PHẦN THỨ NHẤT - TU TẠO -I - …Tam thập nhi lập-KHỔNG TỬ
ÔNG ký Thảo, hai tay chắp sau lưng, vừa đi vừa suy nghĩ, lúc ấy là một chiều chủ nhật. Chỉ có buổi chiều chủ nhật, ông mới rảnh rang đôi chút đi bách bộ trên con đường vắng này, dưới hai hàng soan tây thưa lá hở ra từng mảnh trời xanh.
Buổi sáng nay ông vẫn ra sở với ba bạn đồng sự. Nhà Nông Phố, dạo ngày mùa, người trả nợ nhiều không lúc nào ngớt. Ông Chánh sở lại là người chăm chỉ.
Không phải chỉ buổi sáng nay, từ mấy tuần rồi, và chẳng biết đến bao giờ nữa, buổi sáng chủ nhật thế là mất đứt. Tuy nhiên cả bốn ông ký cũng chẳng ai kêu ca.
Một lần, ông Chánh đã giảng giải cho cả mấy ông ký: việc không phải là việc riêng của ông, ông cũng chỉ là người đi làm công cuối tháng lĩnh lương, nhưng công việc sở nhiều thì phải góp sức, thêm giờ làm cho hết chứ, cho xong bổn phận chứ. - Vả lại trong khi các anh làm việc tôi có chơi đâu!
Cả bốn ông ký - Phương, Tạo, Thu, Thảo - cùng cho là có lý, chỉ phàn nàn riêng với nhau:
- Tây ‘‘họ’’ chăm thật!
Riêng ông Thảo, đi làm buổi sáng chủ nhật cũng chẳng là cực hình gì. Không cũng đến tổ tôm cho hết ngày.
Ông Thảo mới vào làm nhà Nông Phố được ba tháng. Bây giờ người ta gọi ông là ông ‘‘ký’’ Thảo. Trước kia ông là ông ‘‘giáo’’ Thảo, một ông hương sư tháng mười hai đồng rưỡi bạc lương. Ông thuộc vào cái hạng, người ta hay chỉ bằng mấy tiếng trạng từ: hiền lành thật thà. Không mấy khi ông có ý định xoay ngang, rẽ tắt, dường như lúc nào cũng biết tự túc. Học chữ nho đến năm mười bẩy tuổi, đáng lẽ xoay sang học chữ Tây, chính cụ Cử thân sinh cũng biết vậy, nhưng trong cái gia đình đông con lo làm sao cho đủ được mọi đứa.
Ông Thảo là con thứ năm; ông cả, ông hai đã là yên phận, ông ba không chịu học, cụ Cử cố lo cho người con thứ tư, mong thằng anh sẽ dắt thằng em. Cái ông thứ tư ấy đã làm trái bổn phận. Ông Thảo và ông em là ông sáu Mai đành chịu thiệt thòi.
Tuy vậy lợi dụng những kỳ nghĩ hè, anh ở nhà ông cũng học được ít nhiều chữ Pháp. Đỗ được bằng Sơ học yếu lược, nhưng không đỗ được bằng Sơ học Pháp Việt để lo một chân thư ký giây thép hay hỏa xa, ông Thảo đương lúc thanh niên không biết mình sẽ làm gì đây. Với cái vốn trí thức ít ỏi, với cái gia sản vài ba mẫu ruộng, lại không có tính láu lỉnh khôn khéo, mãi sau ông mới chạy được chân hương sư, tưởng mình đến già làm kẻ trông nom việc giáo dục cho con của mấy ông lý ông xã trong làng.
Ông lấy vợ từ năm mười bảy do ý muốn của cha mẹ. Người vợ không phải tự ý ông chọn, nhưng đến lúc này cũng được bốn đứa con: ba trai một gái. Đứa lớn lên chín, đứa thứ hai lên sáu, ngày ông dạy học vẫn cùng ở để ông trông nom.
Chính ông cũng không ngờ lại có sự thay đổi để chuyển cái địa vị ông giáo nhà quê thành một ông ký nhà Băng. Người em thứ bảy, ông giáo Chi tội cho cảnh anh, nhận thấy cái chỗ khuyết người ở nhà Nông Phố tỉnh Bắc Giang, mới khuyên anh nên xin vào làm.
Ông Trời kể cũng chí công, chí minh. Công việc của ông ký Thảo thật vừa với sức ông. Lắm lúc ông tự buồn cười vì những năm học chữ Hán bây giờ dùng để xem mấy cái văn tự.
Người nhiều, chỗ làm ít, lo một chỗ thật đã khó. Được một chân thư ký, tư sản của ông Thảo hụt đi, chỉ còn có một mẫu ruộng và mấy sào vườn.
Lúc mới đến Bắc Giang, ông ký nhà Băng mới chẳng quen ai. May gặp ông Tú Minh, người làng, làm thừa phái. Trong lúc chưa có chỗ ở, ông Thảo về trọ nhà ông Thừa. Ở đây chỉ tạm thời, mà ba tháng qua, ông vẫn chưa cho vợ con lên. Bà Thừa đã hỏi giọng nửa đùa, nửa thật:
- Thế nào ông ký, bao giờ mới cho bà và các cháu lên. Hay ông định cưới thêm một bà hai ở trên này thì để tôi liệu làm mối cho.
Ông ký chỉ cười, đáp cho qua câu chuyện:
- U cháu còn bận thu xếp công việc nhà.
Công việc nhà ai gì mấy mà thu xếp, ruộng cho cấy, vườn cho thuê. Thể nào rồi bà Thảo và các con chẳng lên. Đó là ý chung của cả mọi người thân: cho các con nó ở gần để nó còn đi học.
Bà ký Thảo không được mọi người chú ý đến. Trước kia, ông chồng vẫn đi vắng quanh năm kia mà. Vậy lập lại cái gia đình ở chốn tỉnh lỵ, mục đích không để cho hai vợ chồng đoàn tụ, cốt xây dựng cho con cái về sau.
Buổi chiều chủ nhật mùa hè này, ông ký Thảo đi bách bộ một mình suy tính. Đằng nào cũng phải cho vợ con lên. Đó là ý muốn chung của cha mẹ, anh em, không thể trái được. Vả lại không có vợ con thì số lương mỗi tháng hai mươi lăm đồng cũng đến tiêu hết. Năm nay, ông đã ba mươi tuổi chẳng còn trẻ trung gì lắm nữa. Những mơ mộng tuổi hai mươi đã hết, ông còn tưởng vọng gì cao xa đâu, chỉ mong sao đàn con lớn lên được học hành sung sướng.
Tương lai mở ra một quãng đời tươi đẹp: Bây giờ lương ông hai mươi lăm đồng, còn ít thực đấy, nhưng rồi phải tăng chứ. Không được phong lưu, nhưng cũng đủ cho cái gia đình bảy người: hai vợ chồng, bốn con, một đầy tớ. Hai đứa con lớn đã đi học. Bao giờ chúng nó đỗ tốt nghiệp, ông sẽ gửi cho chúng, cố sao đứa nào cũng có ít nhất là ‘‘diplôme’’=( bằng cấp) làm ông phán, ông giáo gì đó, bấy giờ mình cũng mát mặt.
- Chỉ mười lăm năm nữa thôi, mười lăm năm cũng chẳng mấy mà hết.
Đến năm ấy, năm chúng nó làm nên, ông bốn lăm.
Cái tuổi bốn lăm được nhàn nhã một chút là hạnh phúc rồi. Sống dư dật hai vợ chồng không công nợ, đàn con lớn lên đứa nào yên phận đứa ấy, ông ký Thảo chỉ mong như vậy.
- Anh Thảo bao giờ thì cho chị và các cháu lên?
Ông Thảo dừng bút nhìn người bạn đồng sự. Ông Thu ngồi bàn bên đương mỉm cười và chưa đợi câu trả lời đã hỏi tiếp:
- Anh được mấy cháu rồi nhỉ?
- Cám ơn anh, tôi được bốn đứa. Thằng lớn đã lên mười. Tôi cũng cứ phân vân mãi. Cho lên bây giờ thì chẳng khó gì, nhưng làm thế nào cho đủ được. Ở đây cái gì cũng đắt.
Ông Chánh vừa đánh ô tô đi Hà-nội. Được dịp, tội gì chẳng nghỉ ngơi một chút, cả mấy ông ký ngừng việc nói chuyện. Đầu đề là chuyện gia đình ông Thảo.
- Lương một tháng hai mươi lăm đồng, tiền nhà độ ba đồng, tiền chợ và lặt vặt cứ cho tất cả là mười tám đồng vị chi là hai mươi mốt đồng. Gạo nước thức ăn bây giờ cũng rẻ. Mỗi tháng như vậy cũng còn được bốn đồng bỏ túi
Ông Phương làm cho bạn được cái tính xong thì ông Tạo hỏi tiếp:
- Vậy chứ bây giờ anh trọ đâu?
- Tôi ở đằng ông Tú Minh.
- Ông Thừa Minh tòa án phải không?
Cả mấy người cười rộ lên rồi ông Thu nghiêm trang nói.
- Nếu thế thì anh để chị lên đi, sớm ngày nào hay ngày ấy, chứ không có bao nhiêu nướng tổ tôm, thăng quan hết thôi.
Ông Thảo khẽ gật đầu có vẻ suy nghĩ.
- Tôi cũng tính thế.
- Vả lại, để chị ấy lên đây, rồi liệu để chị ấy buôn bán thêm vào nữa chứ. Chị ấy lên đây, lại chơi với nhà tôi, rồi chị em cùng cân kẹo cho vui.
Ông Thảo nhớ lại những lần đến chơi nhà ông Thu. Bà vợ ông này cân gạo, buôn ngô đậu, trong nhà có vẻ sung túc lắm. Nếu mai mốt, bà Thảo lên cũng được như vậy: Nhưng ông chỉ chớp mắt một cái là bao nhiêu hy vọng tan ra hết. Vợ chồng ăn ở với nhau bao nhiêu năm, còn lạ gì tính nết nhau. Cái hiền lành, thực thà của ông chồng so với cái vụng về, khờ khạo của bà vợ cũng cân đối. Sinh và trưởng ở một xó nhà quê cách nhà ga hàng mười cây số, chưa hề biết thành thị là gì, vợ ông chỉ được một điều chồng bảo gì nghe vậy, có mấy mẫu ruộng cầy cấy làm sao cho mỗi năm có đủ thóc ăn. Bây giờ bân đến chuyện buôn bán nó mới viển vông làm sao.
- Anh bận thế này, chị ấy lên, không có anh về đón thì cũng phiền lắm nhỉ?
Ông Thảo nghe câu hỏi giật mình sực tỉnh vội trả lời:
- Nhà tôi và các cháu lên lại phải phiền anh Ba tôi vậy. Nhưng có anh tôi rồi thì cũng đỡ lo ngại.
- Thế thì anh để chị lên ngay đầu tháng sau đi. Lịch bóc đã hai mươi tờ rồi đấy.
Trong buổi làm việc an nhàn ấy, cũng nhân mọi người thúc giục, ông ký Thảo ngồi viết một cái thư về cho anh là ông Ba Tùng để nhờ anh đưa vợ con lên hộ. Sẵn máy chữ của sở, ông ra bàn máy loay hoay chọc hai ngón tay chỏ đến hơn một giờ đồng hồ mới xong. Lúc ấy vừa hết giờ.
Đi qua nhà giây thép, bỏ thư vào thùng, ông Thảo còn cẩn thận xem lại cái thư có còn mắc ở miệng thùng không, liệu người ngoài có lấy ra được không, xong suôi, ông mới giương ô ra về. Con đường nhựa nắng buổi trưa bốc lên một thứ hơi rất khĩ chịu.
Ba ông kia, ông Thu đã đi xe tay về, còn hai ông Phương Tạo cũng lên xe đạp. Đi xe tay từ sở về nhà, con đường dài đến một cây số, ít nhất cũng phải năm xu. Một ngày bốn buổi đi về đã mất hai hào, một tháng có phải phí đi sáu đồng không. Ông Thảo tính nhẩm như vây, nhất định không đi xe, cho rằng đó là một thứ tiêu quá xa xỉ. Chỉ có xe đạp là tiện, ngày trước lúc còn làm hương sư, ông cũng có một cái của anh cho. Ông anh làm thông phán đã mua rẻ được cái xe trong một kỳ tòa bán đấu giá. Nhưng ông ba Tùrg lại lấy mất.
- Chú đi mỗi ngày bốn buổi trong tỉnh thì cần quái gì xe, để cho tôi đi đây đi đó, nó còn ích hơn.
Ông ký Thảo không phàn nàn gì, tự an ủi rằng đi bộ cũng là một cách tập thể thao. Phải rồi, suốt ngày ngồi còm cọm trong sở gò lưng xuống mà viết, nếu không có bốn lượt đi bộ thì ốm mất còn gì!
Nhưng buổi trưa mùa hè này, trời nắng chang chang đi bộ về nhà không thể nói là tập thể thao được. Ông Thảo thầm tính sẽ mua một cái xe đạp. Phải chờ có dịp chứ mua xe mới thì tiền đâu! Cái dịp ấy chẳng biết bao giờ mới có, trong khi ấy thì ông cứ đi bộ đã. Nghĩ vẩn, nghĩ vơ như vậy, ông cũng chẳng buồn nhìn chung quanh. Ngày đẹp lắm. Nhìn lên một màu xanh,
không, hai màu xanh mới đúng, một màu xanh cây và một màu xanh trời, nhìn xuống chỉ có một sắc vàng bát ngát. Ông ký cũng là một điểm vàng trong khoảng vàng mông mênh ấy.
Đi bộ mất đến mười lăm phút mới tới nhà. Trong khoảng thời gian ấy, ông Thảo nghĩ vẩn, nghĩ vơ cũng được nhiều điều. Từ chuyện cái xe đạp, ông vụt nhớ lại những lời khuyên của bạn đồng sự buổi sáng nay. Rồi ông so sánh cảnh sống của họ với cảnh sống của mình. Trong bốn người, ông nhiều tuổi hơn cả, ông lại có bốn con nên họ có vẻ nể. Ông Thu, vợ buôn bán, cha mẹ có, chỉ ước một đứa con mà không được; ông Tạo còn trẻ chưa có vợ; ông Phương thì bỏ vợ; họ trông ông bằng con mắt có vẻ thèm muốn. Hà, bốn đứa con cũng là cái của trời cho đấy nhỉ! Nhưng giá lương ông hơn chút nữa, giá mỗi tháng ông được ba mươi lăm đồng như ông Thu, ông Tạo, chứ không thì càng nhiều con càng vất vả chứ sung sướng gì. Cứ như họ còn hơn! Tam nam bất phú, ba con Trai không giàu, thế mà ông có ba con trai rồi đấy. Ba con trai, một con gái, biết đâu rồi không thêm lần lần một năm, vài năm một đứa. Hai vợ chồng cùng khỏe mạnh, tránh sao khỏi sự mau sinh nở. Ông chép miệng:
- Một của, một con, bao nhiêu cũng vừa, chẳng con nào là thừa cả.
Nhưng với số lương ít ỏi, làm thế nào nuôi cho đủ được? Ông thở dài. Lúc đó vừa tới nhà.
Ông Thừa Minh đã ngồi sẵn ở mâm cơm. Cùng tan vào trùng một giờ, nhưng ông thừa đi xe nên bao giờ cũng về trước:
- Ông ký đã về, ông bỏ khăn áo rửa mặt, rồi đi sơi cơm đi. Không canh nó nguội mất.
Cả nhà ăn cơm rồi. Còn có hai ông ngồi đối diện. Ông Thừa Minh nghiện rượu, bữa nào cũng phải dăm chén. Nhân tiện, ông ký Thảo cũng nhắp nháp một vài chén. Đã nghiện ngay đâu mà sợ. Mà nghiện thì đã chết ai, mỗi bữa mấy xu chứ nhiều nhặn gì.
Chỉ lần này, ông Thảo mới để ý nghĩ ngợi về gia đình ông bạn đồng hương. Nhà có dễ đến hơn chục người đấy. Bà cụ mẹ ông thừa này, hai vợ chồng ông thừa này, sáu đứa con và hai đầy tớ này, tất cả mười một người chưa kể khách khứa chẳng mấy ngày không - Lúc thì bà mẹ bà thừa, lúc thì ông cậu này, bà dì kia. Lương ông thừa cũng chẳng nhiều, mỗi tháng đâu có bốn chục hay bốn lăm đồng. Chẳng biết có bổng lộc gì không, chứ như vậy làm thế nào cho đủ. Sáu con ông thừa đều là con gái, ông còn mong chút con trai nữa. Ông Thảo nghĩ thầm:
- Sáu con mà không đủ chết rồi ư?
Rượu ngà ngà, ông mới thủng thỉnh bảo ông thừa:
- Tôi định cuối tháng này cho nhà tôi và các cháu lên.
Ông thừa khề khà:
- Ông cho bà lên cũng phải, nếu không thì cứ ở đây anh em mình đối ẩm cũng vui chán.
Bà thừa ngồi têm trầu giường bên cũng góp một câu:
- Thầy mày lúc nào cũng chỉ tính chuyện rượu, chè. Ông ký còn phải chí thú. Các anh ấy lớn lên đi học chứ đâu như nhà ta...
Câu dưới bà nói có vẻ buồn, vì chạnh nghĩ tới cảnh một đàn con gái, mà chẳng có một đứa con trai nào.
Ông Thảo nói đùa:
- Thôi bà cứ cưới cho ông một cô vợ lẽ đi thì vừa.
- Nhưng nhà kiết như thế này, thì ai người ta lấy, hay ông thấy đám nào ở quê nhà ta, thì ông làm mối giúp.
Câu chuyện đã ra ngòai ý định của ông ký, và nếu dằng dai, thì không biết đến đâu, ông vội trở lại:
- U cháu quê mùa, mới lên còn bỡ ngờ. Mọi việc nhờ bà giúp cho.
Bà thừa cười:
- Chỗ người nhà, cái đó có hề gì. Được, ông cứ để tôi tìm nhà và sắm sửa giúp. Bà cháu bây giờ thì còn lạ nhưng một vài lần, cũng quen đi chứ.
Ông Thừa nói tiếp:
- Đâu gần đây có cái nhà cho thuê của ông Minh Thịnh gì trên Hà nội ấy mà. Ông khóa Nhân ông ấy trương đấy, chiều nay u mày liệu hỏi cho ông ký ngay thì vừa. Hỏi ngay đi không có người ta tranh mất.
Ông ký nhìn xuống mâm cơm có vẻ trầm ngâm:
- Tôi định để nhà tôi ở đây ít lâu rồi tìm chỗ nào tiện buôn bán, chứ không, cơ chừng như thế này, lương ít, con nó lớn lên thì thiếu lắm.
Ngừng một chút ông lại hỏi ông bà Thừa:
- Ông bà ở trên này đã lâu, mà không mở một cửa hàng buôn bán gì cho bà và các chị ấy trông coi. Nó cũng thêm cặp vào chứ.
Ông Thừa đáp, giọng bất mãn:
- Ông tính lời lãi là bao nhiêu mà coi nó bệ rạc lắm.
- Ấy cứ để bà cháu lên đây rồi ông biết. Mình con đông chẳng làm ăn gì được đâu. Thôi cứ nuôi được chúng nó lớn lên, thế là đủ vui. Túng thiếu soay quanh cũng đến xong. Chúng tôi lên đây đến bảy tám năm, ngày con cháu thứ tư, con Mai nó mới lên bốn. Thế mà đến bây giờ cũng vẫn túng thiếu như xưa chẳng khác. Nhà không còn một tấc đất cắm dùi, trông vào mỗi thầy cháu. Nói dại đổ xuống sông, xuống biển, thầy cháu bây giờ nằm xuống bất thần, thì cũng chẳng biết làm thế nào.
Bà Thừa nhổ quết trầu xong lại tiếp:
- Thế nhưng mà, ông ạ. Ông Trời ông ấy sinh voi rồi lại sinh cỏ, chứ không thì những nhà đông con mà lại nghèo như mình chẳng hạn, thì chết đói cả hay sao.
Ông Thảo không đáp, nhưng trong trí phác ra cảnh bài bạc trong nhà ông Thừa những ngày chủ nhật và những ngày nghỉ, Ở giường giữa một bàn tổ tôm, ba chân là người trong nhà: Ông bà Thừa và ông, còn thiếu hai chân thì cho đi mời. Mà gian trong cũng có một bàn chắn hay tài bàn của bà cụ và mấy cô con gái. Mấy đứa trẻ nhỏ chạy lăng săng chia bài xin tiền cha mẹ, chẳng còn ra thể thống gì nữa. Thực là vô trật tự!
Những ngày ông thừa đi làm, cũng vẫn có hội họp như vậy. Mấy bà Thừa, bà Phán nhàn cư, thừa thì giờ không biết làm gì đều lại đấy. Ông Thừa đáng lẽ ngăn ngừa vợ con, thì lại càng khuyến khích thêm. Ông vốn chiều vợ con, giá phải đường, thì cũng hay đấy, chết một nỗi chỉ chiều những cái giết người.
Nhưng nếu gia đình này mãi mãi được như vậy! Vợ chồng con cái hòa thuận lắm. Sống là đi làm, ăn và đánh bạc, cuộc đời phẳng lặng hay nhạt nhẽo, chẳng ai biết mà cũng chẳng ai cần.