← Quay lại trang sách

- 9 - Tự Đức đối với Võ Duy Dương, Trương Định, Trương Tuệ và bản thảo thư gửi Tây soái của Nguyễn Trường Tộ

Dưới triều Nguyễn, đất nước ta lâm cảnh rối ren tột bậc ở buổi đầu Pháp đến xâm chiếm: năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đánh phá Đà Nẵng; năm 1859, liên quân ấy vào đánh chiếm thủ phủ Gia Định (Sài Gòn); năm 1862, Phan Thanh Giản ký hòa ước Nhâm Tuất nhượng cho Pháp ba tỉnh Gia Định - Biên Hòa - Định Tường và Côn Đảo làm thuộc địa; năm 1863, sứ đoàn Phan Thanh Giản đi Pháp mưu cầu chuộc lại những tỉnh đã mất; năm 1864, Aubaret tới Huế thương lượng hiệp ước để Việt Nam chuộc lại ba tỉnh đã nhỡ nhường cho Pháp, nhưng sau chính phủ Pháp lệnh cho Aubaret hủy bỏ cam kết; năm 1865, thực dân Pháp âm mưu chiếm nốt ba tỉnh miền tây Nam Kỳ (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và xúi giục những thành phần bất hảo mạo danh hậu duệ nhà Lê gây rối loạn ở Bắc Kỳ... [1].

Đương thời nước ta theo chế độ quân chủ chuyên chính: vua là con trời, quyết định mọi việc quan trọng kể cả việc phong thần mang tính tâm linh, huống là việc chiến hay hòa. Ở thời điểm này, vua Tự Đức đang ở tuổi 25-30, đích thân trị vì với sự bàn bạc hay tham gia ý kiến của đình thần mà chủ yếu là Viện Cơ mật gồm các thượng quan như: Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Đoàn Thọ, Vũ Trọng Bình, Trần Tiễn Thành, Nguyễn văn Phong, Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ, v.v... Tuy nhiên, quyết định tối hậu như hòa hay chiến, chiến thuật hay chiến lược... đều do Tự Đức khuyến dụ ban hành, đôi khi ngược lại đề án của Viện Cơ mật. Sau đây là mấy thí dụ:

Tháng 7 năm Bính Dần (1866), sử Thực lục ghi: “Tuần phủ Thuận Khánh là Hoàng văn Tuyển tâu nói: gần đây nghe nói Võ Duy Dương và bọn Trương Tuệ (Tuệ là con Trương Định) ngầm đến Thượng du hội với bọn còn sót lại của tên Bướm (nhà Cách mạng Campuchia) mưu khởi nghịch. Vua bảo Viện Cơ mật rằng: lũ tên Dương lòng hắn thế nào chưa dễ biết rõ, nhưng cũng là do lòng công phẫn mà ra, có thế mới có thể ràng buộc lòng người, để dùng về sau, cho đi tuần bắt cũng chẳng qua để cho vui lòng nước Pháp mà thôi, giết đi thì cũng đáng tiếc, người không biết thì bảo là phụ ân, trước bất đắc dĩ đã mất một Phan Huân (Thủ Khoa Huân), lòng trẫm vẫn áy náy, chưa biết quan kinh lược và quan tỉnh cũng đã biết rõ ý ấy làm cho thỏa đáng hay không? Nếu nhận là việc thật, thì thất sách nhiều lắm. Bọn chúng quen đánh không sợ, tuy sức ít không làm nên việc, nhưng khí khái đáng khen, huống chi lũ tên Dương nếu được địa lợi, đủ quân đủ lương, biết đem dùng hắn thì người đã quen, tưởng cũng được việc, nếu vời hắn đến xử trí cho khéo, ngõ hầu là lưỡng toàn. (Huân là người Gia Định, đỗ cử nhân ra ứng nghĩa)” [2].

Về trường hợp Trương Định, sử Thực lục viết: “Cho ruộng thờ cúng lãnh binh đã chết là Trương Định. Khi bấy giờ Bố chính sứ tỉnh Quảng Ngãi là Trà Quí Bình tâu lên nói một nhà Trương Định, cha con trung nghĩa trên soi xét đến biết đã lâu, xin cấp cho ruộng thờ cúng, để sung vào đèn hương, Viện Cơ mật xét lại, cho là người trong Nam mộ nghĩa như Trương Định thì có nhiều, chỉ thành tích chưa được hoàn toàn, nên đều chưa được xét đến, nghĩ nên đợi sẽ thi hành sau.

Vua không nghe, chuẩn cho ban cấp ngay 5 mẫu ruộng thờ cúng (Trương Định là người huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, nhưng trích ruộng ở nơi cận tiện chỗ ở để cấp cho) lấy người họ viên ấy là Văn Hổ làm thừa tự, trông coi cày cấy để phụng thờ, vợ của viên đã chết ấy (Thị Thưởng) tuổi đã già không nương tựa vào đâu được, chuẩn cho quan tỉnh cấp dưỡng cho đủ (mỗi tháng cấp tiền 20 quan, gạo 2 phương), đến nay lại chuẩn cho sau khi chết cấp cho 100 quan tiền” [3].

Thực dân Pháp truy lùng gắt gao nghĩa quân chống Pháp kể cả sau hòa ước Nhâm Tuất, như các lực lượng nghĩa quân Trương Định, Trương Tuệ, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, v.v... Pháp cự nự triều đình Huế tại sao vẫn ngấm ngầm dung dưỡng nghĩa quân chống Pháp. Thượng thư Bộ binh Trần Tiễn Thành đề nghị Nguyễn Trường Tộ soạn thảo một công văn trả lời Thống soái Pháp về vụ việc này. Tự Đức rất hài lòng và khen ngợi văn kiện ngoại giao lịch sử đó mệnh danh Thảo thư gởi Tây soái (Di thảo số 10). Xin trích dẫn nguyên văn [4].

Trước đây chỉ vì bản triều chưa hiểu rõ sự thế phương Tây, mà quý soái trước kia (khi ở Đà Nẵng) lại đến đột ngột, không nói rõ ràng làm cho bản triều không hiểu, đến nỗi bất đắc dĩ phải đem binh tồi ra chống đỡ. Đó cũng là do tình thế bắt buộc. Mong quý quốc cũng không vì thế mà trách giận lâu dài. Kế đến khi gác giáo bàn việc giảng hòa quý quốc đòi phải tạm cắt đất bồi thường chiến phí, bản triều đã lập tức nghe theo, chính vì muốn giương cao uy danh của quý quốc, mà cũng vì tin tưởng sau này quý quốc cũng sẽ hiểu rõ tình hình giao hảo của bản triều mà cho thương thuyết châm chước trở lại. Xưa kia, vua Anh Cát Lợi có nói: “Ta chưa lên giường ngủ thì chưa dám cởi áo”. Chúng tôi nghĩ rằng quý quốc vì thấy bản triều hiện tại chưa rõ sự thế, nên tạm thời bắt phải cắt đất bồi thường để đợi khi nào bản triều hiểu rõ đại thế quý quốc, cùng nhau liên hợp lâu dài, cho nhân dân hai nước chung hưởng hạnh phúc hòa bình, thì quý quốc khi đó sẽ lấy tình mà cư xử, để bản triều và các nước thấy rõ tấm lòng quý quốc là đợi lúc “có thể cởi áo thì cởi” chứ vị tất đã có cái thâm ý mặc mãi chiếc áo đó. Nếu không, lẽ nào quý quốc chưa bao giờ mới đến xứ nào đã đối xử nghiêm khắc ngay với xứ ấy mà lại riêng đối xử với bản triều sao? Có lẽ tình không phải vậy mà thế phải làm như vậy. Hiện nay tình giao hảo của bản triều đối với quý quốc thật giả ra sao, dân sự nhân cái cớ đó mà bất an như thế nào, quốc kế chắp vá hao hụt như thế nào quý soái cũng đã rõ. Ba tỉnh thuộc quý hạt, dân chúng chưa đồng lòng, khó bề sai khiến. Tuy với thế lực của quý quốc, kinh doanh tốn kém lâu rồi mà còn như thế, thì tình hình ba tỉnh trong như thế nào cũng có thể suy ra mà biết được. Dân thuộc quý hạt đã am hiểu phong tục luật lệ bản triều nay bỗng chốc thay cũ đổi mới tất sẽ cho là chướng tai gai mắt. Hơn nữa lại có những kẻ dựa thế hại người, nay thì phao tin nói quý quốc sắp thi hành những chính sách tàn bạo hại dân, mai lại nói bản triều sắp tiến hành khôi phục để giết dân, khiến đến nỗi dân tình Nam Bắc nghi ngờ sợ hãi. Phàm những chuyện đồn đại như thế không phải ít gì, tưởng quý soái cũng đã biết rõ. Như thế thì chẳng những quý quốc khó bề quản trị, mà bản triều cũng bị hại lây. Dân ở quý hạt và bốn phía xung quanh đã từng được quý quốc dạy dỗ dẫn dắt lâu mà còn như thế thì những nơi xa xôi và ở những miền man mọi sẽ như thế nào. Roi dài vẫn không vươn tới được, đó là việc dĩ nhiên. Tuy quý quốc gấp rút việc đua đuổi nơi xa ngự trị lâu dài để cầu đạt sự mong muốn lớn, tuy bản triều gấp rút xóa bỏ những lời gièm pha, mở lòng thành thật với quý quốc để cùng chung hưởng điều lợi, nhưng hai bên vẫn còn một đường ngăn cách. Không có cách giải quyết khéo léo để xóa bỏ đường ngăn cách ấy thì làm sao liên hợp với nhau được? Bản triều thiết nghĩ quý quốc phàm đến nước nào cũng trước dùng uy rồi sau thi ân, trước nắm lý rồi sau cư xử bằng tình. Uy và lý là tạm thời, ân và tình là trường cửu. Uy và lý là để mở cửa cho ân và tình. Khi đã vào khỏi cửa rồi thì như một nhà sum họp vui vẻ cùng nhau, thế là lấy cái ân tình trường cửu mà bù lại cái uy lý bất đắc dĩ trước kia. Đâu có chuyện vì những lời đồn đại vu vơ mà nỡ bỏ cái lòng chân thành thiện đạo vốn có của quý quốc? Bản triều thật đã thấy rõ như vậy, nên ngày đêm suy nghĩ mong sao mối quan hệ với quý quốc đã thân lại càng thêm thân, để chặt đứt đường ngăn cách ấy đi, và trong bụng cũng thành thật tin tưởng quý soái sẽ rộng lượng không vì những lời phao đồn mà mất tình hữu nghị. Thật như thế từ nay về sau, hai bên có thể lấy quyền lực của vua mà điều hòa sắp đặt, hóa khó thành dễ, biến dị thành đồng, nơi có bù nơi không, nhân dân tương trợ lẫn nhau, bản triều với quý quốc tuy hai mà như một. Thế lực của bản triều là thế lực của quý quốc. Sự cường thịnh của quý quốc tức là sự cường thịnh của bản triều. Con rết trăm chân thì không ngã. Như thế thì có nước nào dám khinh miệt được? Vì rằng người bình thường muốn giao đính với nhau phải dựa vào tình bạn mới thành. Nếu cứ thù nhau mãn đời thì người ta phải tìm người bạn khác để làm kẻ thân thiết để giúp đỡ lẫn nhau, chứ có ai sống cô lập không cần sự giúp đỡ mà thành được việc đâu. Bản triều thiết nghĩ hiện nay các nước phương Tây đại loại đều như thế, cho nên thiết tha muốn được ít nhiều “gần đèn thì sáng” ngõ hầu mãi mãi nhờ thanh thế của quý quốc mà mở mày mở mặt trong thiên hạ, và quý quốc cũng có thể nương cậy lâu dài vào bản triều như là phên giậu che chở cho quý quốc để gây ảnh hưởng rộng lớn ở phương Đông. Hai nước liên hợp với nhau lâu dài, chung nhau điều hay, món lợi, thì những điều sở cầu của quý quốc mới hợp với lương tâm, và giữ gìn được bụng ăn ở tốt đối với bản triều, để cho thiên hạ biết rõ quý quốc không phải lấy thế lực đàn áp người như các nước khác. Như thế thì bản triều sẽ tránh được cái tiếng xử sự hẹp hòi, khỏi phải chờ đợi gì nữa. Việc đó cũng do tự ý quý quốc thi hành ra trước đã. Bản triều lại thấy rõ người phương Tây phàm đến xứ nào thì trước hết dù có dựa vào thế lực của mình để chiếm cứ thị trường, nhưng cuối cùng cũng phải dựa vào quyền lực của xứ đó để kinh doanh khai thác, chứ chưa hề thấy dồn người cả nước mình đến đấy, bỏ cái gốc mà lo cái ngọn bao giờ. Giả sử vua xứ ấy không hiểu lẽ tương thông cứ dấy binh chống mãi thì cuộc tương tranh cũng không chấm dứt được. Cái thay vì để nuôi người giờ trở thành cái hại người. Cho dẫu có quyết đánh lấy người ta cho được thì cũng chỉ tạm một thời mà thôi và cái được cũng bù vào cái mất, người bị hại nhưng đâu phải ta chỉ có lợi mà không có hại? Cuối cùng vật gì quá cực độ của nó thì sẽ phản ngược trở lại. Đâu có thể nào an nhiên tọa hưởng mãi trên đất xứ người ta? Như các nước ở Tây Châu là những bằng chứng cho điều này vậy. Bản triều đã hiểu rõ lý lẽ ấy cho nên không chịu để mất cả hai, bản triều chẳng những muốn mình vẹn toàn mà còn muốn cho người vẹn toàn nữa, vì thế cho nên mới có đoạn tâm tình trên đây. Mong quý soái hiểu cho lòng thành thật của bản triều. Vì rằng những sự thế này không thể đem miệng lưỡi giả dối ra mà nói được. Cách ngôn nói: “Biết trước đã rồi sau mới muốn”. Bản triều đã biết rồi, nên mới muốn như vậy. Thiết tha mong quý soái đừng vì việc đã qua mà nghi ngờ việc sau này, để tăng thêm sự điều đình hơn nữa để bản triều giữ được vẹn toàn nghĩa liên hợp lâu dài, và quý quốc cũng mãi mãi tránh được cái tiếng lấy thế lực chèn ép người. Như thế thì hai triều đình sẽ cố kết thông đồng, và đại hoàng đế quý quốc với đại hoàng đế bản triều mãi mãi giữ được tiếng thơm trong thiên hạ, nhân dân hai nước lấy tình thân ái lễ nghĩa đối đãi nhau, chung nhau mối lợi cũng như sự vui buồn, như người trong một nhà. Như thế là tốt đẹp, quý soái có nghĩ như vậy chăng?

Nay kính

Ngày tháng 2 năm Tự Đức 19

(17-3 - 14-4-1866)

Châu phê của Tự Đức:

Bài này lý lẽ rất mềm dẻo, không chống, không theo, cũng rất nghiêm chỉnh và trang nhã khiến cho họ biết rõ có thế cũng không ỷ thế được, thật là không thèm dạy mà dạy cho họ vậy. [5]

Chú thích:

[1] Đại Nam thực lục, tóm tắt tin tức các tập XXVIII - XXXX.

[2] Đại Nam thực lục. Tập XXXI, sđd, trang 49.

[3] Đại Nam thực lục. Tập XXXVI, sđd, trang 118.

[4] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 167 - 169.

[5] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 167-169.