- 13 - Phân tích các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ ra bốn giai đoạn lịch sử-
Ta có thể chia các bản Điều trần của Nguyễn Trường Tộ thành bốn giai đoạn:
I) Khi Nguyễn Trường Tộ ở Gia Định từ năm 1861 đến đầu năm 1866, ông đã đệ đạt 7 bản điều trần: - Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (3.4.1863). - Bàn về tự do tôn giáo (29.3.1863). - Bài trần tình (13.5.1863). - Kế hoạch duy trì hòa ước mới (18-24.3.1864). - Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh (20.6-18.3.1864). - Về việc mua và đóng thuyền máy (cuối 1864-đầu 1865). - Về việc đào tạo người sửa chữa thuyền máy (tháng 3.1865).
II) Khi có tín nhiệm với triều đình, Nguyễn Trường Tộ ra Huế và về Nghệ An từ đầu năm 1866 đến đầu năm 1867, rồi đi Pháp, ông đệ đạt 19 bản điều trần: - Kế hoạch khai thác tài nguyên đất nước (tháng 2.1866). - Về việc mua tàu London (tháng 2 hoặc 3.1866). - Thảo thư gửi Tây soái (đầu năm 1866). - Tâm sự với Trần Tiễn Thành (19.3.1866). - Những việc giám mục Hậu có thể giúp (17.5.1866). - Ngôi vua là quý, chức quan là trọng (cuối tháng 5.1866). - Tình hình lương giáo ở Nghệ An (4.6.1866). - Lại tâm sự với Trần Tiễn Thành (15.6.1866).- Bài bạt mừng đào xong Thiết Cảng (giữa năm 1866). - Dùng Giám mục và linh mục vào việc canh tân (18.8.1866). - Về việc học thực dụng (1.9.1866). - Phải tạm thời dựa vào Pháp (3.9.1866). - Về khả năng lấy lại ba tỉnh đã nhượng cho Pháp (27.10.1866). - Kế hoạch vận động ở Pháp để giữ ba tỉnh miền tây (27.10.1866). - Báo cáo về việc gặp lãnh sự Tây Ban Nha (3.11.1866). - Báo cáo về một số việc cần làm (5.11.1866). - Kế ly gián Anh và Pháp (24.12.1866). - Về hội nước ngoài (1866?).
Trên đây là hai giai đoạn điều trần của Nguyễn Trường Tộ trước khi đi Pháp. Điều trần của ông không chỉ là lý thuyết suông, mà luôn đáp ứng với thực tế đòi hỏi. Triều đình Huế đang lo lắng vấn đề gì, thì Nguyễn Trường Tộ điều trần vấn đề đó. Như khi chúng ta thấy Tự Đức và triều thần rất lúng túng chưa biết phải làm sao để lấy lại ba tỉnh đã mất và canh tân xứ sở, thì ông đệ đạt bản điều trần dưới đây, xin trích dẫn:
Về việc học thực dụng
(23 tháng 7 năm Tự Đức 19, tức 1 tháng 9.1866)
Nguyễn Trường Tộ kính bẩm.
Tôi trộm thấy mấy lâu nay Triều đình lo gấp về việc tự cường, mở rộng đường ngôn luận, đặt ra đề mục mới, khiến cho trong nước, tài nghệ gì cũng không bỏ, một điều hay gì cũng không để sót. Dụng tâm đó của Triều đình chẳng những là cần yếu mà còn thiết thực nữa. Tuy nhiên ngoài việc khoa cử thường lệ chưa thấy có ngành nào khác hưởng ứng để đáp lại lòng mong muốn của Triều đình. Chính là vì việc bồi dưỡng nhân tài chưa được liệu trước...
Nay tôi xin đệ thêm một tập nói rõ về việc học tập bồi dưỡng nhân tài tức con đường rộng lớn để đi đến giàu mạnh. Những điều tôi nói trong đây tựa hồ như bỏ cũ theo mới, tôn người hạ mình. Nhưng “Mắng Phật tức yêu Phật”, vậy xin thấu cho nỗi khổ tâm của tôi ở đây, mà rộng lòng tha thứ...
Nay xin Triều đình đặt ra nhiều đề mục giao về cho các quan địa phương truyền hỏi bất kỳ người nào, bất luận lương hay giáo, ai tìm được thực lý, thực sự thì theo đầu đề viết thành bài nạp lên. Hàng tháng các quyển ấy được đưa về Kinh một lần để khảo duyệt. Bất kỳ quyển nào giúp ích cho việc cần gấp thì được ban thưởng và khuyến khích, rồi sức cho người ấy y theo quyển mà thi hành. Nếu việc làm phù hợp với lời nói và có ích cho việc công của nước nhà thì chiếu theo khoa mà bổ dụng. Nếu như có ích cho việc tư trong dân gian thì được cấp bằng để tự chế tạo ra mà phát hành. Nếu như quan địa phương có ý kỳ thị người nào mà giấu bài đi thì người ấy được phép lên tận Kinh tố cáo. Những đề mục đó xin kê ra như sau:
1. Xin cho các trường quốc học, tỉnh học, các trường tư và các bài thi Hương thi Hội đều chú trọng vào tình hình hiện tại, như luật lịch (21), binh quyền, các chính sự về công hình lại lễ tất cả đều được nói thẳng, không giấu diếm, có cái gì tệ hại, có cái gì hay ho, cái gì nên để lại, cái gì cần thay đi, những cái cần thiết trước mắt, những cái có thể phân tích tỉ mỉ xác đúng hợp thời, thì được coi là trúng cách, còn những chuyện cũ thì chỉ là những thứ yếu.
2. Xin đặt các khoa hải lợi. Những người biết làm muối theo cách thức mới, tìm ra các phương pháp chài lưới ghe thuyền đăng đó đánh cá, nuôi cá, ướp cá, v.v... hay hơn các phương pháp cũ thì sẽ xét mà ban thưởng.
3. Xin đặt ra khoa sơn lợi. Ai tìm được khoáng sản mới như những mỏ kim loại và ai nghĩ ra phương pháp dò tìm như thế nào, phương pháp luyện kim như thế nào, phương pháp khai quật như thế nào, lại nghĩ ra những cách hay để săn bắt tê giác, voi, để tìm của quý, để lấy gỗ rừng và các nguồn lợi của núi rừng hoặc căn cứ vào địa phương gần chỗ mình ở vẽ được đầy đủ hình thế những hang sâu rừng thẳm cao nguyên... đo đạc được xa gần, rộng, hẹp, cao, sâu hiểm yếu ghi chú rõ ràng từng khoản một, rồi đệ nạp lên trên, trên sẽ tùy mức độ xét lợi ích lớn nhỏ để ban thưởng.
4. Xin đặt ra khoa địa lợi. Phàm những nơi có đất hoang, không kỳ ở rừng núi, hoặc ở bãi biển, hoặc ở doi sông cát bồi, hoặc ở hồ ao lầy lội, một mặt có ai nghĩ ra phương pháp hay để khai phá bồi đắp đề phòng được hậu hoạn, một mặt có ai xét thổ nghi ở đấy trồng thử các giống cây như dâu, đay, lúa, đậu mà được tốt tươi khác thường thì cũng tùy theo lợi ích mà ban thưởng.
5. Xin đặt ra khoa thủy lợi. Khoa này ích lợi rất lớn. Có ai nghĩ được phương pháp mới như về đào kênh, đắp đập, hoặc giữ nước để phòng hạn, hoặc tiêu nước để chống úng, hoặc dẫn nước từ xa về tưới ruộng, hoặc tìm được mạch nước sâu để lấy nước uống, nếu dùng thử thấy kết quả, phương pháp đó có thể truyền bá thì ban thưởng nhiều để đền bù công lao (như Tứ Tuyên thường bị thủy tai. Nếu ai nghĩ cách trừ diệt được mối họa đó, thì nên dùng gấp để làm lợi cho dân).
6. Xin cho làm những đồ khí mãnh thường dùng hằng ngày xem có ai nghĩ ra cách chế tạo, dựa theo cái cũ mà chế ra cái mới, vừa tiện lợi mà giá không cao hơn vật phẩm thường.
7. Xin nghĩ đến các thức ăn uống xem có ai với vật thường dùng nghĩ ra cách làm cho nhiều thêm hoặc để lâu không hư hỏng mà mùi vị lại thơm ngon hơn trước, hoặc là tìm được những vật nào xưa nay chưa từng dùng để ăn mà lại có thể ăn được như các loại thức ăn cứu đói.
8. Xin nghĩ đến các vị thuốc có nhiều ở nước ta. Hơn nữa khí chất của nó thích hợp với tính chất của người nước ta. Nếu ai lấy được vị thuốc nào giống như của Trung Quốc, nghĩ cách tinh chế ra giống như vị thuốc Bắc, và nếu ai lấy được các vị thuốc tục truyền cũng như các vị thuốc mà các dân tộc thiểu số thường dùng, tìm cách trồng và bào chế được thì không kỳ nhiều ít đưa ra xét nghiệm thấy xác đúng sẽ cho biên vào bản thảo để ban hành.
Ba khoản nói trên là đồ khí mãnh, thức ăn uống và vị thuốc đều nên phân biệt thưởng cấp, cho phép người tìm chế ra được hưởng lợi để thù lao cho họ.
9. Xin cho những ai đi ra nước ngoài mà lấy được các thứ thổ sản, chọn những thứ thích hợp thổ nghi nước ta, đưa về trồng trọt xét thấy quả thực có sinh lợi thì cũng thưởng như người tìm ra vị thuốc.
10. Xin cho những nhà buôn trong dân gian biết góp vốn lập hãng buôn mà tiền vốn đến 100 vạn, hiện có xác thực thì ban thưởng cho họ. Do góp vốn hay là vốn riêng của một nhà mà đóng được thuyền lớn hay là mua được thuyền thì bất luận kiểu loại gì mà có thể đi sang Đại Thanh (25) hoặc ra nước ngoài buôn bán cũng ban thưởng cho họ.
11. Xin cho trong dân gian những ai lập các hội cứu tế như các loại hội cứu hỏa, hội bảo hiểm thuyền buôn, hội khơi cảng thu thuế, hội thay nhà nước sửa chữa xây dựng cầu cống đường sá nhà cửa, hoặc xuất tiền cho nhà nước vay để hàng năm lấy lợi, hoặc quyên tiền cho nhà nước để lập ra các nhà nuôi trẻ mồ côi, nuôi người nghèo khổ bệnh tật, và tự nguyện đứng ra quản lý những việc ấy, hoặc khi nhà nước có việc khẩn cấp có thể cho vay tiền từ một vạn trở lên, đều xét theo công lao sự việc lớn nhỏ mà phân biệt ban tước phẩm, hoặc tặng cờ biển để khen ngợi.
12. Xin không kể người nào hễ biết tiếng nước ngoài như Y Pha Nho, Anh Cát Lợi thì xếp vào hạng 2, tiếng Trảo Oa, Trung Quốc thì xếp vào hạng 3, tiếng những nước gần biên giới phía Tây nước ta như tiếng Miên, Lào thì xếp vào hạng 4, biết tiếng Pháp thì xếp vào hạng nhất. Nếu qua khảo hạch được đúng thì lấy danh hiệu là Hành nhân, Tú tài mà châm chước miễn nhiêu dịch cho họ vài năm hoặc trọn đời. Nếu ai tinh thông các sách về máy móc kỹ thuật của phương tây có ích cho việc thực dụng thì dịch ra, theo bản đồ vẽ lại hoặc một bộ, hai bộ, ba bộ không hạn chế, những sách dịch ra lấy 1.000 trang làm tiêu chuẩn, đệ nạp lên Bộ rồi cùng với Tây soái duyệt xét không sai thì ban cho là Cử nhân tại gia.
13. Xin cho các chỗ đất công ở trong ngoài Kinh thành nếu có nhà giàu nào xuất tiền nhà ra xây nhà ngói cho thuê, còn nhà tranh thì dỡ hết đi, thì sẽ tùy theo nhiều hay ít mà ban thưởng. Còn tiền cho thuê thì trích 2/10 cho vào công ích. Khoản này có nhiều trở ngại lớn, có nhiều lợi hại, Triều đình cũng đã hiểu rõ, tôi không dám nói thêm.
14. Xin cho lập viện dục anh, viện dạy trẻ, đây là một ngành hoạt động trong đạo giáo, các nước phương Tây chỗ nào cũng có. Nay nếu nước ta thiết lập được thì viết thư cho nước Tây cho phép các hội bên ấy được đến làm công tác cứu tế. Xưa, chính sách nhân hậu của Văn Vương lấy việc này làm đầu... Như vậy, nếu được chuẩn y thì mỗi tỉnh lập một viện và lấy các giám mục làm quản lý. Việc đó tôi xin lo liệu. Viện dục anh có ích cho trẻ con rất nhiều.
Các điều kể trên là tôi chỉ chọn những điều tầm thường dễ làm để dẫn tới nhiều tác dụng to lớn sau này. Đó chỉ là toát yếu mấy đề cương lớn mà thôi...
Nhìn chung lại người phương Tây họ tùy theo tính chất của con người mà bắt chước nhiều sự thực của tạo hóa, lấy chỗ sở đắc để di dưỡng tính tình, mà quy về đạo đức. Cho nên người dân cũng được nhiều thành tựu để đáp ứng trăm công việc. Nước ta thì chỉ quý trọng Nho sĩ, cho nên dân cũng chỉ biết theo con đường học Nho mà thôi. Nay nếu cho dân biết rõ rằng Triều đình cũng quý cả nhiều nghề khác, thì sẽ không mấy năm, dân chúng cũng sẽ cống hiến được nhiều nghề cho Triều đình.
Nay kính bẩm.
Lục bộ thượng thư, liệt vị đại nhân soi xét [1].
III) Trong thời gian Nguyễn Trường Tộ ở Pháp từ 10.5.186 đến 25.11.1867, ông đệ về triều đình Tự Đức hai bản điều trần Tờ trình về việc ký hợp đồng với hội nước ngoài (12.5.1867) và Tám việc cần làm gấp (15.11.1867).
Tự Đức cử một phái đoàn đi Pháp nhằm mục đích mua sách kỹ thuật với máy móc và mượn thầy dạy để lập trường kỹ thuật ở Huế. Phái đoàn gồm một quan văn là Nguyễn Tăng Doãn và một quan võ là Trần Hiếu Đạo để đại diện triều đình. Nhưng thực tế Giám mục Gauthier Ngô Gia Hậu làm trưởng đoàn và Nguyễn Trường Tộ làm phó đoàn. Nhân viên có linh mục Nguyễn Điều, phó tế Nguyễn Hoằng và Joannes Vị. Giám mục Hậu xin phép Bộ Truyền giáo để nhận công tác này và còn được ủng hộ 20.000 francs cho việc mở trường.
Trong khi phái đoàn đang ở Pháp, thì vào tháng 10.1867 Thống đốc Lagrandière bất ngờ đem quân cưỡng chiếm nốt ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên của Nam Kỳ. Ngày 15.11.1867, Nguyễn Trường Tộ đệ lên triều đình Huế bản điều trần Tám việc cần làm gấp, không biết ông đã được tin bất hạnh đó chưa? Theo thiển nghĩ đây là bản điều trần tha thiết và mạch lạc nhất, mà ông đệ đạt ngõ hầu canh tân triệt để đất nước về mọi mặt. Bản điều trần quá dài nên xin phép cho chúng tôi được trích dẫn thôi.
Tám việc cần làm gấp
(Tế cấp bát điều)
(Ngày 20 tháng 10 năm Tự Đức 20, tức ngày 15 tháng 1 năm 1867)
Tôi Nguyễn Trường Tộ xin đem những điều tạm thời cần phải làm để giải quyết những việc khẩn cấp thưa rõ như sau:
Trộm nghĩ cái thế lớn trong thiên hạ cũng giống như con người ta vậy. Con người từ thuở nhỏ rồi đến tuổi thiếu niên, tráng niên đến già lão kể là một đời. Phàm những việc làm lúc nhỏ, đến lúc thiếu niên mới biết những việc làm ấy là đáng buồn cười. Những việc làm trong lúc thiếu niên, đến tuổi tráng niên mới biết đã có nhiều lầm lạc. Duy những việc làm trong thời tráng niên mới là những việc làm định đoạt sự được mất...
Điều thứ nhất: Xin gấp rút sửa đổi việc võ bị.
Việc võ thực là rất khó! Học khó, hành khó so với văn gấp mấy lần. Xin phân biệt như sau:
Nên gấp rút phái người giỏi về địa lý binh pháp đi khắp trong nước để vẽ rõ bản đồ từng nơi một. Cũng phải lựa ra trong các sách viết về hình thế nước ta từ trước đến nay, trong đó có mô tả về núi sông hồ biển suối nguồn thung lũng đồng nội, những hình thế lồi lõm cao thấp, những địa thế có tính cách sống chết, những chỗ hiểm nghèo, nơi quay mặt, chỗ dựa lưng. Tôi thấy lối vẽ bản đồ của ta thật quá sơ sài, xem bản đồ ấy không bằng đích thân đến nơi thấy tận mắt, đồng thời mô tả sự thay đổi về khí hậu, tiết trời ráo hay ẩm, đó cũng là những yếu tố quan trọng đối với việc hành quân. Phải vẽ và chú thích rõ ràng rồi căn cứ từng khoản mà khảo sát kỹ lưỡng.
Phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ có thể đối phó được với giặc, cất vào kho vũ khí để sử dụng khi hữu sự. Xưởng chế tạo phải giữ nghiêm mật. Nếu có những người trí thức chuyên môn vẽ kiểu các loại đồn thành hay khí giới, phải đem thí nghiệm ở nơi bí mật.
Tôi thấy các nước phương Tây, ở các cửa biển và tỉnh thành, kinh thành chỗ nào cần có tường hào thì đều xây đào ngay thẳng chỉnh tề. Đường sá cũng thế. Mới trông qua tưởng không có thứ tự nhưng xét kỹ thì có hình thế rất quan trọng, dẫu không người mà cũng như có người vậy. Tất cả những nơi như cung vua, dinh quan, kho quân sự, cổng thành, đường sá và những chỗ quan yếu trong thành phố cũng như ngoài thành cần phải phòng thủ thì không kể mưa gió ngày đêm canh gác nghiêm ngặt như là đang có giặc bao vây tấn công vậy...
Điều thứ hai: Xin hợp tỉnh, huyện để giảm bớt số quan lại và khóa sinh.
Phàm làm quan, cần phải thanh liêm, có tài cán và siêng năng sáng suốt mới làm tròn chức phận, lại phải khéo điều đình phân xử mới giảm bớt những phiền nhiễu cho dân. Người giỏi hành chính thì một tỉnh đối với họ cũng chỉ như một huyện, một huyện cũng như một tổng mà thôi.
Nếu triều đình tìm được người nào có lòng ngay thực vượt hơn thường tình xin phái họ ra Bắc Kỳ và vào Gia Định giả làm dân thường thăm dò dân chúng mới thấy những lời nói của tôi không phải là vu cáo, mà còn thấy rõ ở phủ huyện còn trăm phần tệ độc tôi chưa dám nói ra...
Đối với các quan trong các Bộ ở Kinh thành từ chức Viên ngoại lang trở lên cần phải tăng thêm một nửa số để làm thay các công việc của Bộ. Còn các Đại thần của sáu Bộ thì chỉ nắm lấy đại cương điều khiển tổng quát mà thôi. Nay các đại thần trong các Bộ cũng phải thân hành làm những việc lặt vặt không kể ngày đêm như các thuộc viên ấy. Thế thì còn đâu thì giờ rảnh rang đầu óc trong sáng để suy nghĩ sắp đặt những việc lớn.
Điều thứ ba: Xin gây tài chính bằng cách đánh thuế xa xỉ.
Điều này nhằm từ bỏ những xa xỉ vô ích mà ngấm ngầm gây tệ hại lớn. Đây không phải kế hoạch gây tài chánh thực hành theo phương pháp mới như tôi đã trình bày ở Kinh đô năm trước. Điều này có hai cái lợi, một là sửa đổi dần dần những tiêu phí không cần thiết của dân chúng để họ được giàu có thuần hậu, hai là dần dần bổ sung tài chánh cần dùng cho quốc gia mà không tổn hại gì đến thường dân cả. Có bảy khoản xin trình bày như sau:
Xin đánh nặng vào thuế cờ bạc.
Xin đánh thuế rượu.
Xin đánh thuế thuốc lá.
Xin đánh thuế trà.
Xin đánh thuế hàng tơ lụa hoa mỹ.
Xin đánh thuế du hí.
Xin đánh thuế nhà những người giàu.
Pháp luật nước ta hiện nay còn sơ sót, huống nữa là tục lệ dân gian. Cho nên nước với dân tựa hồ mỗi đàng đi một nẻo. Tôi không phải hạng người chỉ biết góp nhặt lợi nhuận, đưa ra bảy khoản trên là vì thấy nó hợp lý và chính đáng, muốn sửa đổi những điều không tốt cho được tốt mà thôi.
Điều thứ tư: Xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng.
Không có một nền học thuật sáng suốt thì phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm trống rỗng. Tập tục sẽ làm thay đổi con người, dù người tốt cũng không tránh khỏi ảnh hưởng, huống gì những hạng dưới. Lòng người đã hư hỏng thì khó tìm được người chuộng nghĩa thực tâm sốt sắng việc công.
Ngày nay chúng ta, lúc nhỏ thì học văn, từ, thơ, phú, lớn lên ra làm thì lại luật, lịch, binh, hình. Lúc nhỏ học nào Sơn Đông, Sơn Tây mắt chưa từng thấy, lớn lên ra làm thì đến Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Lúc nhỏ học nào thiên văn, địa lý, chính sự, phong tục tận bên Tàu (mà nay họ đã sửa đổi khác hết rồi), lớn lên ra làm thì lại dùng đến địa lý, thiên văn, chính sự, phong tục của nước Nam, hoàn toàn khác hẳn. Lúc nhỏ học những lễ nhạc, cách ăn uống, cư xử chiến đấu, doanh trại từ xa xưa của Tàu, lớn lên ra làm thì phải dùng đến lễ nhạc, cách chiến đấu, phép ăn ở theo quan dân nước ta ngày nay. Còn biết bao nhiêu những việc tương tự như thế, bòn bút khô môi cũng không kể hết.
Nay xin lập các khoa sau đây:
Khoa nông chính.
Khoa thiên văn và khoa địa lý.
Khoa công kỹ nghệ.
Khoa luật học.
Dùng quốc âm.
Nói về chữ viết thì đó chỉ là những ký hiệu đặc biệt thay lời nói để ghi chép công việc mà thôi. Nước nào cũng thế. Hồi mới có loài người chưa có chữ viết nhưng cũng vẫn là người không mất mát sai lầm gì. Về sau công việc mỗi ngày một nhiều mới có sai lầm thiếu sót. Do đó những người có trí tuệ tìm ra một thứ hình vẽ để ghi lại. Cũng như lối làm ra bàn tính vậy, ban đầu lấy hàng một làm đơn vị rồi lên đến hàng chục rồi lên trên nữa là hàng ngàn. Dần dần trải qua nhiều thế hệ, công việc càng tăng nhiều thêm, số hình vẽ do đó cũng phải tăng lên. Chữ viết tăng theo tiếng nói. Nếu bảo chữ xưa không thể thay đổi tăng thêm, thế là sai. Nước nào có chữ viết riêng của nước ấy, đọc lên ai nghe cũng hiểu. Học là chỉ học cách viết ra chữ mà thôi. Vả lại trời sinh ra một nước thì cũng có một thứ chữ, một thứ tiếng của nước ấy. Nước ta là một nước có tên tuổi vào hàng nhì của phương Đông vậy mà chỉ một mình nước ta không có chữ viết. Có phải tại trời không thương ta chăng? Không, đó là lỗi tại ta học chữ nước ngoài lại tôn sùng thái quá, cho nên dù có kẻ tài trí xuất chúng cũng không dám sáng tạo ra cái khác, sợ người dị nghị!
Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Còn sáu, bảy ngàn tiếng đã viết được như chữ Hán thì cứ viết, chỉ đọc như quốc âm thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm”. Từ nay hễ có dịch các sách mới hoặc có người giỏi trước tác những sách về thời vụ thì bắt buộc dùng chữ Hán quốc âm [2]. Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán chẳng phải ta. Có phải giải quyết được dễ dàng những việc khẩn cấp mà thu được lợi ích rất lớn không?
Điều thứ năm: Điều chỉnh thuế ruộng đất.
Xưa lấy thuế một phần mười. Ngoài ra cũng có các khoản khác, như “cống”, “trợ”, “triệt” tùy lúc chứ không nhất định. Thuế có nặng có nhẹ tùy việc chứ không phải theo ý riêng hay tình cảm thiên vị gì cả.
Điều thứ sáu: Sửa sang lại cương giới.
Cảnh vực của một nước rộng hẹp bao nhiêu cũng như một nhà có bao nhiêu vườn ruộng. Chủ nhà không biết hết gia sản của mình có bao nhiêu vườn ruộng, tọa lạc ở đâu, như thế là thiếu sót với gia đạo. Đối với đất nước cũng vậy, nếu không nắm vững cương giới một cách chính xác (Để nắm vững một cách chính xác tình hình cương giới phải dùng phương pháp mới của phương Tây ngày nay chứ không thể theo phép tỉnh điền ngày xưa...
Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả hình thế mặt đất, như tôi đã nói ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Trong bản đồ phải có thuyết minh để thấy rõ các mối liên lạc. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một, nhưng nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy toán.
Phần đông các nước trên thế giới đã làm việc này rồi chỉ có nước ta chưa làm thôi. Nay xin cử gấp người đi học tập khoa này. Chỉ sáu, bảy năm cũng có thể dùng được rồi. Điều này rất quan trọng đối với chính sự quốc gia, không nên cho là cao xa khó làm mà không chịu hết lòng hết sức!
Điều thứ bảy: Nắm rõ nhân số.
Nước với dân như cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ mà không biết mình có bao nhiêu con, giàu hay nghèo, nghề nghiệp ra sao, sống hay chết, ốm đau hay lành mạnh, vui hay buồn thì chưa trọn đạo làm cha mẹ. Một nước cũng như một nhà. Cha mẹ quý con, Triều đình quý dân.
Tôi xin điều tra dân số không phải muốn để tăng thêm thuế ngay. Nhưng trước tiên là chấm dứt mọi gian dối xấu xa trong dân chúng...
Hãy xem liệt tổ triều đình ta khai mạc đất miền Nam, chăm lo dời dân mở đất. Đến nay từ Ải Vân vào Nam, giống ta ngày càng đông đúc, man mọi ngày một tiêu dần, để lại cho quốc gia không biết bao nhiêu ơn nhuần thắm...
Điều thứ tám: Lập Viện Dục Anh và Trại Tế Bần.
Tôi thấy hiện nay Triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng vì người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ không được hưởng sự cứu giúp bao nhiêu.
Không bằng phương Tây người ta tự mở đồn điền, cất nhà lớn, nhiều người hảo tâm bỏ tiền ra giúp. Ở các nhà thờ, trường học tư, nhà chung v.v... đều có đặt hòm cứu tế. Ai muốn giúp đỡ bao nhiêu cứ bỏ tiền vào hòm. Mỗi ngày mở hòm lấy tiền chia ra các nơi. Hội thánh thâu hết những người nghèo về nuôi, chữa bệnh. Người nào khỏe mạnh thì dạy cho làm ruộng và các nghề vặt. Người tàn tật thì có công việc tàn tật, không ai ở không. Ngoài ra còn dạy họ làm các nghề thủ công để bán lấy tiền phụ thêm vào việc chi phí sửa sang trong viện. Nếu còn dư thì mua ruộng vườn chăn nuôi sinh lợi thêm nữa. Còn rất nhiều cách làm hay khác không thể kể hết.
Tám điều trên đây, trích trong bài Tế cấp luận, đều là những việc cần phải làm trước hết đối với tình thế nước ta. Còn về thế tung hoành sẽ có một tập khác suy diễn rộng rãi hơn, ở đây không thể nói rõ hết được. Trong tập này cũng có một vài điều khoản nhỏ mới thêm vào. Cho nên tám điều này tên tuy cũ nhưng các việc đều mới, phát sinh từ tình thế nước ta hiện nay. Nếu làm đúng như thế sẽ bằng được như người ta hoặc hơn người ta. Nếu không làm, nhất định phải thua sút thiên hạ...
Những điều trên đây, khẩn cấp nhất là việc “Chấn chỉnh vũ bị”. Bổ sung vào đó là việc “Dẹp trừ tệ đoan, gây tài chánh”. Việc “Chỉnh đốn học thuật” là cái gốc lớn của quốc gia. Còn “Kiểm tra số đinh”, “Kiểm tra điền thổ”, “Sửa sang cương giới” là những việc cần gấp để làm cho nước mạnh. Tôi chỉ nêu lên lý lẽ và đề ra những nét đại cương mà thôi. Còn việc thực thi phải châm chước như thế nào cho thỏa đáng là quyền của Triều đình.
Nguyễn Trường Tộ ký [3]
IV) Thời gian từ khi đi Pháp về tới khi qua đời, tức từ đầu năm 1868 đến ngày 22.11.1871 nghĩa là gần bốn năm, Nguyễn Trường Tộ đã dâng lên triều đình Huế 31 bản điều trần. Đây là lúc tổ quốc lâm nguy tột bậc: Pháp đã chiếm hết sáu tỉnh Nam Kỳ và còn mưu tính xâm lăng toàn cõi Đông Dương - mà Đông Dương đương thời thuộc quyền chi phối của Việt Nam. Lúc này cũng là thời gian Nguyễn Trường Tộ có mức tin cậy nhất đối với triều đình và cả Tự Đức. Cho nên ông đã dâng được nhiều điều trần. Tiêu đề của những điều trần ấy cũng tạm đủ cho ta thấy ông đã thổ lộ tâm can thiết tha cùng với những giải pháp cứu nguy và canh tân đất nước. Ba mươi mốt điều trần đó là [4]:
Biểu tạ ơn vua (3.1868). - Tổ chức ngay việc khai mỏ đào tạo chuyên viên (5.3.1868). - Mục đích của sứ bộ đi Pháp (9.3.1868). - Việc lập sứ quán, cử phái bộ (12.3.1868). - Về việc tổ chức cho sứ bộ đi Pháp (12.3.1868). - Về việc gởi người sang Pháp học (13.3.1868). - Trả lời các câu hỏi của Triều đình (15.3.1868). - Nói thêm về văn bản ngày 16-2 Tự Đức 21 (15.3.1868). - Bãi bỏ việc cử sứ bộ đi Pháp (7.4.1868). - Thương thuyết với Pháp tại Gia Định (12.4.1868). - Tiễu trừ giặc biển (6.9 - 15.10.1868). - Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (1.2.1871). - Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (9.2.1871). - Bàn về việc cho Pháp thông thương để đổi lại sáu tỉnh (30.3.1871). - Bàn về quan hệ với người nước ngoài (5.4.1871). - Mở rộng quan hệ với Pháp và các nước (7.4.1871). - Kế hoạch vay tiền để dùng vào việc binh (10.4.1871). - Về việc gởi học sinh sang Singapore học sinh ngữ (14.4.1871). - Việc dịch các văn bản ngoại giao (29.4.1871). - Về việc cải cách phong tục (29.4.1871). - Thương lượng với Giám mục Croc (11.5.1871). - Tình hình chính trị nước Pháp với Công xã Paris (Tháng 5.1871). - Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng (19.6.1871). - Cần nắm vững tình hình chính trị ở Pháp (5.1871). - Canh tân và mở rộng quan hệ ngoại giao (15 - 20.9.1871). - Về chính sách nông nghiệp (4.10.1871). - Phải gấp rút tiến hành các kế hoạch (Tháng 10, 11.1871). - Nên mở cửa chứ không nên đóng kín (Tháng 10, 11.1871). - Bài khải quyên tiền sửa cầu. - Phong vũ biểu. - Tựa sách Đàm Thiên.
Chú thích:
[1] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 191-198.
[2] Tức chữ Nôm. (NĐĐ).
[3] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 225-281.
[4] Như trên, trang 191-196.