- II -
BÀ Ký có biết ông Nhẫn không,ông Nhẫn làm ở giây thép ấy mà.
- Cái nhà ông nơi tiếng nằng nặng phải không bà?
Bà Thừa đặt miếng trầu vừa têm vào cối rồi mới thủng thỉnh. Lúc ấy là một buổi sáng chủ nhật. Ông ký đến nhà thờ, bà ký để chồng đi trước rồi cũng đến đằng bà Thừa Minh gần đấy. Bà muốn tự mình đi xem cái đạo chồng theo nó thế nào. Ngồi bên nhà bà Thừa, tiếng nhiều người hát ê а vọng sang rõ mồn một. Bà ký hỏi có vẻ lơ đãng nghe bà Thừa kể:
- Cái nhà ông Nhẫn cũng đi đạo như ông nhà đấy. Ông cụ ở nhà quê nghe tin, lập tức ông cụ lên ông cụ làm rầm lên một trận. Ông cụ bảo hễ không bỏ thì ông cụ từ. Thế là ông Nhẫn bỏ.
Bà ký nói có vẻ ngậm ngùi:
- Ông nhà tôi lại mất rồi chẳng còn ai bảo được nhà tôi nữa.
Im lặng một chút, bà Thừa lại kể:
- Ông Phán Lưu nữa bà ạ; cũng lơ lửng muốn bỏ rồi! Bà đừng ngại, ông Ký nhà cũng đến bỏ thôi.
Sẽ gật đầu, bà Ký đáp:
- Vâng, nếu được như vậy còn nói gì nữa.
Bà cho việc chồng đi đạo như việc chồng mê gái hay đánh bạc, chỉ mong sao chồng mau bỏ. Cũng tại cái đám người quen nhay nói ra nói vào. Tất cả cái dư luận ồn ào ấy làm cho bà khó chịu. Chứ không thì ông Ký đi đạo hay làm gì thì cũng mặc ông Ký. Hai vợ chồng có mấy khi dính líu vào đời sống riêng của nhau đâu. Ông Ký đi đạo kể ra chẳng có hại gì cho bà Ký cả. Mỗi tháng số lương ông đưa về nhà vẫn đủ không thiếu một đồng. Tính nết ông lại có bề dễ chịu. Bỏ hết các thứ chơi bời như người đi tu thôi! Thế mà bà Ký vẫn muốn ông ấy bỏ đạo, thật rắc rối!
Mà chẳng có gì là rắc rối, đó chỉ là cái thành kiến đã in sâu trong óc: đi đạo là bỏ gia đình, tổ tiên. Lại lời đi tiếng lại của những người họ hàng và những người không phải họ hàng, những người quen thuộc và những người không quen thuộc. Cái xã hội chung quanh có những người đến là rồi mồm.
Ông Ký Thảo không hay đem chuyện đạo ra nói với vợ. Cũng không bắt vợ theo đạo, cái quyền làm chồng áp chế như những ông chồng thời trước, tịnh ông không dùng đến. Ông đi đạo, ông cho là phải nhưng ông muốn vợ phải biết cái điều phải ấy mà theo. Bà Ký theo đạo Tin lành, ông vẫn đợi nhưng ông không ép.
Tiếng ông Ký Thảo đi đạo vang đưa tận cái xóm làng hẻo lánh và người ta đã bàn tán mãi. Toàn những lời chê bai, ông Ký không cần nhưng bà Ký cần, bà Ký bực.
Nhưng một ngày bà đi đạo đấy!
Ai cũng phải lạ lùng, ai cũng phải ngạc nhiên. Nhưng khoan đã, sự thay đổi không phải dễ dàng ngay đâu, nó dài dòng lắm và bắt đầu như sau này:
Một buổi kia, bà quản Toóng lại chơi và chưa bước chân vào trong nhà đã hớt hơ hớt hải báo tin:
- Bà ạ, ông Chánh hội Kiên nhà ta mất rồi đấy.
Đi buôn bán trên con đường thủy Bắc giang Hải phòng, Hải phòng Bắc giang thỉnh thoảng bà quản lại ghé về quê và thường đem tin ở nhà cho bà Ký biết. Mỗi lần thấy bà ta lại là thấy láu táu lô bô:
- Cụ nhà mới yếu nhưng đã mạnh rồi.
- Ông Cựu với bà Lý, nhà chẳng biết làm sao hai anh em giận dỗi, ông Cựu nói nhiều câu chẳng ra gì cả.
- Nhà mợ Thông mới nở thằng bé...
Phần nhiều chỉ là tin vụn vặt, kể ra cho có chuyện, để an ủi tấm lòng nhớ quê. Nhưng lần này là một tin quan trọng: ông Chánh hội Kiên mất. Ông Chánh hội Kiên là anh thứ ba bà Ký. Về nhà chồng từ năm còn nhỏ, tình anh em không nặng lắm, nhưng bà Ký cũng lao đao. Lặng người, bà để mắt lờ đờ nhìn vào khoảng trống. Cái chết của người anh không khiến bà khóc. Cái người không khóc mới biết buồn thấm thìa hơn.
- Bà ạ, ông Chánh-hội nhà mất, kể buồn thì cũng có buồn thật, nhưng nghĩ thì cũng phải. Ông ấy mất đi nhẹ hẳn cho bà ấy một gánh nặng. Ông ấy chơi bời quá lắm cũng như ông Ba Tùng vậy, thuốc sái vào, nay cầm cái này mai bán cái khác chỉ khổ bà ấy thôi.
Cái bà Quản ấy đến là lôi thôi. Câu chuyện ông Chánh hội Kiên mất đủ để bà Ký lặng người, lại câu truyện khác nữa...
- Hôm nọ, ông Cựu ngồi ở ngoài làng nói bà chẳng ra cái gì cả. Ông ấy bảo: Cái con cái ấy, thì cứ lúc nào ông mất là tôi không cho trông mặt.
Bà ký Thảo giật mình đánh thót một cái hỏi dồn:
- Thế nào hở bà. Bầ nhắc lại những câu bác ấy nói cho tôi nghe mấy. Bác ấy nói tệ lắm phải không?
Bà Quản nói có vẻ ngao ngán:
- Nó dài, bà bảo nhắc thì nhắc làm sao được. Tôi nhớ ông ấy bảo đại khái rằng: cái con ấy tôi cứ để cho cái án treo trên cổ.
Nói xong câu ấy, bà Quản trông sắc mặt bà Ký mới biết rằng mình lỡ mồm. Luôn một lúc, bà Ký nhận được hai cái tin để mà buồn và để mà giận. Bà giận ông anh cả là ông Cựu vô cùng. Câu truyện từ năm nảo, năm nào, chỉ có một sự không khéo cư xử về việc đóng góp trong nhà, tưởng xong rồi ai ngờ ông còn nói đến một cách tận tình như vậy.
- Tức mình, mình lại đi đạo ngay giờ.
Bà Ký nghĩ đến sự đi đạo. Đi đạo cho người nọ, người kia tức, đi đạo để trả thù, để được hả giận. Nhưng nghĩ như vậy thôi, bà chưa thực hành ngay.
Rồi một buổi tối thứ năm, lúc ấy hơn sáu giờ, ông bà Ký và mấy đứa con đang ngồi chơi - cả nhà vừa ăn cơm xong - thì thấy thằng bé ở vào thưa:
- Thưa ông bà, có khách ạ.
Khách là vợ chồng ông mục sư và đứa con gái nhỏ.
Bà Ký vẫn nghe nói đến những người này và chưa gặp lượt nào, bà đã có ác cảm. Giá như lúc khác thì chỉ có việc sang hàng xóm lánh mặt là xong chuyện. Nhưng lúc này không kịp nữa, chẳng biết tránh lối nào, bà đành phải tiếp vậy. Hai vợ chồng ông mục sư này trông cũng dễ ưa. Làm nghề truyền giáo đã lâu năm, lặn lội khắp ba kỳ, họ đã khéo luyện được cái cười. Luôn luôn trên miệng, nụ cười gây cảm tình. Họ nói tiếng trọ trẹ, bà Ký tưởng là tiếng xứ Nghệ, nhưng hỏi ra mới biết là tiếng Huế.
Câu truyện quanh quẩn và khách sáo. Toàn lời hỏi thăm chưa thấy nói đến đạo lý. Cứ vậy đến gần nửa giờ. Bà Ký nghe cái tiếng lạ tai nó cũng hay hay. Sau cùng lúc ra về bà mục sư nhất định mời bà Ký vào nghe giảng. Bà ký chưa kịp chối, ông Ký đã bảo:
- Vậy, ông bà đã có lòng mời chúng tôi xin đi một thể. Kìa u mày đi mặc áo đi.
Bà Ký nể quá, miễn cưỡng mặc áo, miễn cưỡng đi, khó chịu vô cùng vì biết rằng đằng sau tấm cửa vào trong nhà, hai mẹ con bà cụ Điều đã đứng rình nghe trộm. Mai ông ký đi làm, thế nào bà cụ cũng nói trêu tức.
Sau cái buổi đi nghe giảng ấy, bà mục sư thường lại chơi với bà Ký luôn. Nhiều lần và là phần nhiều lúc trở về, bà mục sư nài bà Ký vào nhà giảng. Thường thường bà Ký nể mà đi. Rồi khối người, những người đã tin Chúa ở Hà nội về chơi; cả vợ chồng ông Tây già, cái bà người Ăng lê gì đó nữa, đến thăm ông Ký. Bà Ký hơi cảm động:
- Những người có đạo người ta tốt thật.
Bà Ký là người nhẹ dạ Chính bà thì không có chủ đích chắc chắn. Nghe ai nói sao hay vậy thôi, không có cái gì của bà, làm cái gì tự ý bà cả.
- Bà mục sư bà ấy nói cũng có lẽ.
Nhiều đêm bà đã nghĩ như vậy.
- Bà nên tin Chúa đi. Tin Chúa thì được phước. Bà chẳng trông những gia đình tin Chúa và những gia đình ngoại đạo ư? Chúng tôi thì vợ chồng hòa thuận, chỉ có việc thờ trời, không chơi bời nhảm nhí gì cả, mà họ thì chồng bậy bạ, vợ bạc bài, con cái hư hỏng cả.
Bà mục sư ấy đã khá thạo tâm lý. Giảng thuyết cho bà Kỳ, bà khéo đánh vào chỗ yếu điểm, nói những điều cao xa quá, bà Ký đã hiểu ngay làm sao được. Lần nào cũng vậỵ bà chỉ đem một người đã tin Chúa và một người thế gian để so sánh. Cái lối cảm hóa như vậy đã khiến bà Ký hơi ngã lòng. Tuy chưa theo, bà đã có ý thiên về cái đạo ấy. Những lúc nói chuyện với bà cụ Điều, đã nhiều khi bà tuyên bố nửa đùa nửa thật.
- Cái đạo của người ta tốt nhiều cái lắm cụ ạ, chưa biết chừng cháu cũng đi đạo đấy.
Rồi ông bà Ký dọn nhà, dọn nhà về cái nhà cũ bà Thừa Minh thuê hộ ngày mới lên Bắc giang. Cái nhà ấy cả một khu ăn vào cái nhà giảng đạo. Quét vôi, sửa sang lại sạch sẽ, hai gian ông bà Ký ở ngày trước dùng làm cái phòng xem sách cho những ai muốn khảo về đạo, còn hai gian kia để cho người thầy giảng phụ giúp ông mục sư ở. Nhưng ông này mới về Hànội thành ra cả bốn gian hầu như bỏ trống. Ông mục sư liền nhân đó bàn việc dọn nhà với ông Ký. Ông Ký nghe ngay. Như thế được hai điều lợi: một là mỗi tháng đỡ được ít tiền nhà hai là bà Ký ở gần đấy chắc, thế nào cũng theo đạo.
Bà Ký đầu tiên nghe chồng nói còn dẫy nẩy lên, nhưng dần dần cũng xuôi. Thuê nhà của bà cụ Điều, đã đắt hơn, lại gần bà cụ nghe bà cụ nói lôi thôi lắm lúc cũng bực. Mà rồi mình có theo nữa thì đã làm sao chửa! Ở đây năm nào biết năm ấy, thế về sau mình về nhà quê thì đã ai làm gì mình. Trong lòng bà Ký có cả cái ý theo và cái ý bỏ. Kể cũng hay!
Tối hôm tỏ ý nghe theo cái việc dọn nhà thấy chồng có dáng hân hoan, bùi ngùi bà Ký tự nhủ:
- Có dễ mình đi đạo thì trong nhà lại vui vẻ chắc! Nhưng có lũ con, không biết bố mẹ đi đạo, thì sau này ra sao!
Gọi thằng Đức và thằng Tề, bà hỏi:
- Thầy mày đi đạo, con có đi không?
Thằng Tề đáp một cách khôn ngoan, bà Ký lấy làm vừa lòng lắm:
- Hễ u đi thì con cũng đi.
Thắng Đức thực thà, ngốc nghếch hơn trả lời:
- Con thì con chả đi. Con là con cả, con không đi đạo, con phải cúng giỗ chứ. Hê, hê, hễ cu Tề đi đạo, tao không cho ăn cỗ.
Thằng bé nói câu ấy vì nó vẫn nghe thấy bà cụ Điều và bà cụ Ấm bảo như thế chứ chẳng hiểu gì cả. Nó mới có hơn mười tuổi mà...
Bà Ký Thảo nghe hai con trả lời lại càng do dự. Nhưng bà nhớ lại cái buổi bà Quản Toóng lại chơi và những lời bà ta thuật lại.
Bởi vậy một buổi tối... trong căn buồng giảng đạo Tin lành. Chỉ có bà mục sư và bà Ký Thảo. Bóng tối dầy đặc. Ngọn đèn con không đủ sức chiếu sáng khiến căn phòng lại càng âm u huyền ảo. Bà Ký thấy các vật đồ đều như có linh hồn. Chúng chứng kiến cái giây phút thiêng liêng này, giây phút bà Ký Thảo đặt bước chân vào đạo.
- U thì đi đạo đã làm sao.
Bà Ký nói thầm như một người sắp làm một việc gì liều lĩnh. Bà mục sư nghiêm trang hơn lúc thường, sẽ nói:
- Bà quỳ xuống đây với tôi rồi hễ tôi nói gì thì bà nói theo.
Hai người đàn bà quỳ xuống, đầu gục bên nhau trên cái ghế dài. Trong sự tịch mịch và bóng tối rung rinh, hai giọng nói đều đều, trầm trầm.
- Lạy Đức Chúa Cha, lạy Đức Chúa Con, lạy Đức Chúa Thánh Linh, ba ngôi họp một Đức Chúa Trời hằng sống, từ nay, con xin tin Chúa, xin Chúa dẫn dắt con trên con đường của Ngài.