← Quay lại trang sách

- II - -

TAО làm Quan-Công, thôi cho mày làm Lưu-Bị.

- Ừ thì anh làm Quan Công, tôi làm Lưu Bị, Tôi được làm anh. Anh phải gọi tôi là anh nhé.

- Anh gì cái đồ Lưu bị thịt ấy.

Thằng Tề đang quấn cái ống nhét vào bít tất nghe hấy thằng Háu và thằng Đức bàn cãi liền góp:

- Thế còn tôi làm gì?

Thằng Háu quay lại nhìn thằng bé từ đầu đến chân.

- Ừ, mày ăn mặc như thế được rồi đấy. Mày bé nhất thì mày chỉ có làm Trương-Phi thôi chứ còn gì. Nhưng mà làm Trương Phi thì phải đi lấy nhọ nồi bôi mặt cho nó đen.

- Còn anh làm Quan Công thì phải bôi mặt đỏ, tôi làm Lưu-bị mặt được để trắng.

Ba đứa trẻ hí húi vẽ nhọ, bôi hề, ăn mặc bắt chước như phường tuồng. Đoạn mỗi đứa cầm một cái sào màn giả làm binh khí. Thằng Háu lớn nhất nên là đầu tên cả mọi trò.

- Kể ra tao là Quan Công phải cầm long đao cơ đấy, thằng Đức là Lưu Bị lấy hai cái que gỗ giả làm kiếm, còn thằng Tề cứ cầm sào màn ấy làm sà mâu cũng được rồi. Thôi để chiều chúng ta cũng phải đẽo mới được.

Mỗi đứa đứng trên một cái giường; chúng hét lác ầm ĩ như những bệnh nhân trong một bệnh viện chữa người điên. Rồi cũng xếp lại cái bàn, bày mấy đồ vật lên làm cảnh Đào viên kết nghĩa. Cũng có lần, chúng lấy miếng bìa cắt làm mặt nạ rồi khoác cái chăn làm trinh thám. Ấy là chúng bắt chước mấy rạp tuồng. Với trẻ con như vậy là vui lắm.

Chơi mãi đã chán, thằng Háu mới nghĩ đến công việc:

- Thôi dẹp đi chúng mày ạ. Tao còn phải đi nấu cơm không có gần mười một giờ rồi đấy. Mười một rưỡi chú về, không có lại phải đòn.

Đó là cảnh nhà ông ký Thảo một buổi sáng thứ năm. Từ ngày bà ký về quê, cách sống trong gia đình chuyển sang một đoạn khác. Ông ký ngày đi làm hai buổi xong trông qua cửa nhà một chút rồi đi đánh tổ tôm hay thăng quan, thường thường là ở nhà ông Thừa, một đôi khi ở nhà ông Án.

Việc nhà còn có gì nữa. Có vài thứ đồ đạc trong nhà, chứ nhiều nhặn gì mà phải xem xét: Nhà bẩn bắt nó quét, giường chiếu bẩn bắt nó giặt, nó lau. Còn hai bửa ăn thì gạo đã có một người hàng sáo quen, cứ liệu ngày nào gần hết đem lên. Tiền chợ mỗi ngày, ông giao cho thằng Háu. Năm xu một bữa, một xu rau còn bốn xu hoặc đậu, hoặc tôm cá, cua gì đó. Mỗi tuần lễ được ngày chủ nhật ăn thịt, lệ đã thành như vậy. Cái món thịt ngày chủ nhật thường thường là thịt bị xào rau muống. Thằng Háu cũng không biết làm gì hơn. Nhưng cả ba đứa trẻ sì sà, sì sụp ăn ngon lành lắm. Dễ vì chơi đùa nhiều nên bụng đói.

Chỉ có thế, thằng Háu lấy làm nhàn lắm. Những ngày mà thằng Đức và thằng Tề đi học, gần hết buổi sáng và buổi chiều, nó nằm khoèo đọc mấy quyển Tam Quốc, Thuyết Đường, Nam Tống Phi Long... Hoặc không thì nó ra sân giương cái nỏ cao-su ngắm mấy con chim trên bờ tường. Buổi tối, chờ ông ký đi chúng nó ngồi chụm lại một chỗ và thằng Háu kể những câu truyện tục tĩu. Thỉnh thoảng chúng cũng đổi trò chơi ; mỗi ngày, lúc hai đứa trẻ đi học về thể nào cũng có vài đứa trẻ khác theo về cùng đánh bi, đánh đáo với thằng Háu ở đám đất đầu nhà. Mười rưỡi học trò về, mười một rưỡi, ông ký về, không thể chơi mà không nghĩ đến làm, có một nồi cơm và một nồi rau, thằng bé đặt lên bếp rồi bỏ đấy ra chơi, thỉnh thoảng mới chạy vào. Nhiều hôm nồi cơm tưởng sống hay khê, cũng may những lúc ấy có người hàng xóm nấu chung bếp gọi.

Những nhà ở chung quanh thay đổi gần hết. Hai gian nhà sát cạnh bây giờ có vợ chồng một người lính ở. Chồng cả ngày mới được về một lúc, vợ cũng đi đánh chắn luôn luôn, nên gần thành như là nhà không. Cái nhà ngang có vợ chồng một người làm bánh cuốn ; họ cũng đi hàng cả ngày, buổi sáng thì gần trưa, buổi chiều thì gần tối mới về. Còn cái nhà gác to trước kia ông Thương ở thì bỏ không. Nhà to rộng quá, giá cao quá, người ta lại đồn có ma, lắm đêm nó dựng cả giường dậy nên không có ai thuê.

Ba đứa trẻ tha hồ nghịch ngợm không ai ngăn cấm. Ăn uống kham khổ chúng cũng chẳng để ý. Cứ đùa nhiều vào là đến bữa у như ăn được bốn năm, sáu bát ngay. Tuy vậy trông chúng vẫn xanh bủng và nhếch nhác, nhem nhuốc chẳng có một tí nào là mỹ thuật cả. Cả ba đứa ông ký gọi thợ cạo vào bắt cạo trọc tuột đi, trông mới càng buồn cười nữa.

Khách khứa chẳng ai đến nhà. Những lúc đáng lẽ ông ký ở nhà thì họ đã gặp trên chiếu bạc rồi. Đánh bạc nó dễ ham mê thật. Ông ký cứ tự hỏi mãi không biết mình mê vì thú hay vì muốn được tiền. Có lẽ cả hai. Nhiều lần, ông đinh ninh rằng ở nhà đấy, thế mà lúc ông Thừa cho người nhà sang mời, ông phân vân một chút rồi lại đi ngay. Chừa được có dễ đâu! Các ông con cụ Cử đều máu mê cả. Ông Thảo không sao quên được người anh là ông Mẫn, chỉ vì đánh bạc mà thành ra mang công mắc nợ, tiêu tiền két và mất việc, khổ sở. Ông thì không khi nào như vậy, vì ông còn cẩn thận hơn, ông lại nhát chứ không liều được đến thế. Nhưng hơn một chục bạc mỗi tháng đáng lẽ gửi cho bà ký ít nhiều thì ông để xổng mất cả. Cho đến một ngày, bỗng dưng như người sực tỉnh một cơn mê, ông tự hỏi:

- U nó về bao lâu rồi? Có lẽ đến ba tháng đấy nhỉ.

Đã ba tháng, ông sao nhãng hết cả bổn phận. Bà ký về nhà quê, ông hẹn mỗi tháng gửi về dăm, bảy đồng mà chưa một lần ông gửi. Ông thở dài, nhất định không đi đánh bạc nữa. Nhưng cái nhất định lượt này cũng lại thành nhị định như lần trước. Buổi tối hôm ấy, mấy đứa trẻ ngạc nhiên thấy cha ăn cơm xong ở nhà. Chúng nó đã bàn nhau sắm cái vở ‘‘Lã-Bố hý Điêu Thuyền’’, chỉ còn chờ ông ký đi, mà ông ký cứ ở nhà thì thật buồn.

Được một lúc, con Nuôi nhà ông Thừa

- Về nói với ông bà rằng ông ký mệt nhé.

Hai ba lần như vậy cho đến lúc chính ông Thừa sang:

- Ông sang cho một chân đi. Úi dà, làm quái gì mà mệt, ngồi đánh một lúc là khỏi ngay đấy chứ gì.

- Tôi định từ giờ thôi không đánh nữa, ông ạ.

- Làm gì mà phải bó buộc cái mình quá thế, ồ, có được thua là mấy, vui chơi ấy mà.

Ông Thừa ép đến ông ký phải đi, rồi từ hôm đó ông ký không nghĩ đến chuyện thôi tổ tôm, tài bàn, thăng quan nữa...

Mấy bạn đồng sự, thấy cảnh gia đình bạn như vậy cũng cho là thường. Có gì là lạ, góp có một thôi mà. Phải có cho nó vui chứ! Thế là những ngày nghỉ, bốn ông ký nhà Băng tìm thêm một ông nữa cho đủ chân tổ tơm.

Chỉ có bà cụ Ấm, mẹ ông Thu là sáng suốt trông rõ cảnh biến của cái gia đình ấy. Bà cụ đến chơi một buổi sáng chủ nhật lúc ba đứa trẻ đương hét ầm ỹ.

- Tôi cũng chịu các anh thôi. Ông ký không có ở nhà à?

- Lạy cụ ạ, thầy tôi đánh tổ tôm bên ông Thừa.

Cả ba đứa mặt còn nhọ ngoành, chạy vội xuống bếp rửa mặt, lấy quần áo để mặc bà cụ Ấm ngồi nhìn cảnh hỗn độn trong nhà. Giường chiếu sộc sệch, chẳng có thứ tự nào cả, màn cũng còn buông chưa vén và dưới gầm giường nồi sảnh cái nọ cái kia cứ bừa bãi lủng củng cả lên. Bà cụ chép miệng sẽ lắc đầu và quay lại hỏi ba đứa trẻ vừa lên:

- Thế nào bà ký... à, u bao giờ lên?

- Thưa cụ, chúng cháu cũng không biết.

Bà cụ cười rất nhạt:

- Hỏng, hỏng cả...

Rồi tiếp:

- Em sang mời ông ký, bảo về ngay có cụ Ấm vào chơi, nói chuyện gì cần lắm nhé. Bảo ông nhờ ai cầm bài hộ, về ngay tôi hỏi cái này một tí thôi nhé.

Bà cụ Ấm nhẩm thầm những câu mình sẽ nói. Bà cụ không hiểu làm sao mình lại ưa can thiệp, xen lấn vào cái gia đình này. Ông ký có họ hàng thân thuộc gì đâu. Chẳng qua cũng chỉ là bạn cùng sở với ông Thu. Họ có hay là hay cho gia đình họ, chứ mình được gì, đèn nhà ai nhà ấy rạng mà! Nhưng bà cụ cứ thích dính líu vào, có lẽ do cái cảm tình với bà ký, người nhà quê hiền lành, lại có đông con, những đứa trẻ, cụ vẫn mong ông Thu có.

- Lạy cụ đến chơi mà tôi không biết.

Ông ký chào, theo cái chào là một nụ cười trông dễ mến lạ. Trông ông ấy vẫn hiền lành, mà sao lại để vợ về, và mặc con cái nhà cửa chẳng trông coi gì cả. Bà cụ Ấm nghĩ vậy và nói vào chuyện ngay:

- Ông đương bận nhỉ, dạo này trông ông xanh và gầy lắm.

-.......

- Có lẽ thức đêm nhiều quá chăng?

-.......

- Bà ký bao giờ mới lên?

- U cháu… cái ấy cũng không biết được. Tôi viết thư hỏi mà chưa thấy trả lời.

Đến lúc đó, ông ký mới trả lời một câu; bà cụ Ấm cứ lắc đầu, chép miệng đưa mắt khắp nhà. Chán rồi bà cụ mới nói:

- Chỗ người thân, tôi thực, ông có giận cứ việc mà giận. Ông viết thư bảo bà ấy lên ngay đi. Ai lại để gia đình như vậy mà chịu được. Bạc bài ai chẳng ham, tôi biết. Có bà ấy lên bà ấy giữ ông và chăm lo cho con cái. Chứ để như vậy thì, hỏng cả hỏng cả.

Ông ký Thảo chỉ biết lặng im nghe. Với lẽ phải còn biết cãi thế nào, cãi vào đâu được nữa. Mà chính ông, ông cũng nghĩ như vậy rồi, ông đã bảo ông nhiều lần rồi. Nhưng làm thế nào cho bà ký lên?

Mấy ngày nữa, bỗng dưng, ông ký Thảo ốm. Lên cái mụn ở mé trong cổ, ông đành nghỉ mấy ngày để vào nằm nhà thương. Trong khi đó, ở nhà, thằng Đức cũng bị cái cửa kẹp phải đầu ngón chân. Nhưng bà ký ở nhà quê vẫn không biết tin, mấy đứa trẻ không đứa nào nghĩ đến viết thư về nhà quê, mà ông ký cũng không bảo.

Nằm trên chiếc giường hẹp nhà thương, ông ký Thảo nghĩ đến món nợ năm chục bạc mới té ra và người vợ ở chốn quê xa lăng lắc. Có vợ ở gần thế mà cần!