← Quay lại trang sách

- IX -

TRÊN chuyến tàu sớm nhất từ Hà nội về Phú lạng thương một sáng chủ nhật, thằng Đức ngồi im lặng bên cạnh cái va ly. Giữa những tiếng ồn ào của hành khách nói chuyện, của máy xe chạy, nó thấy dễ

chịu cho sự suy nghĩ hơn là lúc ngồi một mình.

Lần này, nó về thăm nhà, định ở chơi mấy hôm, rồi mới trở lại Hà nội. Mãi mười lăm tây, các trường trung học mới mở cửa, hôm ấy mới mồng bảy. Trong có mấy tháng trời, thằng Đức được hai lần đắc thắng ; lần thứ nhất là lần đang ốm đi thi Sơ học Pháp Việt và lần thứ hai là kỳ thi vào học trường Bưởi mấy ngày trước đây

có bảng. Hơn tám trăm người tranh nhau một trăm hai mươi chỗ ngồi trong ba lớp năm thứ nhất. Không ai ngờ thằng Đức được vào, từ các bạn học, cha mẹ cho đến những người quen. Truyện, mấy tháng hè người ta đi học tư chỗ nọ chỗ kia, còn mình thì nằm rên vì những mụn đầu đanh. Chính nó cũng nhiều lúc tự nghi ngờ: Có lẽ mình không vào trường được! Nhưng nó lại tự ám thị:

- Nhưng mà làm gì chẳng đỗ. Chúng nó học dốt như bò cả. Cái lần đi thi ở Bắc Ninh vừa rồi, ai chẳng bảo mình trượt, thế mà mình bảo mình đỗ là mình đỗ.

Cùng ở với thằng Đức và cùng đi lên trường Bưởi thi là thằng Hinh con ông ba Tùng, hai anh em họ ở trọ nhà ông Phán Mẫn, một đứa gọi bằng chú, một đứa gọi bằng bác. Thằng Hinh năm trước đã trượt kỳ thi ở Hải phòng nên phải nghỉ một năm ở với chú là ông giáo Chi. Gia đình ông giáo Chi từ năm trước đã thiên từ Nam định ra Moncay.

Ở nhà, thằng Đức đã tức vì ông bác coi thường. Những câu nói: ‘‘thằng Hinh có đỗ thì đỗ chứ thằng Đức đến học ngoài thôi’’ làm nó khó chịu. Buổi sáng lên trường, gặp những thằng bạn cùng lớp, nó lại bực một lần nữa.

- Mày nghỉ lâu như thế thi làm quái gì cho phí tiền tem.

Những thằng bạn nó lại dám coi thường nó như thế ư?

- Được rồi tao đỗ cho chúng mày coi!

Quả nhiên như lời thầm ước của nó, thằng bé được vào trường cùng với hai bạn cùng lớp. Một trăm hai mươi người bị sắp hàng một trăm mười chín, thứ bực khí kém một chút nhưng còn hơn chán người.

Ngồi trên chuyến tàu về thăm nhà, thằng Đức nghĩ đến kỳ thi vào trường mà buồn. Quả vậy, nó không vui. Giá là sự đắc thắng một năm trước đây! Một năm trước đây, nó cũng là người học trò nhất lớp trường Phủ Lạng. Nó tự biết mình đáng đỗ Sơ học Pháp Việt và đáng được vào trường Bưởi lắm. Đúng ra lúc này nó sắp lên năm thứ hai. Còn chậm lại một năm thì học đâu chẳng được. Một trường tư kia đã quảng cáo học bốn năm đỗ Tú tài. Nó có thể thôi học trường Bưởi để học lớp ấy nếu cha mẹ nó cho phép.

Rồi nghĩ đến thằng Hinh, nó lại thương hại anh họ. Ông Ba Tùng mất rồi, bà Ba sống vất vả không đủ nuôi con, đứa con lớn là thằng Hinh được ông chú nhận làm con nuôi để trừ tiền học thì cứ trượt mãi. Đã một kỳ thi năm trước ở Hải phòng lại kỳ thì năm nay ở Hà nội. Giá có thể nhường chỗ cho anh chắc nó cũng nhường ngay.

Hết những chuyện vẩn vơ, đứa bé mười lăm tuổi ấy nghĩ đến gia đình. Bất giác nó thở dài. Nghĩ đến cha, nó giận cha, nghĩ đến mẹ, nó giận mẹ, tại làm sao hai người lớn ấy không biết cách cư xử để gia đình hòa thuận một chút! Nó lấy làm khổ tâm vì có một người cha, một người mẹ như vậy, người cha, người mẹ lý tưởng của nó khác kia, người cha người mẹ để cho nó kính ngoài chữ yêu phải là những người trong luân lý. Nhưng làm thế nào được, nó đã phải sinh vào gia đình ấy, phải chịu ơn sinh dưỡng của hai người là Vũ đình Thảo và Phan thị Ái, mang lấy mấy chữ tên Vũ đình Đức! Tất cả mọi người chung quanh nó đều công nhận như vậy, không còn chối vào đâu được. Chỉ có một cách thoát ly là chết, nhưng nó còn muốn sống, thấy mình có bổn phận sống.

Thở một hơi dài, nó cố trút hết nỗi hằn học. Nhớ lại một câu truyện đọc trong một quyển tiểu thuyết ‘‘một anh chàng lớn lên trong một gia đình, đã đi làm, có vợ, có con thì được mẹ kể cho biết rằng anh ta không phải đứa con của gia đình ấy,’’ lại một truyện ngắn khác ‘‘một người mẹ gửi con vào một gia đình khác đến lúc lớn lên mới đón con về,’’ thằng Đức ước mong rằng trường hợp ấy xảy ra cho mình. Không phải một lần, nhưng nhiều lần lắm, những khi ông bà Ký cãi nhau trong nhà, nó đứng chờ một người hiền từ ở vẻ mặt ở dáng điệu bước vào để nhận nó là con. Nếu sự thực là như thế, nếu đối với ông bà Ký Thảo, nó chỉ mắc có ơn nuôi nấng thì nỗi khổ trong lòng đứa bé ấy vơi hẳn. Nó sẽ cố trả lại những điều đã chịu của hai vợ chồng này, thế là yên tâm, còn về sau ông bà Ký muốn cãi nhau đến đâu, thằng Tề muốn bỏ đi bao nhiêu lần nữa cũng mặc; nó không phải là đứa con của gia đình, nó không phải chịu trách nhiệm về những chuyện rắc rối của gia đình. Nhưng hỡi ơi, thiên năng nó đã cho nó biết chắc rằng cha nó là ông Ký Thảo mẹ nó là bà Ký Thảo-không thể sai được- và hai người có lẽ bởi một sự tình cờ nên vợ nên chồng, một bữa nhắm rượu khề khà xong, bỗng dưng cụ Cử nghĩ đến con bé cái Ái con cụ Chánh có thể hỏi cho đứa con thứ năm là thằng Thảo.

- Ừ, cái con cái Ái con ông chánh Năng, bà mày xem thế nào, nó cũng chăm chỉ làm ăn đấy chứ. Liệu hỏi cho thằng Thảo có xứng không.

Đầu tiên, bảo vợ, rồi bảo bà mối, ông cụ Cử già ấy cho rằng như thế là đã đủ bổn phận lắm rồi-Tao cứ muốn cho chúng mày có đôi - nhưng cụ có ngờ đâu, kết quả chỉ là cho ra đời mấy đứa cháu đáng lẽ không nên có, để chúng nó đau khổ vì cha, vì mẹ.

Thằng Đức nghĩ như vậy mà chán. Kể ra những đứa trẻ mười lăm tuổi khác, không đứa nào có những ý nghĩ kỳ quặc ấy.

Nhưng bây giờ, ta làm thế nào, ta phải cư xử thế nào? Nó tự hỏi như vậy sau cùng kết luận: Thôi thì làm thế nào cho vui lòng hai người mà Số mệnh đã bắt ta phải gọi là Cha Mẹ. Nghĩa là làm một người con hiếu.

Nói thì dễ, nhưng làm có dễ đâu! Làm vui lòng một cha, làm vui lòng một mẹ, có thể, nhưng làm vui lòng cả cha cả mẹ. Nói ngay một việc theo hay không theo đạo Tin lành, chính nó vẫn dửng dưng, theo hay không theo cũng được, nếu theo đạo thì làm vui lòng ông Ký thật đấy, nhưng bà Ký chẳng vui chút nào.

- Được mày là lớn mà mày lại như thầy mày thì chán lắm?

Chỉ có cái việc đi học, rồi thi đỗ, rồi đi làm là có thì làm vui lòng cả cha, cả mẹ. Được vào trường rồi, chỉ một tuần lễ nữa là khai trường, nó tự bảo:

-Đức ơi, thôi thì mày hẵng cứ đi học rồi đi thi đi, những cái gì đã qua rồi, nhắc làm gì nữa.

Tàu đã đến ga. Ở trên tàu bước xuống đi qua cái buồng đợi tàu, thằng bé nhìn mấy cái quán bán hàng, cái cầu ga, mấy chiếc xe tay đợi khách lòng thấy nao nao. Khác nào, con cá trở về ao cũ, nó muốn bảo cái tỉnh lỵ Phủ lạng Thường êm đềm lặng lẽ dưới mặt trời:

- Từ nay chỉ thỉnh thoảng ta về thăm ngươi thôi

Gọi một chiếc xe tay, không mặc cả, nó bước lên:

- Kéo về phố Nghĩa Long, dẫy hàng Mã.

Cái gia đình đầy sự bất hòa đầy những mầm chia rẽ ấy, nhân thằng con lớn mới được vào trường về thăm, nên được vui vẻ mấy hôm liền.

Ông bà Ký Thảo tươi cười hỏi con:

- Thế nào con xem ở nhà bác có thể được không?

- Bác Phán dạo này có dễ chịu không?

- Có bàn học không, có thắp điện không? Nếu có tiện việc học thì ở đấy không thì lại đằng ông mục sư hơn.

Không khí trong gia đình như một nước quanh năm mưa phùn được ngày nắng. Thằng bé hởi lòng, vui vẻ trả lời từng câu hỏi của cha mẹ:

- Con ở nhà bác là được rồi. Lại tiện có anh Hinh anh ấy ở nữa, anh ấy có cả chăn, màn, đỡ phải mang ở nhà ra. Anh Hinh số đen quá, năm nay lại hỏng một kỳ thi nữa, phải học trường Thăng Long vậy. Nhưng tiền học chú Chi cho, mỗi tháng ba đồng rưỡi chú ấy gửi về cho bác Phán. Học ở trường tư mỗi năm tiền học một tăng, chẳng biết đến năm thứ tư, tiền học hơn sáu đồng, chú ấy có gửi được không. Ở nhà bác không có điện phải thắp dầu như ở nhà. Tối học với anh Điểm con bác...

Biết chỗ ở của con yên rồi, ông bà Ký lại hỏi đến sức khỏe:

- Độ này con có còn yếu không?

- Con có còn hay lở không?

- Con vẫn hơi mệt, không thức khuya được mà lở cũng còn nhiều. Thầy u có thuốc gì cho con uống khỏi đi, không đến lúc đi học, trường họ bắt nghỉ.

- Thầy mày cắt cho con mấy thang tiêu độc chăng.

- Thôi để mua một tá thuốc để tiêm tốt hơn.

Thực là một cảnh gia đình hòa thuận. Đang lúc ấy, bà cụ Ấm vào chơi. Bà cụ tươi tắn và ân cần nói:

- Ông bà được cậu con trai giỏi quá. Ốm ngần ấy tháng mà còn đỗ được vào trường. Con bà Thừa Đạo ở dưới kia cũng phải hai năm đấy.

Nói đến chuyện lở ghẻ, bà Cụ lại mách:

- Thằng Văn nhà tôi cũng có cái máu ngứa như thế đấy. Uống đã chán thuốc mà không khỏi. Sau phải tiêm, chắc anh Đức nhà này cũng thế chứ gì, để tôi bảo nó biên tên thuốc cho.

Trong năm hôm ở nhà, thấy cha me không khằn khò nhau, lại người này, người nọ đến chơi, ai cũng khen ngợi, thằng Đức vui vẻ tưởng rằng cơn mưa gió đã qua, đã tới ngày nắng ráo.

Ở nhà được một hôm, nó vào thăm thầy giáo. Ông giáo Ngọ, người đẫy đà ấy đã mỉm cười bảo học trò:

- Thầy biết thế nào anh cũng đỗ, cũng vào trường được mà. Năm ngoái là anh không may đấy thôi. Dạy học bao nhiêu năm, học trò ai thế nào thày biết chứ. Cố lên nhé, cố lên, gia cảnh nhà anh thế nào thầy biết. Cha mẹ anh trông vào anh nhiều lắm đấy, đừng phụ lòng cha mẹ. Về sau anh khá, thày cũng mừng cho.

Thằng Đức đã cảm động như tất cả những người học trò được thày giáo khen. Nó đinh ninh sẽ hết sức chăm học ở trường Bưởi, làm thế nào để cuối năm, lúc về thăm ông thày cũ, có thể nói một cách tự phụ:

- Thưa thày con thứ nhất ạ, học trò trường ta đi đâu chẳng khá hơn các học trò trường khác.

Cả năm hôm nó ở nhà, bữa cơm nào cũng thịnh soạn, món xào, món rán la liệt cả mâm, có bữa làm gà, làm vịt nữa. Có một rạp cinéma ngoài phố, thực là không ngờ, ông Ký Thảo cho con mấy hào bảo đi xem:

- Ở Hà nội, thằng Đức có đi xem cinéma lượt nào không? Hôm nay thấy bảo ngoài kia chiếu phim gì hay lắm, thày cho năm hào, con rủ thằng Tề đi xem mấy, hai đứa lớn thôi, còn những đứa kia chưa biết chữ Tây.

Giá không có một câu này của bà Ký thì mấy ngày thăm nhà của thằng Đức được vui hoàn toàn. Câu nói cay đắng ấy người mẹ đã rỉ vào tai con lúc nó sắp ra tàu đi Hà nội học:

- Được mấy hôm con về, thày mày mới dễ chịu đấy, chứ ngày thường u bực lắm? Con chịu khó chăm mà học. U thì thể nào cũng phải mang hai đứa em bé đi chỗ nào buôn bán, mẹ con nuôi nhau, ở với thầy mày thêm một ngày là một ngày khổ.

Trên chuyến tàu từ Phủ Lạng Thường về Hà nội, đứa bé mười lăm tuổi lại buồn rầu như hôm về nhà.