện với người Anh, ắt biết ta sẽ lập mưu ngăn cản họ. Nay nếu người Pháp đem nhiều lời ly gián, thì lại sợ người Anh thấy rõ tâm địa mà chê cười. Tuy người Anh chưa công khai giúp ta, nhưng người Pháp cũng đã biết, nếu có hành động gì, chắc người Anh cũng sẽ ngầm báo tin cho ta. Và mối thù ngày trước, to như núi; lúc nào người Pháp cũng lo ngay ngáy sợ người Anh kết hợp với ta. Lần trước Pháp giao kết với Nga toan để ngầm chống Anh, nhưng nay đã sinh hiềm khích và tự biết bị cô lập. Lúc bấy giờ nếu muốn được họ chuyển nặng sang nhẹ cho ta, thì cơ hội cũng dễ. Đấy là năm điều lợi.
Trước đây vào khoảng năm Gia Khánh (1796-1820) nhà Thanh, bác vua Pháp bấy giờ gọi là Napôlêông xuất thân từ trong binh lính nổi lên, giam Y Pha Nho, hãm Áo Đại Lợi, đốt Nga La Tư, phá Hà Lan, hiếp Ý Đại Lợi, đánh Ách Nhật Đa, cướp Nhật Nhĩ Man, xâm lăng Anh Cát Lợi. Các nước phương Tây không nước nào không bị độc hại. Đến nay các nước vẫn còn tức giận. Vả lại, người Anh tuy nói cộng tác với Pháp, nhưng chỉ vì lợi ích mà hợp tác thì làm sao lâu dài được? Gần đây, nước Anh lại sắm sửa binh thuyền, gấp ba người Pháp trong ý luôn luôn muốn trả mối thù mất Hợp Chúng Quốc. Giả sử thời cơ đã đến mà có ta ở trong đó nói ra nói vào, khéo điều đình khêu gợi, vạn nhất nổ chuyện ra thì Anh Cát Lợi chận đường thủy, Mặc Địa Lợi áp đảo đường bộ, Y Pha Nho bọc phía Nam, để trả cái giận làm chung mà chiếm lợi riêng một mình. Hà Lan, Bỉ Lợi thì đón phía Bắc, Nga La Tư theo sau tiếp ứng. Ở phương Đông người Anh đem binh lính Ấn Độ chẹn đường về, còn ta thì ngồi mà hưởng lợi. Đấy là một mối lợi rất to.
Sáu món lợi kể trên là tôi hãy tạm lấy cái dễ thấy, cái công dụng lớn mà nói, còn như nhân việc này mà xoay dần, tùy cơ mà chuyển bắt, thường thường nhân nhỏ mà được lớn, như các việc đã qua ở các nước Tân Thế Giới, khó có thể kể hết. Còn như sự sắp đặt của Triều đình, vốn không phải người ngoài thấy được.
Nhưng làm được sáu điều lợi trên, dĩ nhiên còn có nhiều đường lối, tùy sự thế mà xoay chuyển, không thể bàn nhất định trước được, sợ vướng vào gàn dở, không dám dài dòng.
Nay kính bẩm. [1]
Hiệp ước chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường được ký kết tại Huế ngày 15.7.1864. Năm ngày sau, “Aubaret rời kinh đô Việt Nam. Chỉ khi Aubaret đang ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam, một phản lệnh (contreordre) của Paris yêu cầu đình hoãn việc thương lượng, mới tới tay ông” [2]. Thế là việc chuộc lại ba tỉnh bất thành.
Về sự cố trên, sử Thực lục đã chép rõ: Tháng giêng năm Ất Sửu (1865), “chủ súy nước Phú là Gia-lăng-đi-e (La Grandière) phái người là Sơ-Ba-Lê đi tàu chạy máy bằng hơi nước đến đồn cửa biển Thuận An, đưa thư xin vào chầu và tâu bày định việc hòa ước... Ba Lê lại nói: lần này vẫn giữ ước cũ về năm Nhâm Tuất... Bọn Thanh Giản đem việc tâu lên. Vua giao cho phủ Tôn nhân và đình thần bàn định, đều nói: vua tôi nước ấy đã không chịu cho chuộc lại ba tỉnh (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa), nếu lại viết quốc thư để hỏi thì họ lại cố chấp lời nói trước, sợ có tổn đến quốc thể chăng? Xin sai quan Thương bạc viết thư gửi cho đại học sĩ nước ấy là Anh Đê Luy và chủ súy nước Phú ở Gia Định, thông tin phân trần cặn kẽ, họa có chút động lòng nghe chăng, sau sẽ dần dần mưu tính. Vua nói: bọn khanh liệu tính thế nào, chả nhẽ theo ước cũ mà nỡ bỏ đất cát ba tỉnh ấy ư?” [3].
Chú thích:
[1] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, tr. 129-133.
[2] Trương Bá Cần, Hoạt động ngoại giao..., sđd, trang 125.
[3] Thực lục chính biên, tập XXX, sđd, trang 162.