- VII -
ĐÃ một ông ăn mày lớn rồi, lại ông ăn mày con này nữa, thằng Tề nằm sấp xuống kia,mau lên.
Bà Ký Thảo lặng yên nhìn vẻ mặt cau có của chồng rồi quay ra phía đứa con đang nằm sẩp xuống giường. Cái thằng Tề này từ trước đến giờ đã phải bốn năm trận đòn rồi mà vẫn chưa hết.
- Mày có lấy đồng bạc của tao bỏ trong ví không?
Ông Ký giơ cao cái roi mây vụt xuống một roi. Từ độ năm ngoái, thỉnh thoảng cứ phải đánh con nên ông sắm luôn mấy cái roi mây để sẵn.
- Nói mau, mày có lấy đồng bạc không?
Ông Ký lại vụt nhưng thằng bé vẫn lặng im. Ông lại vụt nữa đến mấy chục roi liền. Thằng bé oằn oại như một con rắn khi bị bàn chân nào giẵm phải. Nó vẫn không nói. Từ lúc dự định cho đến lúc móc cái ví của cha, rút một đồng bạc, nó đã tính sẵn cái lúc phải đòn rồi. Được cái nọ phải mất cái kia, sướng cái lúc tiêu tiền thì khổ hai mông đít một chút cũng chẳng sao.
- Ông này lại còn gớm hơn ông lớn nữa đây. Ông kia mới nói dối, chứ ông này còn đèo thêm cái ăn cắp nữa...
Đã đến lúc bà Ký phải xen vào:
- Biết là nó lấy rồi, thầy mày đánh năm roi, mười roi xong rồi thì thôi, chứ làm gì mà đánh mãi như tra khảo thế. Con lấy của bố mẹ là thường, làm gì thầy mày cứ phải nhiếc mãi cái câu ăn cắp.
Trận đòn đánh con kết liễu bằng sự cãi cọ giữa hai vợ chồng:
- Thế không phải là ăn cắp, không phải là hư, thì là ngoan, vâng con bà ngoan lắm… bây giờ nó mới lấy của bố mẹ thôi, đợi đến bao giờ nó ăn cắp của người ta, nó ở tù, bấy giờ hãy nói…
Nghe chồng rỉa rói, bà Ký nhăn mặt:
- Thầy mày sao mà cũng ăn nói những câu độc địa như thế được nhỉ. Thế mà cứ kêu đạo tốt chẳng biết tốt ở chỗ nào?
Một lời đi, một lời lại, cứ như vậy, cho đến hết buổi trưa hôm đó, lúc ông Ký đi làm. Hai vợ chồng cũng bực nhưng phần hơn bao giờ cũng ở người đàn bà ; đã chồng rồi lại con! Hôm đó là thứ năm, lũ trẻ nghỉ học ở nhà. Bà Ký gọi thằng Tề nói một cách cay đắng với nó.
- Sao mày cứ có những cái ăn mày, ăn nhặt thế con. Mày không biết rằng tao khổ vì thầy mày nhiều lắm rồi hay sao? Lại mày cứ làm cho tao phải cay đắng... Ấy đấy đã đến cơn đau bụng rồi đấy...
Bà nhăn nhó nằm xuống giường, đau tưởng có thể chui đầu vào tròng ngay cho dứt nợ. Bệnh đau bụng phát ra từ ngày đi Hànội tìm thằng con lớn, chữa mãi không khỏi đến nay đã thành kinh niên. Chữa mãi không khỏi chính ra đã chữa lần nào hẳn hoi đâu, bà Ký cứ nhớ mà thấy như đau thêm một độ, lần nào cũng chỉ ra nhà thương xin được ít thuốc muối về uống chẳng ăn thua gì, có lần chán quá, bà quẳng ngay ra giữa sân. Đươc một ông chồng lại, càng thêm phiền não. Ông Ký đã không tính đến việc thang thuốc cho vợ, lại nói nhiều câu khôi hài cho bà Ký tức:
- Đau bụng có một thứ thuốc kiến hiệu nhất là phân trâu. U mày cứ bảo thằng nhỏ nó đi nó xúc một ít vào cái bát về nếm thử mà xem.
- Đau thì đau chứ mỗi ngày cũng vẫn ăn được hai bữa, mỗi bữa mấy bát cơm thì cần gì phải chữa nữa. Hay là gạo kém thế này, cứ để cái bệnh đau bụng mà lại tốt. Đỡ được một xuất gạo…
- Ấy không chữa rồi chưa biết chừng cũng sống đến tám mươi.
Mỗi lần ông Ký nói, bà Ký lại khó chịu trả lời:
- Có bao giờ tôi liệt giường, liệt chiếu không dậy được hay là sắp chết như cái ngày đau vú, bấy giờ thầy mày mới biết, mới cho là có bệnh. Sao có người lạ như thế nhỉ, vợ ốm mà cứ coi là đùa. Chẳng bù với ông giáo Thái bên kia, bà ấy hơi ốm là ông ấy đón thầy đón thuốc rối rít cả lên.
Nói đến như vậy, ông Ký vẫn còn cười:
- Cái bệnh của u mày thì cần gì thuốc, cứ đi ăn mày đi một dạo là khỏi.
Bà Ký nằm nhăn nhó trên giường, nhớ lại những cảnh ấy càng thấy sót xa. Rên rỉ, bà bảo con:
- Tao đến chết mất thôi. Thầy mày đã thế lại chúng mày nữa, những một thằng lớn, tao đã khổ tâm lắm rồi, bây giờ lại mày. Chúng mày cứ giết ngay tao đi còn hơn. Có chồng, có con mà làm gì.. Nhiều người cứ ao ước cái cảnh bà Ký đông đúc vui vẻ. Ai người ta cũng tưởng vui lắm, có biết đâu đến cái nông nỗi này.
Thằng Tề đứng đầu giường khóc sụt sịt phần vì hối hận, phần vì bực; đem gia đình nhà nó, nó so sánh với những cảnh gia đình khác để mà chán. Cái lỗi thầy nó vừa trừng phạt có phải là nó mắc trong một phút lầm lỡ đâu. Nó đã tính toán từng ly những việc sẽ xảy đến. Thì phải đòn là cùng chứ gì, phải đòn nhưng mà được đồng bạc tiêu. Làm một cách có ý thức như vậy, giá không có bà mẹ ở giữa thì thằng bé mười bốn tuổi ấy đã chẳng hối hận.
- Cứ mỗi lần mày phải đòn là mẹ mày xót ruột, mày không biết ư?
Nghe bà mẹ vẫn vừa rên rỉ vừa đay nghiến, nó sụt sịt trả lời:
- Hỏi xin thầy, thầy không cho, con mới phải lấy trộm. Chúng nó mỗi tháng bố mẹ cho bao nhiêu là tiền..
- Mày ngu lắm con ơi. Nhà chúng nó giầu nhà mày nghèo, con không thể suy bì như thế đuợc. Mày đã bằng ngần ấy rồi, mày cũng đã biết. Mỗi tháng lương thầy mày bao nhiêu, thầy mày đưa về cho tao bao nhiêu… Nhìn xuống bao nhiêu con nhà khác xem, có bố mẹ nuôi cho ăn đi học như mày mà còn hư thế, mẹ buồn lắm!
Giận con chán, bà Ký trở lại để giận mình:
- Tao cũng biết rằng tao hèn không biết buôn, biết bán để mỗi lúc con xin, mẹ có mẹ cho. Đã một thằng lớn, mỗi lần ở Hànội về, tao không có năm đồng, ba đồng tao cho nó, chắc nó cũng giận mẹ lắm. Lại bây giờ mày nữa…
Hai mẹ con cùng khóc. Đã chẳng bớt được nỗi buồn, càng khóc lại càng thêm cay đắng, xót xa. Bà Ký nhìn con vừa giận, vừa thương:
- Còn có một năm thì mày đi thi ở Bắc ninh rồi đi học Hà nội đấy. Thôi con cố chăm chỉ mà học đừng làm những sự như thế nữa, không thầy mày giận, thầy mày không cho đi học nữa thì tao cũng không biết làm thế nào. U đã bàn với thằng Đức rồi, đến dạo ấy, u sẽ ra ngoài ấy trông cho chúng mày. Thương con mẹ cũng chỉ biết bảo con như thế, mày có nghe thì nghe, hay mày cứ làm thế thì tao cũng chịu. Tao đã tính cách cho tao rồi.
Thằng Tề cúi đầu không đáp có vẻ ngẫm nghĩ. Bà Ký ái ngại tiếp theo một câu để an ủi con:
- Lần sau, con có tiêu một vài hào nó vào việc xin u, u cho chứ đừng lấy của thầy mày làm gì. Tao tưởng mỗi lần lấy một ít tiền mà xảy ra lắm sự thế thì tiêu cũng chẳng thích.
Sau lần ấy đến hai tháng không xảy ra điều gì. Cái gia đình ấy buồn là dĩ nhiên rồi, nhưng không xảy ra một chuyện cãi cọ nào. Ông Ký mỗi buổi tối vẫn đi đánh tổ tôm và chủ nhật vẫn đi nhà giảng.
Bà Ký lấy thế làm chướng, nhưng vẫn mặc chồng. Chỉ khi nào ông Ký nói chạm đến việc cúng lễ của mình bà mới lôi ra để mỉa lại:
- Thì thầy mày đi đạo đã hơn được cái gì chưa, tối nào cũng đi đánh tổ tôm rồi chủ nhật cắp quyển Kinh Thánh đến nhà giòng, thế là giữ đạo đấy.
Ông Ký cười:
- Không theo đạo còn quá nữa ấy, u mày chẳng hiểu nhẽ gì cả. Người ta cũng phải có lúc sa ngã chứ, nếu giữ được hoàn toàn thì đã là ông thánh rồi. Miễn là hôm nay hỏng đến mai lại làm lại...
- Thế thì những lúc nào trong túi không có tiền những lúc ấy hẵng làm lại, còn lúc nào có tiền thì cứ sa ngã...
Nhưng một buổi sáng, bà Ký xuống tàu thủy về nhà quê chơi. Chốn xóm làng tồi tàn, hẻo lánh ấy dù sao thỉnh thoảng bà cũng muốn về thăm. Người cha già, mấy người anh, em nếu ở gần lâu có lẽ không chịu được, nhưng ở một nơi xa xôi, hàng năm không gặp, bà cũng thấy nhơ nhớ. Trước khi đi, dặn dò con cái và đầy tớ xong, bà còn ân cần bảo thằng Tề:
- U về nhà quê thăm ông, chóng ra cũng phải tuần lễ hay mười hôm. Trong khi ấy đừng để xảy ra sự gì, buồn lắm. Tao chỉ sợ tao về được mấy hôm là mày lại đi thôi. Thầy mày không tìm đâu. Không có tao thì đã ăn mày từ những dạo nào rồi.
Bà Ký đã tiêu liệu như vậy rồi, nhưng về nhà quê được ít hôm, lúc trở lại gia đình quả nhiên thằng Tề đã bỏ đi thực. Con Dung mười hai tuổi mách mẹ:
- U về nhà quê, ngày nào anh Tề anh ấy cũng bỏ đi chơi, anh ấy kêu anh ấy ốm để thầy giáo cho nghỉ. Chẳng buổi tối nào anh ấy ngủ nhà cả.
- Thế thầy mày không bảo gì nó à?
- Thầy bảo anh ấy thì anh ấy nói rằng đến nhà thằng Cần con ông chủ giây thép để vịết dictée.
Bà Ký lắc đầu với một vẻ thất vọng vô cùng:
- Thế nó có lấy của thầy mày đồng nào không?
Thằng cháu là thằng Bân trả lời thay cho chị:
- Không, anh ấy không lấy gì của bác đâu ạ. Hôm qua cháu gặp anh ấy đi chơi với mấy thằng bạn, cháu bảo anh ấy về, anh ấy còn định đánh cháu nữa.
- Thế cháu có biết anh nó ở đâu thì cháu đi tìm nó về đây cho bác. Cả thằng Vượng nữa con đi với em đi tìm anh đi.
Hai thằng bé đứa mười một đứa lên tám đi rồi, bà Ký đứng lặng hồi lâu nhìn cảnh chán chường trong ba gian nhà hẹp. Bộ bàn ghế có bốn cái ghế thì hai cái vỡ tựa lưng một cái bàn mọt ăn mất một nửa; cái giường ngủ của ông chồng từ sáng đến lúc đó là buổi trưa vẫn chiếu chăn bừa bãi, màn cũng chẳng buồn vén, khắp nhà lung tung chỗ này một vài chiếc guốc không vào đôi, chỗ kia vài chiếc giầy cái lành cái rách. Thế này thì con cái chúng cứ hay đi chơi cũng phải! Ở nhà có cái gì vui để giữ chúng lại đâu.
Trạnh nhớ đến gia đình cụ Bá sinh ra bà ở nhà quê, bà càng rầu rĩ. Cái người con gái của gia đình ở nơi xa về để ngắm cảnh điêu tàn tránh làm sao được nỗi buồn, nỗi chán. Ở nhà quê, bà không muốn trách ai, nhưng lên đây, bà phải trách chồng một câu cho đỡ bực:
- Tại thầy nó chứ những ở mình thì con cái có đứa nào bỏ đi! Đánh tổ tôm vứt đi bao nhiêu không tiếc mà có bộ bàn ghế mấy chục bạc không sắm được, trông mà nản, mình có phải là người làm ra tiền đâu.
Thằng Bân và thằng Vượng trở về nhưng không thấy có thằng Tề đi theo:
- Thưa bác, cháu đến nhà thằng Cần, em nó là thằng Vân ra bảo anh ấy không có ở đấy ạ.
Bà Ký ngập ngừng chưa biết định liệu ra sao thì thằng Vượng thêm:
- Con biết thừa là thằng Vân nó nói dối, nhưng nhà nó có chó, con không vào được. Anh ấy chắc đang ở trong nhà...
- Thế hai anh em lại đi lượt nữa đi. Tìm được anh về, ngoan, tao cho xu.
Cũng may lượt này thì thằng Tề về. Hai mẹ con nhìn nhau không nói. Thằng Tề có một bộ mặt bẽn lẽn của người phạm tội. Bà Ký thì trên trán nhăn thêm mấy đường nữa.