← Quay lại trang sách

- VIII -

BÀ Ký Thảo ái ngại nhìn bà Thừa Minh. Vẻ mặt buồn rầu trong cái khuông sô gai lại càng thêm ảm đạm. Nếu đã đoán trước sẵn cái cảnh này thì lúc nhắm mắt hẳn ông Thừa cũng không đành tâm. Người cha, nhất là người cha công chức, như một cái trụ chống gia đình. Nay cái trụ đổ tất nhiên gia đình phải xụp.

Bà Ký sẽ lắc đầu bảo bà Thừa:

- Tôi trông cảnh bà lại sực nhớ đến cảnh bác Ba tôi lúc trước. Bác trai mất đi, bác gái cũng bơ vơ, chẳng biết dựa dẫm vào đâu, anh trên em dưới đều những người nghèo cả. Bà còn hơn cái có món tiền phụ cấp của ông, à, mà món tiền ấy bao giờ người ta mới cho lĩnh nhỉ, bà nhỉ?

Bà Thừa chép miệng đáp bằng một giọng hết sức chán nản:

- Biết đến bao giờ nữa, tôi cũng đã nhờ anh Phán Căn ở Hà nội anh ấy lấy giấy má hộ. Mình sở dĩ chậm như thế này chỉ vì mình không có đủ giấy má thôi. Vợ chồng lấy nhau từ năm nào thì đã làm gì có giấy giá thú. Trong lúc đợi ấy, biết lấy gì mà sống đây? Mà có lĩnh được cũng chẳng lĩnh được mấy hột.

Hai người buồn rầu nhìn nhau và bà Ký thấy cái bổn phận mình lả phải an ủi. Ân cần bà bảo bà Thừa:

- Thôi chẳng qua nó cũng là cái số, bà ạ. Nói đến số là hết, chẳng còn oán trách vào đâu được nữa. Ông ấy mất đi, buồn cũng có buồn thật, nhưng chưa biết chừng là một dịp để mình làm ăn đấy, bà ạ. Nào thì bây giờ mình cũng buôn, cũng bán xem sao. Thử không có các ông ấy xem mình có sống được không nào! Nó lại thảnh thơi, bà ạ. Bây giờ hẳn hết cả những chuyện khằn khò...

Bà Ký ngừng lại để nghĩ về gia đình mình. Thở một hơi dài, bà cố sóa cái ý ước muốn quái gở vừa thoáng qua trong tâm trí: giá bây giờ chồng bà chết ngay đi và cảnh bà như bà Thừa hiện thời. Có một vài trăm bạc làm vốn bà sẽ mở ngay một ngôi hàng nho nhỏ; thằng con lớn lúc ấy sẽ đi làm mỗi tháng mấy chục cũng được, còn lũ trẻ em nó vẫn được đi học như thường. Như vậy có lẽ không có sự biến cố nào, cái gia đình tưởng sụp hóa ra vẫn vững, bớt người cha đi, bớt được những chuyện bất hòa.

- Giá tôi được như bà, có một vài anh lớn để đi làm, đở соn bé thứ hai yên phận rồi đã xong, còn một lũ chị em nó nữa... tôi lo lắm, bà ạ.

Nghe bà Thừa nói như vậy, bà Ký trạnh nghĩ đến cảnh mình, lắc đầu đáp một cách ngao ngán:

- Ở ngoài ai cũng tưởng như vậy, âi cũng tưởng tôi dễ chịu lắm. Mấy con trai đi học lớn lên đi làm thì tha hồan nhàn... bà chắc bà chẳng lạ gì. Cái thằng lớn từ ngày thôi học ở trường Bưởi, chẳng biết rồi có học có thi gì được nữa không, còn cái thằng bé thỉnh thoảng lại bỏ đi một trận. Tôi đã hại cháu tiền... Con hư, mẹ cứ phải che chở, khi nhà tôi giận nhà tôi đánh trận nào tưởng chết trận ấy.

Câu truyện của hai người đàn bà tới cái chỗ than thở về gia đình. Không ai an ủi được ai chút nào, mỗi người buồn một cảnh.

Ngồi chán, bà Ký Thảo ra về với bao nhiêu mối bâng khuâng. Bước chân vào trong cổng trông lũ trẻ đã đi học về, đang nô đùa, bất giác bà thở dài. Sáu đứa con rồi, giá nuôi được cả thì là tám, bây giờ lại sắp một đứa nữa là chín bận đẻ còn bảy; bảy đứa con cứ tiền gạo đang lúc kém đói này thật là một mối lo. Thằng lớn nhất lâu nay không về chơi, lại nghe người nọ người kia nói truyện rằng dạo này cũng hư lắm nghỉ học luôn luôn không biết rồi có thi cử gì không. Thằng thứ hai, cứ lúc nào thấy mặt ở nhà, bà mới yên tâm, chỉ ngại nó bỏ đi lúc nào không biết. Không tìm thì không nỡ, mà tìm cũng vất vả mà lại phiền não.

- Thằng Vượng vào u bảo cái này.

Gọi đứa con thứ ba, bà soa đầu con âu yếm:

- Còn mày nữa, lớn lên một tý là cũng bắt chước, như anh Đức và anh Tề ấy nhé.

Thằng bé lên chín nhe rằng cườl, cái miệng nho nhỏ trông hay lạ:

- U cứ nói thế, chứ con thì không khi nào.

- Không khi nào được năm nay, vài tuổi nữa xem.

Thằng nhỏ bưng mâm cơm đặt lên giường, lũ trẻ không đùa nữa, chạy ùa vào ngồi chung quanh. Đứa nọ tranh đôi đũa, đứa kia tranh cái bát tíu tít cả lên. Bữa cơm của cái gia đình nghèo mà lại đông con ầm ỹ như một đám khao. Thằng Bân con ông Cai Mai ở với bác được mấy năm rồi nên cũng giống như anh chị họ không khác chút nào. Nhớ đến cảnh người em dâu, bà Ký mắng yêu cháu:

- Gớm cái thằng Bân cũng ăn tục như anh chị thôi. U mày thì thật là sướng. Chồng đi vắng quanh năm, có hai đứa con gởi bác một, còn có một đứa ở nhà chẳng bao giờ phải bận bịu như thế này nhỉ. Mà cái nết u mày cũng dễ chịu, thật là bình chân như vại. Có một đứa con gửi đi trọ học xa mà quanh năm chẳng lên thăm con được một lượt. Tết cũng chẳng lên đón, có mỗi mống con trai, nhỡ ra không trông nom, nó làm sao thì mất giống.

Buổi trưa hôm ấy, ông Ký đi làm về, hai vợ chồng lại đem chuyện ông Thừa Minh chết ra nói. Cả hai người cùng có mối lo nghĩ.

- U mày có vào chơi trong bà Thừa không thế. Cái món tiền ấy người ta đã cho lĩnh chưa?

- Buổi sáng tôi cũng vào thăm bà ấy. Trông cảnh nhà nó buồn lạ. Tôi có hỏi thì bà ấy bảo đã nhờ ông phán Căn ở Hà Nội lấy giấy má hộ nhưng chưa được.

Sẽ lắc đầu, ông Ký nói:

- Mình đã bảo ông ấy từ trước ông ấy không nghe. Cả hai cái hại nếu tránh ngay từ trước đều được cả. Chỉ có đừng uống rượu và lo tính một nghề nghiệp hay buôn bán gì cho vợ con...

Bà Ký ngắt lời chồng:

- Thầy mày chỉ khoe khôn, khoe khéo chứ gia đình mình nào đã tính được chưa nào. Kể ra cũng có số thật, chứ ông Thừa thì ai biết rằng ông ấy chết chóng thế. Trước hôm ấy, tôi vẫn thấy ông ấy khỏe mạnh như thường.

- Khỏe mạnh như thường, nhưng mà dập mạch máu thì chỉ một giờ đồng hồ đủ chết rồi, không còn cứu chữa được. U mày thì chẳng biết gì cả, tất cả những người nghiện rượu đều có thể mắc bệnh ấy. Từ ngày còn ở trọ nhà ông ấy, nghĩa là tám năm nay người ta đã biết rồi.

- Còn gia đình mình.

- Lại còn nói đến gia đình mình làm gì nửa, đã bảo cứ nghe người ta ngay từ đầu thì còn làm gì có chuyện gì.

- Nghe thầy mày tức là theo cái đạo Tin lành ấy chứ gì? Đến bây giờ mà thầy mày vẫn nói thế được nhỉ. Sao không rủ ông Thừa ông ấy theo với.

Ông Ký bĩu môi:

- Theo làm sao được cơ chứ, nếu theo được thì đã không đến nỗi thế. Bây giờ bà ấy và lũ con thì chẳng khác gì cảnh chị Ba ngày trước. Còn nhà này nữa, bây giờ mình mà như ông Thừa thì nheo nhóc ngay chứ gì.

- Thì thầy mày cứ thử như ông Thừa ngay đi xem nào. Dễ mẹ con tôi đi ăn mày ngay đấy nhỉ.

Ông Ký phì cười:

- Nói thế chứ nhà này tiếng vậy chứ cũng chẳng đến nỗi. Bây giờ mình có chết, u mày chỉ việc nói với ông Phương ông ấy xin cho thằng Đức vào làm cũng không đến nỗi đói. Nhưng mà nói thế chứ mình thì chưa chết được còn lâu.

- Nói không phải là tôi rủa, tôi mong cho thầy mày chết, chứ cái số thi ai đoán trước được. Ngộ bây giờ thầy mày ra kia gặp cái ô tô nó cán chết thì cũng thôi chứ gì.

- Chúa phù hộ, gìn giữ người ta, chết làm sao được u mày cứ cầu đi.

- Thầy mày thì cho là tôi chết trước chứ gì, truyện, đàn bà sinh đẻ nhiều bây giờ lại đau bụng nữa, nhưng mà biết đâu, cứ chờ xem.

Câu truyện nghiêm trang đã thành ra nói đùa:

- Người ta mà chết còn phải bối rối bấn bít, chứ u mày mà chết thì chẳng phải lo nghĩ gì cả?

Nghe chồng nói như vậy, bà Ký cười:

- Tôi mà chết thì lấy vợ lẽ là cùng chứ gì. Nhưng mà ai người ta thèm lấy. Lương ít, nhiều tuổi rồi lại đông con... Thôi thì tôi chẳng phải chết gì cả, tháng sau tôi cứ về nhà quê chơi hẳn một tháng xem trên này thầy mày làm thế nào. Bụi lại không ngập đến mắt.

Câu truyện đùa về sau cũng khiến bà Ký nghĩ ngợi cả một buổi chiều. Trông cảnh góa bụa của những người khác, bà không cho là buồn lại lấy thế làm vui. Nhưng bà cố xóa cái ước muốn quái gở mong cho chồng chét để thay vào bằng cái ý chia rẽ:

- Thế nào mình cũng phải tính buôn bán làm ăn ở đâu chứ không ở chung mãi được.

Nhớ lại một cảnh gặp ngoài đường, bà bất giác phì cười. Hôm ấy đi chợ về, gặp một đám ma ở giữa đường, bà đã nghe thấy một người đàn ông đứng bên đường nói đổng một câu:

- Đây đám ma vợ ông Ký Oánh đấy, năm nay nhiều người góa vợ quá, mới tháng trước bà đốc tờ Hải, Bà tham Minh. Người ta chết vợ đông tây cả mà mình thì vợ cứ sống lù lù, chẳng chết đi cho.

Bà Ký không dám nói ra và cũng không dám có ý nghĩ táo bạo thế. Lần ấy bà đã nhủ thầm:

- Chẳng gì cũng là nghĩa vợ chồng. Ra đàn ông họ bạc thật!

Giận chồng bao nhiêu, bực vì chồng bao nhiêu, bà cũng nhận rằng ông Ký Thảo còn tốt, còn khá hơn nhiều ông chồng khác.

Mắt bà đã từng thấy nhiều người cờ bạc, rượu chè bừa bãi ra, vợ đi làm vất vả cả ngày, đã chẳng biết ơn thì chớ, mỗi lần cáu giận là chửi đến ông tam đại, chửi cả cây đa đầu làng, rồi thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, chẳng còn tình nghĩa gì cả. Ông chồng bà tiếng vậy chứ cũng chưa bao giờ gọi bà là con kia hay mày, tao.

Nghĩ như vậy, bất giác bà thấy cái ý nghĩ ở riêng nơi khác là điên rồ:

- Bao nhiêu người khác sao họ ở với nhau được! Vợ chồng nó là cái duyên số, được người chồng như thế này còn khá, nhỡ gặp phải người chồng không ra gì thì cũng đến chịu chứ sao!

Nhưng chỉ một phút qua, bà lại lắc đầu:

- Không nhưng mà người khác họ chịu được chứ mình không thể như thế mãi. Ở riêng ra chỗ nào, làm lấy mà ăn, không phải ỷ lại vào đỡ khó chịu. Vợ chồng ăn ở với nhau được đứa bé sắp nở này nữa là bảy rồi, ở riêng ra thì người ta cười đấy, nhưng không thế không được. Gần bốn mươi cả rồi chứ mười tám đôi mươi gì…