- 14 - Giả thử kế hoạch đánh úp Gia Định của Nguyễn Trường Tộ được thi hành!-
Nguyễn Trường Tộ viết bốn bản điều trần nhằm giải phóng Nam Kỳ lục tỉnh bằng “đánh úp”. Tiếc rằng đã mất ba bản, nay chỉ còn bản Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định, như ông đã viết: “Ngày trước tôi có bẩm ba tập, nghĩ đi nghĩ lại mới thấy có nhiều đường lối có thể làm được. Có điều là muốn suy nghĩ kỹ càng để cầu ổn thỏa” [1].
Chúng tôi thiển nghĩ với bản điều trần Bổ túc này cũng tạm đủ để thấy được phần lý luận áp dụng vào thực tế đương đại nhằm giải phóng Nam Kỳ và canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ; đồng thời cũng thấy sự quyết tâm và cương trực của ông trong việc bày mưu và đích thân đánh úp Gia Định.
Bản điều trần Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định có thể chia làm hai phần: một là giải phóng Nam Kỳ bằng ngoại giao; hai là bằng đánh úp.
Như chúng ta biết: đầu năm 1859, Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm thủ phủ Gia Định (Sài Gòn); đầu năm 1861, Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm dần thêm Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long; ngày 5.6.1862, đại diện ba nước Việt Nam - Pháp - Tây Ban Nha ký hòa ước Nhâm Tuất chủ yếu bồi thường chiến phí (!) cho Pháp - Tây Ban Nha và cắt cho Pháp ba tỉnh Gia Định - Biên Hòa - Định Tường làm thuộc địa; đầu năm 1867, Nguyễn Trường Tộ cùng Giám mục Gauthier - Ngô Gia Hậu đi Pháp mua công cụ và mời thầy dạy để mở trường kỹ thuật tại Huế theo yêu cầu của Tự Đức; tháng 6.1867, Pháp cưỡng chiếm nốt ba tỉnh Vĩnh Long - An Giang - Hà Tiên; đầu năm 1868, Nguyễn Trường Tộ hồi hương; năm 1870, chiến tranh Pháp - Đức, Pháp bại trận, Công xã Paris lật đổ Napoléon III, Đệ tam Cộng hòa Pháp ra đời, nội tình Pháp bối rối...
Suốt một năm tại Pháp, từ đầu năm 1867 đến đầu năm 1868, ngoài việc lo liệu mở trường kỹ thuật cho Huế, Nguyễn Trường Tộ đã có dịp nắm bắt được tình hình thế giới, được quen biết học giả và chính khách quốc tế, được quan sát trực tiếp cảnh quan phồn thịnh của nước Pháp về mọi mặt kinh tế, xã hội, khoa học, hành chính, giáo dục, v.v... Đồng thời cũng thấy được nội tình chính trị của nước Pháp và mối tương quan giữa Pháp và các cường quốc khác. Pháp không phải là nước hùng cường tuyệt đối như sách Doanh hoàn chí lược mô tả mà ông đã trích dẫn trong bản điều trần Hòa từ năm 1861.
Nguyễn Trường Tộ viết bản điều trần Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định ngày 9.2.1871. Phần đầu là dùng ngoại giao để giải phóng Nam Kỳ lục tỉnh. Ông viết:
“Một là gấp rút đi Tây, để lấy lại đất đai và gây cảm tình với Y Pha Nho, để tránh hiềm khích. Khoản này không kể việc họ đã yên hay chưa yên (hạ bệ vương quyền, lập cộng hòa), cũng cứ nên làm. Vì nếu việc họ chưa yên, thì ta lại phải đến nước Y dùng kế, cầu Y giúp ta để đuổi Pháp... “Người Pháp ở phương Đông chưa có thế lực lớn để quyết định, mà người Anh lại ngấm ngầm ghét Pháp, không giúp Pháp. Ở phương Tây, đã có nước Phổ (Đức) khiêu chế nước Pháp thì Y mới có thể đưa hết lực lượng phương Đông (Phi Luật Tân) hợp nhất với ta mà thành công được. Vả lại ta đã giao ước với Y rằng: Sau xong việc rồi, chẳng những cho họ thông thương, mà bản triều lại xin với Giáo hoàng rút hết giáo sĩ Pháp về Tây, mà sai giáo sĩ Y sang thay lĩnh việc đạo giáo để tiện việc quy vào một mối...
Vả lại giáo sĩ tuy vốn vô tâm với thế sự, mà suốt đời họ chỉ lo một điều là có hành đạo được hay không. Nhưng trong đó cũng có một hai người không yên phận lo việc đạo giáo. Trong khi người Pháp chỉnh cư những vùng mới lấy của ta, cũng muốn mượn thanh thế của họ để mưu đồ lợi riêng. Cho nên năm trước tôi đã bẩm miệng với quan Thượng thư bộ Binh (Trần Tiễn Thành) và bộ Hộ (Hoàng Thu) muốn nhân lúc đi Tây mà xin với Giáo hoàng rút giáo sĩ Pháp về, mà chỉ giao cho giáo sĩ nước ta trông nom hoàn toàn việc đạo giáo. Chính là vì thế, tôi nói như thế, không phải là phản đạo, mà chính là để bảo vệ đạo...
Nay muốn đề phòng mối lo xa, nên nhân lúc này đi Tây, trước chúc mừng Quốc trưởng mới, và lấy lời vấn an Triều đình họ. Khi đến bên ấy rồi, liền đi tìm người giúp giải quyết công việc cho ta (hoạt động hành lang)... Nếu họ chịu theo lời thương thuyết mà trả lại đất đai, thì đấy là kế hay nhất rồi.
Nếu việc còn dây dưa thì nhân lúc họ chưa kịp mưu tính việc nước ta, ta lấy cớ qua Y Pha Nho để tính toán món nợ cũ (chiến phí)..., để tìm người giúp... chắc chắn họ cũng sẽ hết lòng chỉ bảo hướng dẫn ta, để giúp ta đuổi Pháp...
Nếu triều đình cho là phải, xin hãy làm gấp. Còn sự thế nước Pháp đã bình yên, ta cũng nên nhân lúc chúc mừng đó bàn hòa luôn. Nếu triều đình muốn thăm dò ý Tây soái trước... thì biên cho tôi một phong thư làm bằng... Vả lại tôi quen biết nguyên soái (De La Grandière) giả vờ lấy việc khác đến thăm... Nếu nguyên soái không bằng lòng, ta cũng có thể nhân lúc trò chuyện dò xem ý hướng để lo liệu vịệc ta, và cũng nhân đó thăm dò xem sự thế đáng phải vây cánh của nước họ ra sao để quyết định việc đi Tây” [2].
Kế hoạch đánh úp Gia Định
Nguyễn Trường Tộ viết tiếp: “Con đường thứ hai tức là kế đánh úp như trong tờ bẩm trước tôi đã trình bày. Nhưng sự thế trong tờ bẩm trước, tôi nghĩ lại kỹ càng, còn có một vài chỗ chưa ổn, hoặc có thể dễ bị lòi mối ra được. Đối với bản thân tôi, dù sao cũng cam chịu, nhưng về triều đình hoặc giả nhân thế mà sinh chuyện chăng? Còn như các khoản ở đoạn sau trong tờ bẩm mới đây, mới bảo đảm khỏi sợ lộ. Dù cho việc nước họ đã yên, giặc miền Bắc đã dẹp, ta cũng có thể dùng kế ấy mà chắc chắn họ không thể khám phá ra được.
Nay tôi xin nói những chỗ có thể nghi nghờ được ở trong tờ bẩm trước. Vì tôi đi lần này, tuy trong bộ văn nói là đi lo việc học sinh, mà mọi người cũng có kẻ bảo là sứ bộ đi Tây, không phải chỉ chuyên một việc học sinh mà thôi. Đến sau thấy tôi đi thẳng vào Gia Định ở lại lâu trong ấy, tuy không biết để làm gì nhưng cũng sinh nghi. Đấy là một điều.
Tôi đi vào Gia Định liền đi giảng đạo thì giám mục nơi đó rất mừng, nếu tiện sẽ báo tin ngay cho giám mục Hậu, khiến người ta sinh nghi. Đây là hai điều.
Tuy Nguyên soái Gia Định biết tôi không có ý can dự việc đời, nhưng vẫn biết tôi có tài ứng dụng với đời, chắc chắn Nguyên soái Gia Định sẽ đem việc ấy ra hỏi Giám mục Hậu xem có thật tôi bị người khác bức bách mà không dám về không? Nhân đó Giám mục sẽ bảo tôi ra làm việc cho y. Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, Nguyên soái Gia Định đã nhiều lần muốn đem công việc bộ Công hết cho tôi. Còn nếu Giám mục Hậu đem hết lai lịch của tôi nói với y, thì y không khỏi sinh nghi. Đó là ba điều.
Phàm đánh úp người, phải thừa lúc xuất kỳ bấy ý mới thành công. Vả lại phải có nhiều người Đàng Ngoài cùng làm việc đó, mới dương được khí thế của người Nam và người ta càng tin là đúng...
Nay xin triều đình dùng kế đi Tây trước, nếu việc không xong (không thâu hồi được Nam Kỳ bằng thương thuyết), xin tạm giả vờ bổ tôi làm một chức quan lớn trong bộ Công... Sau khi nhận chức, tôi liền xin về làng một hai tháng để yên ủi mẹ già rồi mới đi nhận việc. Khi tôi trở về những người đồng đạo sẽ đến hỏi tôi sao lập trường trước sau bất nhất, sao lại ra làm quan? Tôi sẽ trả lời rằng tôi vốn không có lòng cầu đi làm quan, nhưng vì có làm quan thì mới dễ bề tâu thưa để giúp cho đạo giáo...
Sau khi lên Kinh, tôi sẽ tâu bày một tập, cố ý nói những điều không nên nói, mà còn can phạm đến phép nước nữa. Bấy giờ Bộ sẽ nghị bàn buộc cho tôi là mới nhận chức quan, chưa làm được gì đã nói càn trái phép, đáng lẽ phải nghiêm trị, nhưng nghĩ đến tình trước, nên cho đày đi Bình Thuận để trị tội. Lúc bấy giờ tôi mới ngầm viết thư cho Giám mục Hậu nói rằng: Tôi vốn có lòng vì nước vì đạo, mới trình xin như thế, không ngờ lại bị trách phạt, tâm sự không làm sao bày tỏ được. Khi đến Bình Thuận, tôi đã đút tiền hối lộ cho quan coi tù rồi trốn vào Gia Định giúp Tây, đề lo trả thù.
Tây soái được thư của Giám mục Hậu, thấy tôi đã là quan lớn của Triều đình, đã có danh vọng, có thể thu phục được lòng dân sáu tỉnh, vả lại vì đạo mà bị tội mới đến đây thì một là y sẽ đem lòng thương xót, hai là sẽ trọng tư cách làm người của tôi mà tin lắm, không nghi ngờ gì mà lại trọng dụng thêm.
Tôi liền nói: “Nếu vội nhận chức quan to, sợ Triều đình ghét mà bắt tội anh em. Tôi hãy xin tạm ở ngoài giúp việc, đợi khi nào bí mật đem được người nhà vào Nam, sẽ nhận chức. Nay chỉ xin tạm nhận chức quan suông mà thôi, còn bổng lộc thì quyết chưa dám nhận (nếu nhận bổng lộc của họ mà lại ôm kế độc đối với họ thì hại nghĩa tôi không yên lòng). Lúc bấy giờ tôi sẽ giúp việc cho họ đôi chút. Chẳng bao lâu, tôi sẽ mật báo với họ rằng: “Nghe nói nước Nam, việc ngoài Bắc đã yên, rất giận việc nước Tây không trả đất đai lại, muốn ngấm ngầm xúi dân làm lọan để phá rối ta, chưa biết có quả như thế không? Nhưng tình hình này không thể không có. Tôi xin đi khắp sáu tỉnh để bí mật thăm dò...
Ở trước mặt Tây soái tôi đã mật mưu như thế, thì ngày sau tôi đi dụ dỗ khắp nơi, nếu có người biết mà mách lại sẽ bị Tây soái cười thầm. Như thế những người đồng lòng với tôi sẽ giữ được vô sự. Tôi đã họp được nhiều người, ở đâu chuẩn bị ở đó, như các khoản đã nói trong các tờ bẩm trước. Lúc bấy giờ tôi lại nói với Tây soái rằng: “Tôi rất oán ghét nước Nam, ý muốn nhóm họp nhiều người đợi ngày nào nước Tây gây việc với nước Nam, sẽ xin ra giúp sức để hả cơn giận...
Như thế chúng tôi tập hợp người tại chỗ để chuẩn bị mà người Tây không thể nghi ngờ gì cả. Tôi lại nói với Tây soái rằng: “Lúc trước tôi ở Đàng Ngoài, tất cả những người có thầm ôm chí khác từ Quảng Nam trở ra Bắc, đều đi lại với tôi, những người có tài năng dùng được, ước chừng bốn, năm trăm người, trong đó có chừng 100 người rất là kiệt liệt, đã từng nói với tôi là muốn vào Gia Định, nhờ thanh thế người Tây...
Còn mật hiệu của Tây tôi sẽ xin gửi ra, để cất giữ tại Bộ. Bấy giờ Triều đình sẽ phái vào nhiều người dòng Tôn Thất, các quan võ và những người tình nguyện vào ngũ như tôi đã nói trong tờ bẩm trước, và sẽ trao mật hiệu của Tây cho họ.
Ngoài ra lại xin sai một viên quan thân tín, giả làm đầu đảng vào trước, để trông coi việc ấy. Còn ngoài ra, có quan nào vào, tôi chỉ nói với Nguyên soái rằng đấy là hạng kiệt hiệt. Còn những người tình nguyện vào ngũ có lén vào, tôi sẽ bảo đều là hạng thủ hạ của đảng ấy, có thể sai khiến được. Rồi sau mỗi phủ huyện dùng kế, cho năm sáu người được thân cận với họ, kết hợp với người sở tại Nam Kỳ, như thế cũng đủ đánh úp được.
Và gần trước ngày cử sự, tôi đã tìm một nhà người có đạo (phải người có đạo, Pháp mới không nghi) ở huyện Tân Hòa, một nhà ở Gia Định, chuẩn bị thật chu đáo bí mật. Rồi quan tổng binh đại thần giả làm người buôn đến ở huyện Tân Hòa, quan phó đại thần đến trú ở Gia Định để chỉ thị phương lược, bố trí vòng lưới. Còn tôi thì qua lại truyền báo cách bài trí.
Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dung kế (khoản này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá để ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ, đếu bị chìm hoặc bị vùi xuống dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết. Còn việc bố trí trên đường bộ, cũng giống như các tờ bẩm trước đã nói, nay không bẩm lại nữa...
Vả lại khi việc đã gần được phân nửa, tôi sẽ nói với hắn rằng: “Tất cả những người tiềm phục ở Bắc Kỳ, một nửa đã vào Nam giúp việc cho Tây, như cọp mọc cánh. Nếu ngày sau Tây triều muốn hoành hành nước Nam, theo đà ấy cũng không khó. Chỉ thiếu một điều là các quan võ nước Tây không khéo trị dân, vì thế mà ân đức chưa thấm vào lòng dân. Nếu được quan văn đến cai trị dân, như nước Tây thì rất tốt”. Như thế Tây soái tất sẽ đổi hết quan võ, rút hết lính chiến đấu về để làm công trạng cho mình, mà xin quan văn sang ngồi một chỗ mà cai trị, thì thế lực họ lại bị cô lập thêm...
Như thế Tây soái chắc mừng lắm, lại tin là tôi có lòng vì hắn, có thể tin dùng được như thế tôi mới thi hành được kế hoạch. Còn các kế hoạch khác bồi bổ cho kế này, tôi đã nói rõ trong các tờ bẩm trước.
Làm được như thế, mới là mươi phần thỏa đáng và Tây soái phải tin phục không mảy may nghi ngờ nữa.
Còn tôi sau khi đã trốn vào được, Triều đình cũng nên sai một viên quan thân tín vào theo để cùng bàn bạc phải chăng với tôi, làm chỗ trông ngóng trước cho những người đồng lòng. Nhưng ở trước mặt quan Tây, tôi nhận làm người thân trong khi đi chơi nói chuyện với mọi người, tôi lại nói kín với quan Tây xin đem người ấy giả làm quan triều mang đủ ấn tín, khiến các nhà quyền quý được thấy, thì địa phương mới tin là thật. Như thế mà họ không theo, cự tuyệt không nhận, thì mới tin là thật lòng theo Tây. Như thế quan Tây sẽ cho là mưu kế tuyệt diệu, mà vị quan to ấy cũng được công nhiên không quan ngại gì nữa.
Tôi lấy các sự lý trình bày trong các tờ bẩm trước, mà suy ra kế trong tờ này, mới biết thật là vạn toàn. Nhưng kế này không phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành. Phải đến dần dần Tây soái mới không nghi. Nếu đến một cách gấp rút đột ngột, không khỏi khiến họ ngạc nhiên suy nghĩ. Vì thế mà phải hai năm. Nhưng cũng phải tìm người giúp ngoài thi hành song song với kế này, để ngăn chặn việc họ sẽ báo thù thì mới được hoàn toàn tốt đẹp. Mà tìm người giúp tay cũng phải nhân lúc họ có việc, mới dễ giao thiệp rộng rãi. Kế này dù khi việc nước họ bình yên rồi, dung cũng vẫn được. Cho nên không cần vội vàng. Nếu Triều đình dùng kế đi Tây trước mà thành công được, thì đấy là ở ngay nơi miếu đường mà đánh được giặc. Nếu không xong thì làm kế này, mới hả lòng. Đến lúc đó, các quan lớn Triều đình sai đi cũng biết là lúc núi cùng sông hết rồi.
Chỉ có một kế ấy mà thôi (Kế ấy chỉ thi hành được một lần, không thể thi hành thêm lần thứ hai. Nếu sai trật quyết không thể làm lại lần nữa. Xin suy cho kỹ), phải nuốt giận mà vào, thừa lúc họ đương buông lỏng không phòng bị mới có thể đuổi giết họ được.
Nếu tôi có thể phục vụ được gì, nhất nhất tôi xin theo sự sai khiến của Triều đình, quyết không có sự gì ân hận về sau. Vì vốn đã sẵn có bụng ấy mới dám nói ra, chứ hối hận thì có ai ép buộc tôi phải nói ra đâu!
Nhưng có một việc chưa yên tâm, là sau khi tôi bị đày, mẹ già tôi rất là đau thương, khiến tôi trái với đạo hiếu. Việc đó thật không có kế gì gỡ ra chịu bất hiếu được. Nhưng tôi đã nhận quan chức Triều đình, thì phải làm việc công mà quên việc riêng, không thể vẹn toàn cả hai được.
Tôi lại có việc tâm sự xin trần tình một lời lên rằng: Nếu được Triều đình tin dung thì trên đội đức Hoàng đế, uy quyền Triều đình, giữa nhờ các quan tổng binh chỉ vẽ phương lược, dưới nhờ tướng sĩ đồng lòng, may mà quét sạch quân thù, khi trở về, tôi xin từ chức về vườn ngay để phụng dưỡng mẹ già mà thôi. Khi nào Triều đình có việc cần đến, tôi lại vâng mệnh, việc xong lại xin về như trước, còn tước lộc quyết không dám nhận.
Đấy là tâm sự của tôi, muôn trông Triều đình hứa trước cho, tôi mới dám nhận chức. Nếu không thì tôi xin mình trần cam chịu sai phái mà thôi. Tấc lòng mọn mạy, kính xin bày tỏ” [3].
Nguyễn Trường Tộ đệ tập Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định lên Triều đình Huế ngày 9.2.1871, chỉ 10 tháng sau, ngày 22.11.1871 ông qua đời tại Xã Đoài. Tất nhiên, Triều đình Huế không còn quan tâm đến kế hoạch mạo hiểm này nữa.
Chú thích:
[1] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 325.
[2] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 325-327.
[3] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 328-331.