← Quay lại trang sách

- VIII -

MỘT buổi sáng chủ nhật, bà Ký Thảo vào chơi trong bà Thừa Minh. Như lệ thường ông Ký cắp quyển Kinh Thánh và quyển sách hát đi nhà giảng. Cùng đi với cha có mỗi một thằng Vượng, còn những đứa khác từ ngày bà mẹ bỏ đạo, chúng cũng theo mẹ không mấy khi có mặt ở nơi đó. Lúc đầu ông Ký còn ép, vợ ông không theo đạo mặc kệ, nhưng lũ con chúng phải theo ông.

- Thằng Tề cắp quyển Kinh Thánh và quyển sách hát lại nhà giảng. Cả thằng Bân, con Dung, thằng Vượng … chúng bay mặc áo vào chứ.

Thằng Tề kiếm cớ chối:

- Con sắp phải vào trong thầy giáo cộng sổ nốt. Chốc nữa về con còn phải học thi. Thầy mang lấy vậy.

Cả lũ trẻ cùng ngúng nguẩy không muốn đi.

- Con không đi đâu, thầy ạ.

- Mặc áo vào đi đi chứ, không phải đòn ngay giờ.

Nghe chồng bắt con đi, bà Ký bênh con:

- Thầy mày đi cứ việc thầy mày đi, chúng nó trẻ con, chúng nó không muốn đi, bắt chúng nó làm gì.

Hai vợ chồng lại cãi nhau một lúc. Lời nói bà Ký cũng có kết quả. Từ lần sau, ông Ký đi chỉ rủ một mình thằng Vượng.

Buổi sáng chủ nhật này, đợi chồng đi xong, bà Ký dặn lũ con ở nhà rồi vào chơi trong bà Thừa Minh. Vào chơi chính ra cũng có việc, bà Ký định giật bà Thừa năm đồng tiêu tạm. Từ ngày thằng Đức đi Hà nội học, trong nhà bắt đầu thấy túng thiếu. Tháng lương vừa qua lĩnh ba mươi lăm đồng về, ông Ký giữ lại hơn một chục chỉ đưa cho bà có hai mươi và một đồng bạc lẻ.

- Đây u mày làm thế nào cho đủ thì làm. Mình còn giữ lại tiền đi gửi cho thằng Đức thôi đấy.

Bà Ký không biết nói lại làm sao, đành lẳng lặng cầm lấy số tiền. Hai mươi mốt đồng này cộng với năm đồng bạc của ông cai Mai gửi vào miệng ăn thằng Bân nếu cố chi chút cũng tạm đủ, nhưng cái ông cai ấy chẳng bao giờ đúng hẹn cả, mấy tháng đầu, ông còn gửi đều đều nghĩa là đến mồng mười ông Ký lĩnh được măng đa, nhưng dần dần, hai tháng, ba tháng một lần, rồi gần đây bặt hẳn. Hai vợ chồng đã nói với nhau:

- Quái cái chú ấy thế mà đoảng, có mấy đồng bạc của con gửi cũng không đủ.

- Ấy không biết tiêu nó như thế đấy, vợ chồng thằng Chi hai lương, hơn trăm bạc một tháng còn nợ nữa là.

- Lạy Trời, ba chục chú ấy còn thiếu ấy, chú ấy mua được họ gửi ngay cho mình thì sướng quá.

Cái măng-đa của ông cai Mai như một viễn ảnh, đến hôm nay thiếu quá, bà Ký đành vào giật tạm bà Thừa vậy. Bà này cũng không phong lưu gì, so với bà cụ Ấm, bà Ký Thu kém xa, nhưng có đều dễ hỏi hơn.

Chẳng lẽ hỏi thẳng đến chuyện tiền ngay, hai người còn bàn tán xa xôi. Ông Thừa chủ nhật được nghĩ nhưng ra ‘‘séc’’ đánh tổ tôm không có ở nhà.

- Các cháu lớn lên chút nữa thì tôi kiếm cái vốn nhỏ về nhà quê, bà ạ. Ở đây thiếu quá, mỗi lần lĩnh lương hai vợ chồng khẳn khò với nhau thực khó chịu. Chẳng biết ông nhà trong này thế nào, chứ nhà tôi, hễ đến đồng tiền là nhăn nhó…

Bà Thừa mỉm cười:

- Thì ông nào chẳng vậy. Tiền các ông ấy muốn giữ cả để đi đánh tổ tôm cơ. Thầy cháu, sau tôi không hỏi nữa, cứ mỗi tháng để cái hộp ở đầu giường, hay hôm nào thiếu cũng vậy …

- Ông nhà dễ chịu nhiều, nhà tôi mà để cái hộp như vậy thì đừng mong. Lại bây giờ mỗi tháng phải gửi tiền cho thằng cháu nữa. Bốn đồng bạc cơm, ba đồng sáu bạc học, lặt vặt cho thằng bé được độ đồng bạc nữa, thế mà tháng nào cũng giữ có khi đến mười lăm, mười sáu đồng...

Từ câu chuyện tiền sang chuyện con cái. bà Thừa hỏi:

- Anh Đức nhà bà thế mà giỏi đấy nhỉ, ốm bốn năm tháng mà đỗ cả vào trường Bưởi. Bây giờ ông bà gửi ông Phán chứ, cháu ở nhà bác là phải, ông bà Phán bây giờ có phong lưu không ạ?

Bà Ký mỉm cười như đã mỉm cười với bà cụ Ấm, bà Ký Thu và nhiều người quen khác mỗi khi ai hỏi thăm con:

- Vâng thằng cháu ấy từ trước vẫn học được. Ông giáo Ngọ ông ấy cũng khen luôn đấy ạ. Năm ngoái, cháu đã nhất lớp đáng đỗ rồi, nhưng thành ra không may, chậm đến năm nay. Cháu đi Hà nội, nhà tôi cứ định gửi vào nhà đạo Tin lành; tôi phải nói mãi mới gửi vào chỗ bác cháu. Bác cháu cũng nghèo nhưng vẫn là chỗ người nhà. Bác có ăn thì cháu cũng có ăn.

Ngừng lại một chút, bà Ký lại tiếp theo bằng một giọng ngao ngán:

- Lại vài năm nữa thằng cháu Tề, tôi không biết rồi tính ra làm sao,

Bà Thừa lắc đầu, chép miệng:

- Dù sao bà còn hơn tôi nhiều, các anh ấy về sau lớn lên mỗi người đi làm một chỗ chứ tôi một lũ con gái…

Bà Ký ngắt lời:

- À chị Hồng bao giờ thì bên nhà trai người ta đón bà nhỉ. Anh ấy tôi đã biết người... Người hiền lành chí thú đấy bà nhỉ... Nhưng anh ấy đã đi làm chưa.

- Ông bà Thừa bên ấy cũng bảo trong năm nay xin cháu về đấy ạ. Tôi cũng mong sao chóng xong việc đi cho mình yên tâm. Được nhà anh ta cũng chịu thương, chịu khó. Đỗ ‘‘diplôme’’ chưa có kỳ thi vào sở nào nên vẫn dạy tư trên Hanoi. Lại còn con cháu Dần nữa, giá có ai người ta thương đến...

Ngoài nói truyện vẩn vơ như thế cũng đã lâu, bà Ký liền hỏi thẳng đến việc:

- Tháng này tôi túng quá, bà ạ. Mới mồng mười mà đã không còn một xu nào đấy. Tôi định nhờ bà cho giật tạm năm đồng rồi hôm nào bà cần tiêu, tôi lại xin đưa lại.

Bà Thừa dốc hết cả túi ra năm đồng bạc giấy và một ít hào xu:

- Chỗ chị em chẳng giấu bà làm gì, đây tất cả còn thế này đây. Xem bao nhiêu nào. Sáu đồng bảy hào hai xu rưỡi. Nhưng bà có túng thì bà cầm tạm một nửa vậy.

Bà Ký lưỡng lự nhưng cũng đành cầm lấy ba tờ giấy bạc một đồng, ngậm ngùi ra về. Lúc qua cái nhà cũ, nhớ lại những cảnh đã qua, nào ngày mới ở nhà quê lên Bắc giang, nào ngày đi đạo Tin Lành ở bên bà mục sư rồi ở bên nhà bà Minh Thịnh, bất giác bà thở dài:

- Sáu năm rồi.

Sáu năm rồi và bao nhiêu ngày tháng lẻ nữa, kể từ cái buổi sáng đầu tiên mấy mẹ con ăn bữa lót dạ ở bến tàu tỉnh lỵ Bắc giang. Bao nhiêu sự thay đổi làm trán bà thêm mấy đường nhăn, lòng bà thêm ít nhiều điều chán nản. Ở cái xóm làng xa lăng lắc ấy, mấy người thân của bà đã theo nhau qua đời: Ông hội Kiên, bà Lý Cam rồi ông hội Nhân, anh, chị em chết, làm thế nào cho khỏi buồn, khỏi chán. Và ở cái tỉnh Bắc giang buồn như có bệnh dịch này, hai vợ chồng chán nhau thêm một độ nữa.

Người chồng thấy vợ không được như mình muốn, người vợ thấy chồng không được như mình muốn, rồi hai vợ chồng bắt đầu thấy những đứa con không được như mình muốn. Thằng Đức đi Hà nội học, không nói làm gì còn thằng Tề ở nhà, mấy lần hai vợ chồng cãi nhau vì nó. Thằng bé này có lẽ đi đã quen chân nên cứ hơi một việc gì xẩy ra, là nó lại bỏ nhà đi, dù trong túi không có hơn một trinh Bảo-Đại. Cái lần nó làm mất con dao phay bà Ký mắng, nó cũng bỏ ra đi, mặc có một cái quần đùi đen và cái áo cộc trắng, Đi bộ đến Bắc Ninh, chẳng biết nó định đi đến đâu và làm gì nữa, thì ông thầy giảng Dần bắt về hộ.

- Lấy vé cho em lên tàu rồi, tôi vẫn phải giữ lấy tay không có nó lại chạy mất.

Bà Ký nghe nói mà tưởng chết một nửa người.

Lại cái lần nó xin ba hào chỉ mẹ không cho nữa. Cũng mất hai hôm.

Và những câu nói trong khi ông Ký đánh con:

- Cái ăn cắp, cái ăn mày này là ở mẹ nó đây. Mình có như thế đâu.

- Đi, mày có đi được thì cứ đi đi.

Mỗi lần đi xong ông thuê người đi bắt về rồi ông lại đánh, đánh xong, ông lại đuổi đi.

- Cả một lò....

Những trận đòn thừa sống thiếu chết không có mục đích dạy con nữa. Thương con, bà Ký dẹp cơn giận thằng bé, để bênh. Thế là bai vợ chồng cãi nhau. Những trận cãi nhau không ầm ỹ để cả phố đổ lại xem, chỉ âm thầm trong mấy gian nhà, nhưng kết quả còn ác liệt hơn. Cái mầm chia rẽ càng mạnh.

Ông Ký Thảo tự thấy khổ sở. Bà Ký Thảo cũng chẳng sung sướng gì. Thằng bé mười hai tuổi là thằng Tề gan góc, liều lĩnh thêm một chút nữa, bắt đầu có những ý nghĩ giá ai nhìn được vào trong đầu nó, hẳn phải rùng mình. Con Dung, thằng Vượng, con Ân Điển, thằng Hưng và đứa cháu là thằng Bân, cũng may chúng đã thở quen bầu không khí ấy.

Còn một hy vọng là thằng Đức.

Hai vợ chồng ông Ký Thảo cùng nghĩ vậy.

Nhưng biết đâu!