- VI -
GIА đình ông Ký tới quãng này có lẽ là bình yên nhất. Như một giòng sông nơi đồng bằng, ông Ký tưởng thầm như vậy, tin rằng từ đây là hết cả mọi điệu lo lắng, băn khoăn. Chính ông, ông thấy đủ sung
sướng lắm. Người ta sống tức là để hưởng các lạc thú.
Ngày trước các lạc thú của ông là tổ tôm, thăng quan thì bây giờ ông đi nhà thờ, hát thơ thánh, cầu nguyện. Ngày trước bạn ông là mấy ông cùng làm một sở, mấy ông
Thừa mấy ông Phán cuộc hội đàm của các ông là để nói vài câu chuyện cổ kim, kể lại một ván tổ tôm, một ván cờ, bây giờ bạn của ông là ông mục sư, ông truyền đạo, gặp nhau nói truyện đạo lý, việc Chúa, việc Người, ông Ký thầm nghĩ rằng từ ngày
theo đạo Tin lành, ông đã bắt đầu một cuộc đời mới sung sướng hơn nhiều, hạnh phúc hơn.
Chỉ có gia đình thì bà Ký cũng đã theo đạo. Cả gia đình cùng một tôn giáo còn xảy ra sự bất hòa gì được. Ông có ông mục sư là bạn thì bà Ký cũng có bà mục sư là bạn. Trông thấy vợ thân cận với bà mục sư ông Ký nhiều lúc đã mỉm cười hài lòng. Hai vợ chồng đã nhiều lúc nói với nhau:
- Ông bà mục sư, người ta đi truyền đạo cũng tốt thực.
- Truyện, đã ai đối với mình được như ông bà ấy chưa, kể cả anh em ruột nữa.
Ông mục sư đi giảng đạo xa luôn. Hết Lạng Sơn lại Cao Bằng, Nam Định, Thái Bình. Thường khi một vài ngày, năm bảy ngày vắng nhà. Những lúc ấy, buổi tối, bà mục sư cho mời bà Ký bế con sang chơi, hoặc ngồi nói chuyện hay đan áo, thêu thùa. Hai người đàn bà đã cùng một tuổi, lại cùng có long tốt như nhau, nói câu truyện hợp lắm. Những điều tâm sự nho nhỏ, những ký ức từ thuở xa xơi như hai người bạn từ nhỏ. Bà mục sư kể lại cho bà Ký nghe từ thời kỳ thơ ấu bà còn ở Huế. Bà Ký cũng kể lại cho bà mục sư nghe những kỷ niệm khi còn ở quê nhà. Cái gì đã xa, đã mất là cái gì đẹp đẽ vô hạn. Hai bà nâng niu từng câu nói, u hoài trên nét mặt, trong ánh mắt. Bà Ký kể cho bà mục sư cả cái ngày mình, bắt đầu từ cái làng Sắn cách ga Phú Thái hàng chục cây số lên Bắc giang, cả mấy mẹ con dùng bữa lót dạ đầu tiên ở bến tàu tỉnh lỵ. Bà mục sư nghe nói mà cười thầm khen bà Ký thực thà.
Từ khi theo đạo Tin lành, bà Ký ít về quê và thấy mình cách xa gia đình làng mạc hơn một chút. Bà cũng ít lại chơi những nhà quen không đi đạo, để khỏi phải nghe người ta châm chọc, khích bác. Nhớ một lần sang chơi bà Thừa Minh, nghe cô con gái lớn bà ta là chị Dần nói một câu, bà Ký bực mình mãi:
- Chỉ những kẻ khốn nạn lắm họ mới theo đạo.
Chị ta lại dám nói rành mạch ra thế ư! Ai là những kẻ khốn nạn nếu không là ông Ký, bà Ký! Tuy rằng tức điên cả người lên, bà Ký vẫn chưa nói lại một câu nào, chỉ nghĩ thầm:
- Con bé nó láo thật!
Bà Thừa, dáng chừng cũng sượng mặt, liền mắng con gái:
- Ô hay, con nhà chẳng biết ai vào với ai cả nhỉ! Không phải bà Ký là người tốt thì đã chẳng ra gì với người ta không. Con gái con đứa chẳng biết gì cả.
Quay lại phía bà Ký, bà xin lỗi:
- Ấy cháu nó lớn người nhưng vẫn còn dại, ăn nói quàng siên như thế đấy, bà cũng đừng chấp!
Chưa hả được cơn giận, bà Ký cười rất nhạt:
- Không, nào tôi có nói gi đâu. Chị ấy muốn nói thế nào mà chẳng được, người khốn nạn thì chẳng ai bảo khốn nạn cũng vẫn khốn nạn, còn người tử tế thì ai bảo thế nào cũng là người tử tế. Chúng tôi cần gì phải cãi câu ấy...
Cho như thế là đã đủ mỉa mai, bà Ký ngừng lại uống hớp nước, rồi lại tiếp.
- Cái đạo người ta tốt hay xấu có phải bởi những lời khen chê đâu. Ông bà mục sư ở gần đấy bà cũng đã biết người đấy, bà ấy là người trong Hoàng tộc; lại những bà Thông bà Phán ở Hà nội về chơi, người ta cũng là người tử tế cả đấy chứ!
Sau cái buổi không hay đó, hai gia đình vẫn không có điều gì xích mích. Bà Ký thỉnh thoảng nhớ lại câu nói vẫn hơi bực nhưng lại tự an ủi bằng câu:
- Nó trẻ con, mình chấp làm gì, mình vào hàng mẹ nó kia mà.
Đem kể lại cho bà mục sư nghe, bà Ký lại kể thêm một truyện nữa, ngày bà chưa lên Bắc giang còn ở nhà quê.
- Ngày ấy, nhà tôi còn đi bảo học ở làng bên, ở nhà chỉ có tôi với hai cháu lớn. Lúc đó, tôi đang có mang con cháu Dung. Cùng ra một ngõ và đối diện với nhà tôi là nhà thím Sáu nó. Hai chị em dâu, như vậy tôi còn giữ được nữa là. Có một lần như thế này, bà bảo tôi không tốt nhịn mà như người khác thì đã lôi thôi to. Chả nhà thím ta mượn một người ở hết năm nó xin thôi không ở nữa rồi ba tháng sau mới sang ở với tôi. Cái trò tôi dễ dãi nên cũng được người mến. Lúc ấy tôi đương thiếu người làm nhưng cũng ngại điều tiếng nọ kia nên đã sang hỏi trước xem thím ta có mượn không rồi tôi mượn. Thím ta đã trả lời không rồi, nhưng đến khi người ở đã làm với tôi, chẳng biết ai xui khôn xui dại thế nào, một buổi sáng thím ta sang nhà tôi nói những câu chẳng ra gì cả. Mà bảo thế này mới tức chứ, thím ta chẳng bảo vào trong nhà ngồi hẳn hoi mà nói đâu, thím ta cứ ngồi ở sân quay lưng vào trong nhà...
Bà mục sư vừa buồn cười vì câu truyện, lại buồn cười vì vẻ mặt bà Ký liền hỏi:
- Nhưng bà cũng phải nói câu gì chứ chả lẽ im à?
- Có tôi cũng chỉ lấy lời nhẹ nhàng bảo rằng: ‘‘Thím như thế là thím không phải, chị em ở gần nhau làm thế nào giữ được cho thuận hòa là khó, chứ nói những câu khinh bạc thì có khó gì đâu. Dù ngay tôi có tranh cướp thực đấy thì thím cũng liệu lời ôn tồn, chị em ta bảo sẽ nhau, tôi có lỗi tự khắc tôi xấu hổ, huống chi việc mượn cái bà già này, tôi đả hỏi thím rồi.
Ấy tôi chỉ bảo thế thôi bà ạ, nhưng rồi về sau biết ngay mà. Chúng tôi lên trên này, được hơn một năm thì nhà thím ta dọn xuống ở gần với bác tôi. Bác trai mất rồi, còn có bác gái, hai bà chị em dâu chẳng biết cư xử với nhau thế nào mà một hôm cãi nhau ầm phố lên, chẳng ra cái gì cả. Ấy nhà chị Dần rồi cũng vậy, bà ạ, mình chấp họ làm gì, nói nó cũng hoài hơi, để rồi có người khác người ta nói hộ. Cuộc đời chảy theo cái giòng êm ả nhất, không có điều gì đáng nói. Sau này, nhớ lại, trong ký ức bà Ký chỉ có ba việc: một là những buổi lấy tiền ngày cuối tháng, hai là việc đi Hà nội họp hội đồng, ba là việc làm phép ‘‘ bắp tem’’.( baptême = Lễ rửa tội)
Những buổi lấy tiền ngày cuối tháng phải sắp lên đầu vì nó nhiều ngày nhất. Những ngày đó, ông Ký lĩnh lương về, đưa cho vợ để lấy tiền chi dùng hàng tháng thế nào cũng có vài điều sích mích. Bà Ký vốn hoang, hoang là hoang cho chồng cho con chứ bà cũng chẳng phí đi đâu đồng xu nhỏ nào. Nhưng ông Ký lấy làm không bằng lòng tính ấy của vợ nên tháng nào ông cũng đưa thiếu đi một chút.
- Thầy mày có đưa thêm tôi mấy đồng nữa không như thế này thì không đủ.
- U mày thì có bao nhiêu cũng hết, chẳng biết tính toán gì cả, ngộ lương người ta chỉ có thế thì sao. Để người ta giữ thì còn.
- Thầy mày giữ mà lại còn. Bây giờ không tổ tôm thì lại tiêu nhảm hết chứ gì. Ngày trước tôi về đến mấy tháng cũng có thừa ra được xu nào đâu, lại còn nợ nhà ông trưởng phố năm chục nữa.
Hai vợ chồng, không nói với nhau một câu thô tục bao giờ, nhưng nói lâu cũng đâm ra gay gắt. Bà Ký bực mình vì những câu ‘‘u mày chẳng biết cái chó gì cả’’, và phàn nàn với bà mục sư. Bà này chỉ cười chế giễu:
- Bà chỉ hay đổ thừa cho ông.
Mãi sau, bà Ký mới tìm ra một cách là giật tiền mà giật tiền bà mục sư là người ông Ký nể phải đưa cho đem trả ngay, không trì hoãn:
- Đấy thầy mày đưa thiếu, thành ra tôi phải giật của bà mục sư đấy. Thầy mày có cho để trả bà ấy không?
Lắm lần, bà Ký lại trêu chồng:
- Tôi còn nợ bà mục sư 5đ đấy, nhưng thôi để tháng sau trả bà ấy cũng được chứ trả bây giờ thì lấу gì mà ăn.
Cố nhiên là ông Ký phải ‘‘sùy’’ tiền ra năm đồng nữa.
- Thôi u mày đem sang trả bà ấy ngay đi. Người ta đi truyền đạo làm gì có thừa.
Từ đấy có giật mượn ai, bà Ký cũng bảo của bà mục sư. Cũng lấy điều nói dối ấy làm phiền, cũng thấy tự thẹn, nhưng bà không biết làm thế nào khác nữa. Không như thế, thì mỗi lần hỏi ông Ký mấy đồng bạc là mỗi lần khó chịu.
Cái việc thứ hai là việc đi Hà nội họp hội đồng ở vào thời kỳ con Ân Điển được tám tháng. Một buổi tối, nghe chồng nói bà Ký lấy làm lạ lùng:
- Nay mai, có học hội đồng địa hạt ở hội thánh Hà nội đấy u mày có đi thì đi.
Mấy tiếng ‘‘họp hội đồng địa hạt’’ bà Ký chẳng hiểu thế nào cả.
Ngày ở nhà quê, mỗi khi nghe có tiếng ‘‘Họp hội đồng’’ là bà biết rằng hôm ấy các lý dịch trong làng họp nhau lại ở đình để bàn một việc gì. Ở làng còn có việc khác chứ giảng đạo thì còn có gì mà phải bàn.
- Họp hội đồng địa-hạt là thế nào nhỉ thầy nó nhỉ?
Ông Ký nhếch mép cười bảo vợ:
- Có thế mà cũng phải hỏi. Họp hội đồng là các ông mục sư thầy giảng các nơi họp nhau lại để bàn việc tổ chức giảng đạo những nơi nào chưa có. Còn họp hội đồng địa hạt, là riêng cho một hạt, một xứ thôi.
- Như thế thì mình đi làm gì?
- Nhưng dịp ấy, tín đồ các nơi, ai có thể thì cũng đến dự để nghe giảng nhân thể. Và để người nơi này, nơi khác biết nhau cho thêm thân mật. Cùng là anh em, chị em trong Chúa mà lại.
- Thế còn hội đồng gì nữa?
- Còn hội đồng tổng liên hội nghĩa là cho toàn nước ta, toàn cõi Đông Pháp.
Hai vợ chồng đang bàn nhau như vậy thì ông bà mục sư và đứa con cũng sang.
- Đến hôm hội đồng này, ông bà thế nào cũng đi dự chứ.
Nghe ông mục sư hỏi, ông Ký sẽ lắc đầu:
- Tôi thì không vào ngày lễ không đi được. May ra sang nhóm được buổi đầu là chủ nhật.
Bà mục sư hỏi luôn bà Ký:
- Nhưng bà thì thể nào cũng đi chứ. Cả em Ân Điển nữa, còn các em kia còn đi học thì phải ở nhà...
Bà Ký đã thầm nghĩ rằng buổi đi họp hội đồng này chắc cũng vui như đi hội chùa: bà cũng muốn đi nhân thể xem Hà nội thế nào. Từ thủa nhỏ, bà vẫn chỉ ước được đi Hà nội mà chưa có dịp. Nhưng đi là phải mất tiền, nên bà còn lưỡng lự:
- Thưa bà nhà tôi có đi được thì đi, chứ tôi có lẽ khí bấn...
Bà mục sư không hiểu rõ cái nghĩa chữ ‘‘bấn’’ thế nào nhưng cũng cứ nói:
- Chẳng phiền chút nào đâu bà ạ, Bà cứ đi cùng tôi, có chỗ ở hẳn hoi, hội đã thuê nhà rồi còn cái ăn thì nhờ một ông bà tín đồ ở đấy vậy. Cũng chẳng tốn kém hết mấy.
Một tuần lễ nữa mới hộl đồng, còn chán thì giờ để bàn tính và do dự. Ông Ký muốn cho vợ đi vì ông bà mục sư muốn, lại trong lòng, bà Ký cũng muốn nữa, nên cái việc đi là dĩ nhiên. Ông mục-sư phải đi trước hai ngày, còn bà mục sư và đứa con thì cùng đi với bà Ký ẵm con Ân Điển. Chuyến tầu đi vào ngày thứ bảy.
Đến Hà nội, điều thứ nhất làm bà Ký vui chưa phải là Hội thánh nhưng là phố xá. Cảnh đông đúc ở thủ đô vẫn dễ cám dỗ người. Lần đầu tiên, bà thấy cái tầu điện kẹp chết người; kẻ bị nạn là một anh xẩm. Có lẽ cảnh kinh khủng ấy lại ghi sâu vào trí nhớ bà hơn là những bài giảng bằng những giọng đường trong nghe rất khó. Nhưng mà vui, người nọ, người kia lại hỏi thăm bà và ẵm con bé Ân Điển. Có người ở tận Thái Nguyên, có người ở Hải phòng, lại có người ở tận Ninh bình nữa.
Ngày bế mạc hội đồng, tất cả mọi người ngồi từng hàng để chụp ảnh. Bà Ký bế con Ân Điển ngồi bên cạnh bà mục sư cố lấy vẻ mặt tươi cười.
Hôm về nhà, ngồi tính lại hết có ba đồng bạc, bà Ký tươi cười bảo chồng:
- Hết có ba đồng bạc mà vui vẻ quá thầy nó ạ. Thế mà hôm chủ nhật thầy nó chẳng đi Mất thêm một đồng nữa là cùng chứ gì.
Hai vợ chồng nhìn nhau bằng đôi mắt có lẽ thân thiện nhất kể từ năm lấy nhau, chồng mười bảy, vợ mười tám.
Còn cái việc thứ ba là việc làm phép ‘‘bắp tem’’, về sau, mỗi lần nhắc lại là một lần bà Ký ngùi ngùi. Thường thường, trong khi nói chuyện, bà vẫn được bà bà mục sư giảng cho biết rằng đời sống một người vào đạo có hai lần quan trọng là lần cầu nguyện và lần làm phép ‘‘bắp tem” cũng như hai lần cửa để cách biệt người tín đồ và người ngoại đạo. Những người mới quỳ xuống cầu nguyện chỉ được gọi là người tin theo Chúa và còn phải chờ một vài năm, chịu nhiều lần thử thách nhiều sự bắt bớ của gia đình, của xã hội của chính mình, mà giữ vững được mọi điều liệu chừng không thể bỏ đạo được nửa, bấy giờ ông mục sư mới làm phép ‘‘ bắp tem” cho. Phép ‘‘bắp-tem” có một lần ông mục sư giảng và bà Ký chú ý nghe; dù không hiểu được những chữ huyền bí ‘‘ Làm phép bắp tem bằng đức Thánh Linh”v..v.. bà cũng biết đại khái rằng lễ ấy chỉ có mộr bài hát, một câu cầu nguyện, ông mục sư hỏi người tín đồ mấy câu xem có hiểu chút gì về đạo không, có thể giữ được đạo không, đoạn liền đẩy người tín đồ xuống nước- hoặc hồ, ao, sông biển, nếu không thì một cái bể xây cũng được. Người chịu phép ‘‘bắp tem” bị chìm và ướt hết cả người rồi ở trong nước ra có ý làm hình bóng rằng người cũ đã chết, đây là người mới. Những người chỉ cầu nguyện thôi thì có thể bỏ đạo một cách dễ dàng không ai giữ, nhưng những người đã chịu phép ‘‘bắp tem” rồi tức là một phần tử của hội thánh, muốn bỏ cũng phiền.
Ngay đương lúc còn sốt sắng với đạo, bà Ký cũng nuôi cái ý bỏ rồi nên bà ngần ngại không muốn làm phép bắp tem. Bà đã tỏ ý ấy ra với bà mục sư hôm có mấy người thợ xây cái bể nho nhỏ.
- Bà Ký ạ, cái bể nhỏ này mà cũng mất ba đồng bạc công đấy. Ấy là mình đã có gạch sẵn. Bà thử bước lên cái bậc trèo vào xem đến hôm ấy có tiện không nào?
- Cái bể này xây để làm phép bắp tem đấy hử bà? Hôm này có những ai nhỉ. Tôi, thì ông bà để cho lần khác vậy, đạo Chúa chưa chắc tôi đã giữ được đâu.
Bà mục sư cười rồi nhìn bà Ký ân cần:
- Bà chỉ nói lẩn thẩn thôi nào. Hội thánh đây được gia đình ông bà, Chúa ban phước nhiều hơn cả. Lẽ nào hôm này ông làm bà lại không làm. Mấy lại chẳng có mấy người... Thôi bà đừng từ chối nữa, Chúa sẽ ban phước cho bà và giữ vững bà. Từ buổi tối hôm nay, thể nào bà cũng sang bên nhà tôi học ‘‘Phước âm yêu chỉ” nhé.
Buổi tối hôm ấy rồi nhiều buổi tối khác, bà mục sư ép bà Ký sang nhà mình để học những câu trả lời. Có tin Chúa Jésus đã chịu chết trên cây thập tự thay cho thế gian không? Có tin Ba ngôi Đức Chúa Trời không? Có thờ lạy hình tượng và tà thần nữa không? v..v..
Bà Ký nể bà mục sư mà sang và định bụng hôm nào làm phép ‘‘bắp tem” sẽ trốn là xong việc. Nhưng cái buổi ông Mục sư người Mỹ ấy ở Hà nội về chưa kịp đi đâu, bà Ký đã bị bà mục sư giữ đươc. Lại một lần nể nữa, bà Ký đành chịu phép ‘‘bắp tem” vậy.
Lúc ấy vào quãng ba giờ chiều. Cả mấy người đứng bên cái bể đã đổ đầy nước, ông mục sư người Mỹ đã mặc bộ quần áo ta để tiện lội vào bể nước. Hát một bài, đọc một đoạn Kinh Thánh rồi cầu nguyện. Đoạn ông mục sư bước vào trong bể nước với ông Ký Thảo.
Bà Ký nghe chồng trả lời một cách thành thực và ngoan ngoãn những câu hỏi của ông mục sư bất giác thở dài. Giá bà như chồng được! Giá bà cũng tin như vậy được!
Khi ông Ký ở trong bể nước ướt lướt thướt bước ra rồi thì đến lượt bà vợ. Thật là miễn cưỡng, bà Ký ngần ngại toan nói một câu từ chối. Nhưng ngẩng lên bà gặp con mắt thúc giục của bà mục sư. Cũng như cái lần cầu nguyện để theo đạo, bà tự nhủ thầm khi bước lên từng bực xi măng vào bể nước.
- Thì làm phép ‘‘bắp tem” nữa đã làm sao. Lúc nào ta bỏ thì ta cứ bỏ chẳng phải phép ‘‘ bắp tem” mà giữ được.