- V -
ÔNG Ba Tùng về rồi. Và đến bốn năm hôm sau thằng Háu con bà Khóa mới lên. Trong những ngày không có đầy tớ ấy, mỗi ngày hai bữa ăn, giặt dũ quần áo cũng do tay bà kỷ Thảo, chỉ có gánh nước và đi chợ
là phải nhờ đứa ở nhà bà Thừa. Trong lúc mẹ bận bịu, thằng Đức phải trông em. Thằng bé muốn chạy nhảy, đùa nghịch lắm; nó cũng tức bực, chứ có không đâu vì cứ phải bế gọn trong lòng đứa em bé. Nhưng gia cảnh như thế nào, nó cũng hiểu qua không dám phàn nàn, chỉ
thỉnh thoảng hỏi mẹ:
- Anh Háu bao giờ thì lên nhỉ, u nhỉ?
Bà mẹ hiểu tâm lý con, cười an ủi:
- Thôi con chịu khó trông em cho u, mấy hôm nữa thôi, anh nó lên, rồi con không phải làm gì cả.
Cả một ngày thế mà cũng chẳng có mấy lúc ngơi tay. Buổi trưa, ông ký về, bỏ khăn áo, vào mở cái lồng bàn đậy mâm cơm cũng thấy hơi tự mãn. Món ăn không có gì sang, nhưng do tay người nội trợ trong nhà, trông sạch sẽ và ngon miệng lắm.
- U mày ăn cơm rồi à?
- Vâng tôi cho nó ăn rồi, chứ chờ thầy mày về trưa quá, trẻ con chúng nó đói.
Ông ký Thảo không nói gì thêm, hút một hơi thuốc lào, ngồi thở khói thong thả. Đoạn ông mới ăn cơm. Vừa ăn ông vừa ngẫm nghĩ muốn tìm một câu truyện nói với vợ mà cứ băn khoăn không biết nói gì. Hai vợ chồng trước kia hàng năm gặp nhau ít ngày, còn có việc này việc nọ trong nhà mà nói để tránh sự ngượng nghịu. Nhưng bây giờ biết nói gì? Hai tâm hồn không cùng một trình độ cảm xúc. Và tình không có chỉ có nghĩa.
- Chẳng lẽ lại đem truyện ngồi sở kể cho vợ nghe. Hôm nay ngoài sở, ông Thu cộng nhầm một trang.
Ông Thảo nghĩ vẫn vô trong khi bà Thảo âu yếm nựng thằng con nhỏ. May mà người mẹ lại có đứa con để mà tỏ tình để mà nói truyện. Chẳng biết trong đầu đứa bé có ý nghĩ gì chưa mà cái nhìn của nó thấm thía đến thế. Cái miệng chưa có răng toét ra phô hai hàm lợi và cái lưỡi đỏ hồng.
Tới nửa bữa, ông ký Thảo mới đặt bát cơm:
- U nó ạ, thôi chiều để cùng ăn một thể nhé. Rồi mai trở đi cứ như thế. Nhà ít người mà lại còn chia làm hai bữa, chỉ thêm bận. Buổi sáng các con nó có đói thì mua quà cho chúng nó lót dạ. Đợi ít hôm nữa có thằng Háu nó lên thì sáng bắt nó nấu cháo.
Bà Thảo cũng chẳng biết tìm câu gì dài dài để đáp lời chồng. Bà chỉ cụt thun lủn mỗi tiếng: ‘‘ Vâng ”.
Ở một góc giường bên kia, thằng Tề đương ngồi cắt những mảnh hoa chuối làm cỗ với em nó là con Dung, Còn thằng Đức ngồi ngoài hiên đọc quyển tiểu thuyết Tàu mượn được bên ông Thừa. Không khí trong nhà im lặng như có người ốm.
Ăn cơm xong, ông ký Thảo chẳng biết làm gì khác hơn là ngồi hút thuốc lào. Chán rồi thì đi ngủ trưa cho tới giờ ra sở. Luôn hai ngày như thế, hai vợ chồng như một đôi đũa lệch. Trong đầu bà ký đã có cái ý nghĩ lại trở về nơi thôn dã. Nhưng bà không nói ra với chồng; bà thấy thèn thẹn. Vả lại, bà cũng e dư luận, cái dư luận ấy khởi đầu chính ở bà.
- Về bây giờ còn ra nghĩa lý gì nữa!
Chưa quen ai không đi đâu đã đành, nhưng ngay bên bà Thừa, mỗi ngày bà cũng chỉ sang qua một lúc. - Chà nhẽ, mới hôm nào mình còn phiền người ta! Bà nghĩ như vậy.
Buổi tối ngày thứ ba mới thấy mấy ông bạn đồng sự lại chơi. Họ cũng chẳng biết ông Thảo dọn nhà nếu hôm ấy ông không mời:
- Tối hôm nay mời các anh lại chơi. Nhà tôi và các cháu đã lên.
Bà Thảo hơi lấy làm bằng lòng khi thấy bạn chồng, những người danh giá, lại chơi. Chẳng gì cũng thân danh một ông ký rồi, đâu như ở nhà quê!
Tiếp khách giá có nước chè tầu, thuốc lá thì phải, nhưng đầy tớ chưa có, con lại còn nhỏ, lấy ai đun nước. Bà Thảo hơi ân hận một chút vì tích nước chè hạt và cái điếu thuốc lào không được sang.
Thường thường đối với vợ các đồng sự, họ vẫn gọi là bác, chữ bác có vẻ thân mà không bớt kính trọng. Gọi chồng là anh không sao nhưng đã gọi vợ là chị nghe nó không chỉnh chút nào. Nhưng lần đầu tiên đến chơi nhà bạn, cả ba ông: Ông Thu, ông Phương, ông Tạo chẳng biết vô tình hay cố ý đều không dùng chữ bác nhưng dùng chữ bà:
- Chào bà ạ.
- Bà mới đưa các em ở nhà quê lên ạ.
- Bà đã đi xem tỉnh chưa ạ?
- Lúc nào thư thả mời bà lại chơi với mợ cháu.
Chữ ‘‘ bác trai’’ để chỉ ông Thảo cũng được thay, bằng ‘‘ ông ký nhà ta’’.
- Ông ký nhà ta người hiền lành chứ không thì bao nhiêu cũng hết.
- Nói chuyện thường với ông ký nhà ta, tôi vẫn bảo đấy ạ: Thôi thì anh em mình đã chẳng phong lưu gì, gia đình lại đông đúc.. Thôi thì mình cứ chí thú mà làm ăn.
Ông ký Thảo cười. Bà ký Thảo cũng cười. Còn biết trả lời làm sao nữa! Họ đã vụng về trong mọi việc xã giao, cái buổi nhất kiến này lại toàn những lời khách sáo. Ba người, người nào cũng cố tỏ ra hết cả sự khéo léo và lòng tử tế của mình. Và khi câu truyện với bà ký đã quá nhạt, họ liền xoay ra nói truyện với hai đứa con trai. Từ lúc chào ‘‘lạy ông ạ’’ xong, cả hai đứa vẫn đứng đấy mà không biết làm gì.
- Em lên mấy?
- Cháu lên chín ạ,
- Tên em là gì?
- Tên cháu là Đức ạ.
- Còn em kia là gì?
- Nó là Tề
- Các em đi học chưa?
Câu truyện nhạt nhẽo hết chỗ nói nhưng cũng kéo dài đến năm phút. Bấy giờ bốn người mới quay mặt vào nhau đi bàn mấy công việc chung ngoài sở,
Bà ký Thu giơ tay đập mạnh vào tấm cửa bức màn đóng kín:
- Sáu ơi, ra mở cửa cho mợ.
Chẳng thấy tiếng ai thưa, Bà chép miệng phàn nàn với bà ký:
- Bà tính, đầy tờ nó thế đấy, Đi đâu về gọi chả thấy tăm hơi. Dáng chừng nó lại ngủ hẳn. Ông tôi thì lúc ở trên này, lúc ở nhà quê thất thường lắm ạ. Còn bà tôi cũng theo thuyền với người nhà. Nhà neo người lắm. Tất cả chỉ có hai cụ tôi, chúng tôi và chú nó. Thành ra hai cụ tôi đi vắng, nhà tôi đi làm, chú nó đi học là nhà chẳng có ai,
Bà lại đập cửa mạnh hơn, gọi:
- Sáu ơi, Sáu ơi. Gớm con chết tiệt ngủ rồi hay sao chẳng biết.
Đến năm phút sau mới thấy con bé ra mở cửa:
- Thưa mợ con ở dưới bếp thành ra mợ gọi con không nghe tiếng.
Bà ký Thu mắng con bé mấy câu rồi quay lại mời khách:
- Mời bà vào trong này. Nhà buôn bán có khi bề bộn, bà đừng cười nhé.
Bà Thảo mỉm cười khiêm tốn:
- Tôikhông dám.
Đoạn bà liếc mắt ngắm xung quanh. Quả là có bề bộn thật. Góc nhà này mấy chục bao tải chồng chất. Góc nhà kia đống ngô nếp bừa bãi bên cạnh một cái cân bàn. Trên tường treo mấy quận đay, mấy cái ống siên xem thốc gạo, cái bàn tính; không theo một thứ tự nào hết và bất chấp cả mọi thứ mỹ thuật! Đi qua gian phòng này mới tới chỗ tiếp khách nhưng cũng chẳng gọn ghẽ hơn bao nhiêu. Bàn ghế đều xếp gọn lại để kê những bao gạo ngoài kia kê không hết. Còn mỗi chiếc sập gụ bà Thảo liền ghé ngồi xuống đấy.
Bà Thu giọng tự đắc:
- Thưa bà trong nhà quanh năm cứ bề bộn như thế đó, nhưng còn được thế là còn có tiêu...
Bà Thảo nói một câu không biết rằng ngô nghê:
- Thưa bà buôn bán như thế thì hơn lương ông nhà ta đi làm đấy nhỉ?
- Vâng, chẳng dấu gì bà, đi làm thì không được là bao. Nhưng nó cũng đỡ được tiền tiêu vặt của cậu cháu. Vả lại không như thế đẻ tôi cũng không bằng lòng.
Lần này là lần đầu tiên bà ký Thảo đến chơi nhà bà ký Thu. Từ hôm có đứa ở rồi, bà cũng muốn đi đây đi đó làm quen với người này, người khác, ở đâu cũng phải có bạn, chứ không thì buồn chết. Sang bà Thừa mà cứ thấy bà ấy đánh bài thì chán thật.
Như những cặp vợ chồng trẻ khác thì ông Thảo đã dẫn vợ đến chơi nhà những người mình quen. Nhưng đối với họ, nó ngượng nghịu thế nào ấy. Lại còn con cái thì làm sao! Cả bốn đứa, chả nhẽ dẫn cả chúng nó đi.
Bà Thu đến chơi bà Thảo hai lần. Lần thứ hai, bà rủ cả bà bạn lại chơi. Trong đầu mỗi người có một ý nghĩ khác nhau. Bà Thảo riêng suy tính:
- Ông ấy cùng làm một sở với chồng mình, thế nào chẳng có lúc phải giật mượn.
Bà Thu cũng tự nhủ thầm:
- Bà ấy người nhà quê, hiền lành thực thà. Bà ấy lại có bốn con. Quý hóa quá.
Trong khi bà nọ nghĩ đến cái giầu của bà kia thì bà kia nghĩ đến mấy đứa con của bà nọ. Cái giao tình nào mà chẳng dựa vào điều kiện nào khác. Ngẫm cho cùng có cảm tình nào không xây trên quyền lợi?
Thế rồi ngồi nói chuyện, mỗi bà lại tỏ một điều ước ao của mình. Đàn bà họ dễ tâm sự với nhau ngay.
- Nhà tôi nói đến chuyện tiền nông, tuy chẳng dám tự phụ là thừa thãi gì, nhưng cũng không đến nỗi thiếu, có thiếu chỉ thiếu một đứa trẻ trong nhà. Vâng, có
một đứa trẻ trong nhà cũng vui thêm nhiều lắm. Bà tôi cầu hết đền này phủ nọ, tôi cũng hết thuốc tây đến thuốc ta mà chẳng ăn thua gì. Chỗ chị em, nói tình thật bà ạ, tôi đâm ra them cái tiếng trẻ con khóc.
- Ông bà kể cũng khí muộn mằn một chút đấy. Nhưng sớm như nhà tôi mà làm gì. Bốn đứa con, lương thầy cháu có vậy, biết có đủ ăn không?
Hai bà ký ngồi lan man, giá không có việc gì thì cũng kéo dài ra hàng buổi: Và mỗi lần ra về thế nào cũng có lời hẹn:
- Lúc nào rỗi mời bà lại chơi.
Đến chơi bà ký Thu lần thứ ba thì bà ký Thảo gặp bà cụ Ấm thân sinh ra ông Thu. Bà cụ dễ đến ngoài năm mươi, tuy vậy vẫn còn mạnh lắm, tiếng nói cứ sang sảng.
Câu chuyện không giống như với bà Thu. Bà cụ Ấm tính vui vẻ, ân cần hỏi thăm bà Thảo hết mọi chuyện nhà chuyện cửa. Với mỗi câu hỏi, bà Thảo lại trả lời bằng một giọng hết sức lễ phép:
- Vậy chứ các cụ bên ông ký nhà ta được mấy các ông các bà ấy ạ?
- Thưa cụ, ông cháu được nhiều các bác, các chú lắm, Thầy cháu là thứ năm mà dưới cũng còn ba chú nữa. Các cô cháu, năm sáu người cũng đã yên phận.
Bà cụ Ấm cười rít tươi. Nụ cười già như vậy là đẹp lắm.
- Các cụ ngày trước phú quý nên sinh lắm con nhiều cháu.
- Vâng quả có thế, nhưng con nhiều thành ra của cải nó vào con hết, chẳng còn gì mấy nữa. Đến thầy cháu là nhà đã sa sút lắm. Thưa cụ, cái cảnh con đông nó vẫn thế, chằng nói làm gì bên ông cháu, có khoa mà không có hoạn. Ngay bên cụ Tuần cháu, cụ đi làm quan lừng lẫy, thế mà con cháu cũng nhiều người túng thiếu.
Bà ký len mấy chữ ‘‘cụ Tuần cháu’’ vào để khoe một cách khéo léo ‘‘chúng tôi là con nhà thế gia lệnh tộc’’ cả đây. Câu nói cũng có hiệu nghiệm vì bà cụ Ấm đón lấy hỏi ngay:
- Cụ Tuần tức là anh ruột cụ Cử nhà ạ. Cụ chắc cũng đông các ông ấy lắm?
- Thưa cụ, vâng. Các bác cháu bên ấy nhiều người đi làm quan cả. Có cái cũng chưa nối được chí cha.
Bà cụ Ấm gật đầu se sẽ, trầm ngâm một chút, lại hỏi:
- Còn bên nhà, chắc gia đình cũng vui vẻ như vậy chứ?
- Cám ơn cụ, các bác, các cậu, các dì cháu tất cả cũng được mười hai người, kém bên ông nhà cháu ba người.
- Quý hóa quá. Mỗi con là mỗi của, tôi chỉ mong như vậy mà không được. Tôi hiếm lắm bà ạ. Tất cả có ba đứa. Nhà Thu cùng làm với ông ký đấy, con mẹ Phán cháu ở Hải phòng và thằng bé còn đi học.
Gần hết những câu hỏi này, lần ông ký Thảo đến chơi đầu tiên, bà cụ đã dùng, nay đem hỏi lại cho nó có câu chuyện. Và đến khi chẳng còn câu gì nữa bà cụ mới đem chuyện hiếm hoi của ông Thu ra mà phàn nàn:
- Đời tôi, nghĩ mình chẳng làm điều gì thất đức. Chẳng biết tiền nhân ăn ở ra sao mà cái thằng Thu nó cấm cho tôi được tí cháu nào. Mợ nó bà cũng biết đấy trông người đầy đặn, khỏe mạnh chứ có bệnh tật gì đâu. Giá tại con vợ nó, thì ư, cưới thêm cho nó nhà hai nữa.
Chẳng biết là chuyện thực hay bà Thảo bịa ra để an ủi.
- Thưa cụ, cứ chịu khó kêu cầu rồi Thần Phật cũng thương cảm cho cái lòng thành của mình, Ở làng cháu có cái ông Lý ấy giầu lắm mà cũng hiếm con. Kêu cầu mãi, tới năm bốn lăm, còn sinh được ba con, hai trai một gái đấy ạ.
- Là cái năm bà ấy bốn lăm chứ?
- Vâng.
- Ồ nhỉ!
Ngừng lại một giây, bà cụ Ấm lại tiếp:
- Vâng, người ta như vậy được thì mình cũng như vậy được, chứ tôi nghĩ bây giờ cưới thêm vợ cho nó, chỉ tổ lục đục trong nhà. Ớt nào là ớt chẳng cay. Đàn bà nào là đàn bà chẳng ghen. Mình chẳng thể lấy thế mẹ chồng mà cấm nó.
Bà Thảo về rồi. Bà cụ Ấm gọi con dâu bảo:
- Cái nhà bà ký Thảo ấy, người nhà quê thực thà hiền lành quá. Con nhà gia giáo cũng có khác. Mợ cũng nên năng đi lại đằng ấy. Gặp được người tốt khó lắm, con ạ.
Buổi trưa hôm, trong bữa cơm, bà cụ lại nhắc bảo con trai. Lên Bắc-giang, ngoài gia đình ông thừa Minh, người làng, thế là bà ký Thảo lại có thêm một gia đình bạn nữa.