- 10 - Các đại thần của triều Tự Đức rất lúng túng trước tình thế nguy ngập của đất nước
Những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đệ đạt lên triều đình Tự Đức đều nhằm mục đích góp ý vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, mà cụ thể đương thời trước mắt là cứu quốc và canh tân xứ sở, tức chống Pháp xâm lăng và cải tiến xã hội dân tộc về mọi mặt. Chính quyền Tự Đức phải ban hành những quyết định sinh tử, sinh tử cho cả dân tộc. Lục bộ (lại-lễ-hình-hộ-công-binh) phụ trách nền hành chính và tư pháp. Viện cơ mật trực tiếp giúp nhà vua trong sứ mạng điều khiển quốc gia, ban hành những sắc dụ đối nội đối ngoại. Ta hãy tìm hiểu một số nhân vật trọng yếu của Viện cơ mật khi ấy:
Phan Thanh Giản trước khi đi Pháp (1833) mưu việc chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa - Gia Định - Định Tường, sử Thực lục ghi: “Tự Đức lại hỏi Phan Thanh Giản rằng: Khanh trước đây chuyên ý bỏ ba tỉnh ấy, hẳn là đã cân nhắc nặng nhẹ mà làm, hay có ý gì khác? Thưa rằng: thần xem thời thế đã kỹ, không làm thế không được. Nay thần vâng mệnh đi xứ, việc thành hay không thành là do ở hai nước kia (Pháp và Tây Ban Nha), thần chỉ biết hết lòng hết sức mà thôi.
Vua chảy nước mắt đoái bảo các quan rằng: đất ấy, nhân dân ấy, là công lao của triều trước họp tập, mở mang để lại...” [1].
Tháng 2 năm Giáp Tý (1864), sử Thực lục ghi: “Sứ bộ sang Tây về tới Kinh, vua cho Phan Thanh Giản lãnh Thượng thư bộ Lại, Phạm Phú Thứ làm Tả tham tri bộ Lại: (Ngụy Khắc Đản lấy hàm Quang lộc tự khanh biện lý bộ Binh) đổi bổ Đỗ Quang làm Tả tham tri bộ Hộ” [2]. “Cho lãnh Thượng thư bộ Lại là Phan Thanh Giản đổi lãnh thượng thư bộ Hộ. Vua cho rằng bộ Lại việc ít, nhân dụ đổi sang bộ Hộ để trù tính mưu kế về việc đủ nước giàu dân” [3]. Tháng 5, “Viện toàn quyền sứ thần nước Phú Lãng Sa là Hà Ba Lý đến Kinh định lại hòa ước. Sai Phan Thanh Giản sung chức toàn quyền chánh sứ. Trần Tiễn Thành, Phan Huy Vịnh sung làm phó sứ để hội bàn [4]. Toàn quyền sứ thần nước Phú đó là Aubaret. Thỏa hiệp mới gồm 21 điều khoản khá nặng nề cho chuộc ba tỉnh đông Nam Kỳ”. Sử Thực lục ghi thêm: “Đến khi chọn sung chức Toàn quyền đại viên, thì Phan Thanh Giản cố từ và nói: gặp lúc nhiều việc này, nên chọn được bậc đại thần vững như cột đá, như Trương Đăng Quế đảm đương chức ấy, thì mới mong làm được thỏa thiếp. Vua nói: Khanh đáng lấy lời nói của Trương Đăng Quế làm thắc mắc trong lòng, có phần thiếu ý hồn hậu. Bầy tôi thờ vua, cần nên hết sức làm những việc nên làm mà thôi, còn trái phải che sao được công luận của thiên hạ. Bèn cho Phan Thanh Giản sung làm chánh, và cho Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản làm phó sứ, từng đã vâng mệnh đi sứ, hơi biết phong tục Tây dương...” [5]. Ba vị đại sứ cùng với Aubaret thương thảo hiệp ước mới: điều kiện chuộc lại ba tỉnh khá nặng nề. Tháng 6 cùng năm, sử Thực lục ghi: “Vua bèn bảo bọn Phan Thanh Giản rằng: ba người bọn ngươi nên biết công luận không bằng lòng đâu, phải hết sức làm việc, cốt sao cho không thẹn hổ và không nhầm lỗi mới được...” [6]. Sử Thực lục ghi tiếp: “Toàn quyền sứ thần là bọn Phan Thanh Giản cùng sứ nước Phú là Hà Bá Lý đem sắc văn trao đổi cho nhau. Sứ nước Phú xin vào từ biệt trước mặt vua về nước... Vua ngự điện Cần chính. Hà Bá Lý và hai viên thuộc quan, tới sân làm lễ ba lần cúi đầu. Vua cho vời lên điện, cho ngồi và ban nước trà. Vua nói: gửi lời thăm quốc chúa được mạnh khỏe, từ nay đến trăm năm về sau, mọi việc đều được tất cả. Thưa rằng: không dám không vâng mạng. Bèn cúi đầu từ tạ lui ra. Khi sứ nước Phú đã về, bọn Phan Thanh Giản dâng sớ xin nhận lỗi. Nội các thần tâu nói: bọn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, trước kia vâng mạng đi sứ, sự thể quan trọng, đã không hết sức đòi trở lại, lại nhận tục ước mà về, đến nỗi sinh ra nhiều chi tiết, kịp khi khâm sai họp bàn, không hay bàn cãi giỏi; mà Trần Tiễn Thành, Phan Huy Vịnh giảng nói cũng không được việc gì; đều là không làm trọn chức vụ. Xin chiểu tội lịch chức phân biệt kết nghĩa. Vua sai đợi khi cùng giao lẫn cho nhau có thỏa thuận nên việc hay không, sẽ bàn tội cả một thể” [7]. Khi Aubaret trên đường về, thì nhận được mật lệnh của chính phủ Pháp không chấp thuận thi hành hiệp ước mới, nghĩa là không cho chuộc ba tỉnh miền Đông mà còn hàm ý sẽ cưỡng chiếm nốt ba tỉnh Tây Nam Kỳ.
Nguyễn Tri Phương là một tướng tài ba: năm 1845 đã giải phóng Campuchia khỏi nạn xâm lăng của Xiêm La; năm 1850 được cử làm Kinh lược sứ Nam Kỳ và thiết lập chế độ “đồn điền”; năm 1858 xây dựng tuyến phòng thủ chống Pháp và Tây Ban Nha xâm chiếm Đà Nẵng; năm 1860 được cử làm thống tướng xây đại đồn Chí Hòa chống liên quân Pháp - Tây xâm chiếm Sài Gòn,...
Đầu năm Giáp Tý (1864), sử Thực lục ghi: “Vua bảo tổng đốc Nguyễn Tri Phương rằng: Khanh nên chọn lựa nhiều người giỏi được việc tâu xin cất dụng, để đủ người phân phái, mới có thể phòng bị chu đáo được. Khanh là bậc đại thần, là người của trẫm nương cậy, là người giữ tính mạng cho ba quân. Tuy việc mạnh bạo tự mình đi trước quân binh cũng là một việc giỏi của người làm tướng, nhưng đó chỉ là trách nhiệm của bọn tướng tá nhỏ thôi... Từ nay trở đi, nên phải thậm thận, để lòng trù tính làm việc, cốt mong sớm trừ bọn giặc tàn, để thư sức quân, đáp lại ơn tri ngộ, đền lại chí nguyện xưa, rồi về triều giúp đỡ, sửa sang mọi chính sách, đó là lòng ta rất mong mỏi” [8].
Trương Đăng Quế phục vụ đắc lực bốn triều đại Gia Long - Minh Mạng - Thiệu Trị - Tự Đức. Trong thời gian Pháp đến xâm chiếm Nam Kỳ lục tỉnh, Trương Đăng Quế là vị đại thượng quan lão thành, được Tự Đức tham khảo ý kiến trong các điều kiện chi tiết hòa hay chiến và chỉ chịu nhượng bộ tới đâu. Tháng 3 năm Giáp Tý (1864), trong khi sứ bộ Phan Thanh Giản cùng Aubaret làm hiệp ước chuộc lại ba tỉnh Biên Hòa - Gia Định - Định Tường, sử Thực Lục ghi: “Vua đem tờ ước thư và các bản đình nghị, sai trung sứ đến hỏi (khi ấy đã về nghỉ việc). Đăng Quế tâu nói: trong tờ hòa ước, chỗ quan trọng nhất duy khoản thứ 2 về việc cắt bỏ giới hạn ba tỉnh, cho họ đóng ở các xứ ấy, và khoản thứ 19 số bạc bồi thường chia làm hạn năm, hai khoản ấy mà thôi. Về khoản cắt bỏ xin theo lời hoàng thượng phê bảo: giảng bàn cốt ở ý thành thực của mình để cảm động họ, khiến cho được phu thỏa. Đến như khoản bạc bồi, thì kẻ kia biết ta rất chú trọng về đất đai... đại thần nước ấy là Anh Đê Luy trước tiên đòi giao ba tỉnh (An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long) mới có thể khỏi phải bồi bạc để rung động sứ thần của ta. Kịp khi sứ thần ta không chịu nhận lời, thì lại thay đổi ngay, mà về khoản bồi bạc, lại đòi nhiều quá, nếu lúc đó mà ta nhất định cố ý phân tách biện bác lại, thì bọn kia sẽ châm chước giảm nhẹ xuống, như thế việc hoặc có thể xong được. Bỏ mất cơ hội ấy rất là đáng tiếc. Nay sứ thần ta hiện đã nhận đem bản sao về, sứ của họ lại đến bàn định, chỉ sợ kẻ kia cố chấp là đã có mạnh vua để làm cớ nói, không khỏi lại sinh ra chi tiết khác, khó giải quyết được. Thần đã nghĩ kỹ đến việc ấy, rất lấy làm lo ngại. Xin khi toàn quyền họp bàn, nên y theo như ta đã định, cố giữ bền lòng, chớ bị họ làm lay động, cứ lấy lẽ là dân nghèo của ít làm cớ nói, hoặc không thấy họ cự lại, may ra việc ta được xong. Bằng kẻ kia đòi lấy hằng năm hơn 33 vạn bạc thực là khó chịu nổi, nhất định không theo là phải” [9]. Tháng 2 năm Ất Sửu, sử Thực Lục còn chép “Cố mệnh lương thần, thái bảo, Cần chính điện đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, Kinh duyên giảng quan, Tuy thịnh quận công, trí sĩ là Trương Đăng Quế chết. Tháng trước, vua nghe tin Đăng Quế ốm, sai đưa cho sâm, quế và phái viên thái y đến điều trị. Rồi sai tỉnh thần Quảng Ngãi đến thăm hỏi nếu có muốn nói việc gì lợi ích cho quốc kế thì sao đệ lên. Đăng Quế thưa rằng: trải thờ mấy triều tới nay, từng đội ơn tri ngộ duyên phận đến như thế, còn nói gì nữa. Còn như việc nước, về đại đoạn như việc giảm bớt quan lại, thì về năm đầu Tự Đức đã trình bày cả rồi. Lại như việc dùng người, tìm người hiền, cũng đã trình bày những điều cốt yếu, tưởng không còn việc quan yếu gì nữa. Gần đây lại đem ba việc lớn, bí mật trình bày (chép ở tháng 6 năm trước), không dám có ẩn giấu...” [10].
Mấy đoạn trích dẫn trên đây cho thấy vua quan đương thời rất lúng túng trong sứ mạng bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc và cho thấy những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ dâng lên triều đình thật là sâu sắc và thực tiễn.
Chú thích:
[1] Đại Nam thực lục. Tập XXX, trang 25.
[2] Như trên, trang 66.
[3] Như trên, trang 73.
[4] Như trên, trang 84.
[5] Đại Nam thực lục. Tập XXX, trang 86.
[6] Như trên, trang 93.
[7] Đại Nam thực lục. Tập XXX, trang 96.
[8] Đại Nam thực lục. Tập XXX, trang 55.
[9] Đại Nam thực lục. Tập XXX, trang 85-86.
[10] Như trên, trang 177-178.