← Quay lại trang sách

Tạm kết: Việt Nam thời Nguyễn Trường Tộ-

Trương Bá Cần nhận định:

“Nước ta, thời Nguyễn Trường Tộ cũng có vua, có quan lại, có Triều đình. Nhưng tất cả quyền hành là ở trong tay vua, các quan lại chỉ là bầy tôi, hiểu theo đúng nghĩa đen của từ đó. Bởi vì vua muốn thăng ai, giáng ai thì đều trọn quyền và lắm lúc rất tự tiện. Đọc chính sử nhà Nguyễn, khi thấy những quan đại thần, đầu triều như Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành... mỗi lần đi thương thuyết xin đòi lại ba tỉnh, sáu tỉnh Nam Kỳ không được đều bị giáng ba bốn cấp, ai mà chẳng buồn cười.

Trong một chế độ chính trị tập trung quyền hành như thế, nếu vua không quyết định làm, thì chẳng ai dám quyết định cả.

Vua Tự Đức, theo như nhiều tác giả bình luận, cũng là một con người thông minh, có thể hiểu được nhiều việc, mặc dầu bị đóng khung trong nội cấm. Từ đầu năm 1866, hình như nhà vua bắt đầu để ý đến Nguyễn Trường Tộ, giao cho Nguyễn Trường Tộ đi tìm mỏ than, rồi lại sai Nguyễn Trường Tộ cùng với Giám mục Gauthier đi Pháp thuê thầy và mua sắm dụng cụ mở trường kỹ thuật theo phương pháp Tây phương ở Huế. Đầu năm 1868, khi phái đoàn Nguyễn Trường Tộ và Giám mục đem các dụng cụ máy móc và sách kỹ thuật về, nhà vua rất vui mừng và săn đón, việc mở trường coi như đã sắp hình thành. Nhưng do phản ứng của sĩ phu khắp nơi, sợ ảnh hưởng của Tây phương, sợ ảnh hưởng của Công giáo, nhà vua lại chùn bước, việc mở trường bị bỏ dở, các sách vở và máy móc dụng cụ, tốn hàng chục ngàn quan Pháp mua về chỉ để chất đống trong kho cho tới hư hỏng. Vua Tự Đức là ông vua nhu nhược, sợ sự chống đối của sĩ phu, không bao giờ dám quyết định một điều gì nữa, chỉ để cho thời cuộc trôi qua, dẫn đưa đất nước từ thảm họa này tới thảm họa khác.

Sĩ phu nước ta lúc bấy giờ là những nhà nho chỉ biết nho học, chỉ biết Trung Quốc cũ, chứ không biết gì về thế giới bên ngoài, không biết gì về khoa học kỹ thuật Tây phương.

“Các nhà nho ta đời bấy giờ, theo nhận định của cụ Cao Xuân Huy, nhìn cái hiện thực tư bản chủ nghĩa mới xuất hiện bằng những cái khung cố định, tức là những phạm trù phong kiến đã có hơn hai ngàn năm sinh mệnh... Do đó họ thấy trong cái hiện thực mới những hiện trạng phi chính thường và quái gở, nhất là họ có những nhận định rất sai lầm về văn minh khoa học kỹ thuật của Tây phương. Đó chính là môi trường tư tưởng trong đó sản sinh ra tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Trong khi chung quanh người ta nhìn hiện thực mới bằng những cái khung cũ kỹ, do đó nhìn sai, nhìn lệch, thì chỉ có Nguyễn Trường Tộ có đủ nhãn lực để nhìn đúng hiện thực ấy” (Trích Cao Xuân Huy, Tình hình xã hội và tư tưởng Việt Nam thời Tự Đức. Tài liệu giảng dạy ở Đại học Tổng hợp Hà Nội, chưa in).

Điều không may cho Nguyễn Trường Tộ chính là đã ở vào một thời đại với một ông vua nhu nhược, với những quan lại vô trách nhiệm, với một tầng lớp sĩ phu lỗi thời, lạc hậu [1].

Trên một thế kỷ nay, kể từ Phan Bội Châu nhắc nhở tới Nguyễn Trường Tộ trong Việt Nam quốc sử khảo viết bằng chữ Hán xuất bản năm 1908 tại Nhật Bản, đã có nhiều học giả công bố tác phẩm nghiên cứu tường tận về nhân vật lịch sử Nguyễn Trường Tộ, kể cả tác giả ngoại quốc như Georges Boudarel.

Trong số báo Công giáo và Dân tộc ra ngày 12.7.1981, Đào Duy Anh viết bài Tôi đã mang tội để mất những tư liệu quý về Nguyễn Trường Tộ như thế nào? Và năm 1988, NXB Thành phố Hồ Chí Minh đã ấn hành cuốn Nguyễn Trường Tộ - Con người và di thảo của Trương Bá Cần. Sách dày 516 trang với cỡ lớn 18 x 27 cm, dịch từ Hán văn sang quốc ngữ 58 bản di thảo còn lại cùng với những chú giải công phu và những phụ lục từ Cơ Mật Viện và các tác phẩm khác có liên quan.

Thế nên, tôi mạo muội chỉ viết về một góc nhỏ hẹp là Nguyễn Trường Tộ với triều đình Tự Đức để giúp một số bạn trẻ ít có cơ hội tiếp xúc với những công trình giá trị lớn đến nay khó tìm kiếm.

Công việc của tôi thật đơn giản, chỉ là sao chép lại một số ít di thảo và những đoạn trong Đại Nam thực lục hoặc sách sử khác có liên quan. Tuy nhiên thế nào cũng còn nhầm lẫn hay sai sót, xin quý bạn đọc vui lòng chỉ bảo cho. Tôi xin chân thành cám ơn.

Ngày 23.3.2013

Nguyễn Đình Đầu

Chú thích:

[1] Trương Bá Cần, Nguyễn Trường Tộ..., sđd, trang 99-100.

HẾT