- I - Nhà Ẩn Tu Núi Koya Nguyên tác: 高野聖-(Kôya Hijiri, 1900)
1.
" Đã nghĩ không cần phải mở ra cái bản đồ xếp gấp có bọc bìa giấy do bộ Tổng Tham Mưu vẽ ra xem làm chi nữa thế nhưng đường sá khó đi quá tôi đành nâng nâng ống tay áo cà sa đang hấp hơi nắng nóng hết chịu nổi để lại kéo nó ra. Tôi đang đứng trên con đường độc đạo giữa rặng núi ngăn hai huyện Hida và Shinshu xung quanh chỉ thấy nhấp nhô trập trùng, tuyệt không có một bóng cây cho người lữ hành mệt mỏi dừng bước lấy hơi. Có mấy đỉnh nói trông gần quá tưởng như với tay là chạm được, nhưng xa xa vẫn còn biết bao nhiêu núi non xếp thành tầng lớp. Trên trời không một gợn mây, cũng chẳng có bóng chim cò nào cả. Trời đất lồng lộng chỉ có mình tôi. Giữa trưa nắng nỏ, mặt đất bị ánh mặt trời thiêu đốt. Cái vành mũ thầy tu là lá chắn duy nhất che chở tôi khỏi ánh nắng gắt trong lúc dò bản đồ."
Nhà sư lang thang vừa kể vừa kê trán lên hai nắm đấm siết chặt trên gối, đúng cái dáng vẻ nhà tu khổ hạnh. Từ lúc tôi đi Nagoya qua rặng núi đến căn nhà trọ bên đường ở Tsuruga, cái chốn quê mùa miền bắc nước Nhật này, nhà tu hành đáng kính đây đã trở thành bạn đường của tôi. Trong lúc dọn lại cái giường khiêm tốn trong lữ quán, tôi nhận ra trong suốt hành trình đằng đẵng ông chưa bao giờ làm điệu làm bộ như các nhà tu khác hay làm. Tôi cũng chưa thấy ông nằm nghỉ đúng nghĩa bao giờ, có chăng chỉ co ro bên gối như đang cầu khấn gì đấy như mô tả ban nãy.
Tôi đi tàu theo tuyến đường sắt dọc bờ biển đến trạm Kakegawa thì gặp ông bước lên. Ngay từ đầu tôi đã nhận ra đó là người xa cách với nhân tình thế thái, ông ngồi một góc trong toa và lúc nào cũng cúi đầu. Ông không hề gây sự chú ý, thậm chí trong ánh mắt ông tôi chỉ thấy sự lạnh lẽo tựa tro tàn, không còn dấu vết nào của dục vọng con người. Lúc ấy tôi cũng không để tâm đến ông. Đến Nagoya thì những du khách ồ ạt xuống bến như một bầy chuột chũi hối hả không rõ lý do, bỏ mặc tôi và nhà tu hành đáng kính trong toa tàu trơ trọi.
Con tàu này xuất phát lúc chín giờ rưỡi tối hôm trước ở ga Shimbashi, Tokyo, cập bến Tsuruga vào buổi tối. Buổi trưa khi tàu đỗ ở Nagoya, tôi ghé cái quán ở ga tàu mua một suất cơm thì tình cờ ông cũng mua một suất giống tôi. Chưng hửng bởi đó chỉ là một suất ăn đường rẻ tiền rắc tí rong biển chứ không có cá, tôi mới buột miệng: "Sao toàn cà rốt với dây bầu thế này? Không có cá à?" Trông thấy vẻ mặt của tôi, ông khẽ cười khúc khích.
Vì trong toa chỉ còn hai người nên tôi làm quen với ông, nhờ hỏi ông đi đâu mà tôi được biết ông đang trên đường lên Thiền viện Eihei thăm một người bạn, nhưng ông không thuộc phái Thiền tông mà tu ở một ngôi chùa trên núi Koya. Ông định qua đêm ở Tsuruga trước khi đi tiếp vào sáng mai. Còn tôi thì về quê nhà ở Wakasa, cũng có ý ngả lưng ở đây nên quyết định đi cùng ông cho vui. Nhà sư nom đã ngoài bốn mươi tuổi, có vẻ thân thiện. Ông mặc áo cà sa với ống tay áo rộng, choàng khăn và đội mũ nồi trắng, tay đeo găng len. Đôi tất của ông cũng màu trắng còn chân thì đi guốc mộc. Cho nên mặc dù tác phong cổ lỗ nhưng ông làm tôi liên tưởng đến một thi sĩ hay nghệ nhân trà đạo, đại khái người theo đuổi những thú vui trần thế hơn là một nhà sư.
"Chẳng hay thí chủ định nghỉ chân ở đâu?" Câu hỏi của ông làm môi tôi bật ra tiếng thở dài bởi ý nghĩ phải trải qua một đêm cô đơn quạnh quẽ nơi đất khách. Trong tâm trí tôi hiện ra mồn một viễn cảnh chị giúp việc phục vụ bữa tối cho mình đang ngủ gật với cái vá xúc cơm trong tay còn trên quầy, anh thầy ký đa nghi và mồm mép đang lăm lăm chờ tôi ra khỏi phòng đi tắm một cái thì sẽ liên thủ ngay với mấy cô hầu buồng khác, bám sát nhất cử nhất động của tôi với tinh thần cảnh giác cao độ vì dễ thường ông khách này sẽ thó tất cả mọi thứ trong tầm ngắm. Nhưng tồi tệ hơn cả, chỉ cần tôi ăn cơm xong là nhất định người ta sẽ đem cất luôn ngọn đèn đọc sách sáng sủa để thay vào một cái đèn ngủ tù mù và chúc quý khách ngủ ngon, để mặc tôi nơi căn phòng tối không ra tối sáng không ra sáng. Tôi không có thói quen ngủ sớm nên thật khó lòng mô tả cảm giác trống trải khi bị bỏ mặc trong căn buồng tranh tối tranh sáng, nhất là vào cái thời điểm ngày ngắn đêm dài này. Từ lúc rời Tokyo tôi đã suy nghĩ mông lung mãi xem phải làm gì cho qua những đêm lê thê buồn tẻ sắp tới nên câu hỏi của nhà sư lại khuấy lên nỗi lo ấy. Tôi bèn hỏi ông có vui lòng ngủ cùng một phòng với tôi chăng.
Ông vui vẻ gật đầu, bảo: "Lần nào đến vùng này bần tăng cũng phải cho cây gậy hành hương của mình tá túc ở một cái quán tên là Katoriya." Nhà sư dung cái cụm từ ‘cho cây gậy hành hương tá túc’ nghe thật bảnh, ông nói quán trọ Katoriya ấy trước kia vốn là một nhà trọ bình thường nhưng sau khi đặc trưng hấp dẫn của quán trọ, tức là cô con gái xinh tươi độc nhất của ông chủ qua đời, thì gia đình bèn cất bảng hiệu đi. Được cái họ không mời chào khách mới nhưng vẫn đón khách quen nếu có nhu cầu, hai vợ chồng chủ nhà đã già và chỉ có tấm lòng hiếu khách giản đơn cho người lai vãng nên nếu tôi thích thì có thể cùng ông đến đó.
Nhà sư cẩn thận đặt hộp cơm xuống, nói thêm: "Nhưng thí chủ phải ăn tạm cà rốt với dây bầu lấy hơi đấy" rồi bật cười. Phía sau dáng vẻ và diện mạo khiêm tốn, ông có vẻ cũng là người hài hước.
2.
Khi tàu lăn bánh qua địa phận tỉnh Gifu trời hãy còn trong xanh nhưng băng qua dãy núi xong thì thời tiết từ từ thay đổi và chúng tôi gặp lại màu sắc u ám quen thuộc của vùng biển phía Bắc. Ở Maibara và Nagahama, ánh nắng mùa đông yếu ớt bị lớp mây mỏng làm cho nhợt nhạt thêm, trong tôi cái lạnh tê tái ngấm dần vào xương. Tàu đến Yanagase giữa lúc mưa phùn và không gian bên ngoài đã chập choạng tối, mưa dần dần kết lại thành những bông tuyết trắng.
"Tuyết rơi kìa". Tôi bảo. Người bạn đồng hành của tôi đáp gọn lỏn "Chắc vậy" và hình như ông ta không hứng thú những chuyện xảy ra bên ngoài cho lắm, thậm chí không buồn ngó lên trời. Đây cũng không phải lần đầu nhà sư lang thang trả lời kiểu này đâu, chẳng hạn lúc đi ngang Shizugatake tôi chỉ trỏ bãi chiến trường xưa hay bình phẩm về quang cảnh quanh hồ Tỳ Bà ông ta cũng chỉ gật đầu không nói.
Cái khó chịu nhất, phiền phức nhất ở Tsuruga này là thói chèo kéo vô tội vạ của mấy anh cò mồi nhà trọ. Đám cò mồi này tụ tập rất nhiều ở nhà ga, từng anh một đều có chiêu trò riêng để dụ khách. Đúng như tôi e ngại, vừa đặt chân xuống sân ga là họ đã dàn hàng vững chãi từ nhà ga ra ngoài phố mai phục chúng tôi. Mỗi anh đều một tay cắp ô một tay xách đèn lồng có in tên nhà trọ bằng chữ khổ lớn, gặp ai bước xuống là lập tức bao vây không cho thoát, miệng la oang oang át vía để khách phải về nhà trọ của mình. Có những anh táo tợn còn giật đồ của người ta, miệng thì nhanh nhảu kiểu như: "Cám ơn quý khách đã lựa chọn!" và thế là bất kể nạn nhân của hành động trên có giận dữ đến đâu thì cũng chỉ còn nước đi theo chứ không sao lấy lại hành lý được. Nhưng người đồng hành của tôi có vẻ như hoàn toàn bàng quan trước cái khung cảnh lộn xộn quanh mình, ông cúi đầu và băng qua đám đông ồn ào một cách dễ dàng, tôi chỉ cần bám sát đằng sau. Kỳ diệu ở chỗ không có tay cò mồi nào túm áo hay giật hành lý của nhà sư cả, tuy nhiên khi tôi và ông thoát ra được một khu phố vắng vẻ tôi vẫn phải thở phào một cái.
Tuyết rơi liên tục và bây giờ không còn lẫn hạt mưa nào nữa rồi, chỉ có hoa tuyết mịn như bông và khô ráo bay vào mặt tôi khi hai chúng tôi bước đi. Trời tối nhưng hãy còn sớm mà phố xá vắng tanh, cửa hiệu đều đã đóng. Chúng tôi đi qua ba hay bốn ngã ba, tám khu nhà và những con phố đã sớm bị che phủ bởi một lớp tuyết dày. Cuối cùng hai người cũng dừng bước trước lữ quán Katoriya.
Ngôi nhà cũ trông tươm tất và chắc chắn mặc dù phòng tiếp khách ở ngoài lẫn bên trong đều đơn sơ, tuyệt không có món đồ trang trí nào. Cột, rầm cái nào cái nấy đều kiên cố, chiếu dệt chắc tay. Lò sưởi lớn, phần trần nhà phía trên treo một cái móc sắt đúc hình cá chép, ngày xưa dùng để treo nồi nấu nước.Ánh đèn tù mù làm vảy cá như thể được đúc bằng vàng. Trong bếp có hai chiếc nồi lớn, có thể nấu một lúc bốn giạ thóc..
Ông chủ nhà trọ nom như một hòa thượng với mái tóc húi cua sát sạt và lúc nào cũng giấu bàn tay trong cái áo khoác gai, tôi để ý thấy ngay cả khi ngồi cạnh lò sưởi ông ta cũng không cho tay ra ngoài. Đó là một người có tuổi uể oải và cáu kỉnh nhưng bà vợ lại xởi lởi, thích giúp đỡ người khác. Nghe hòa thượng kể chuyện cà rốt với dây bầu, bà vui vẻ cười khúc khích và sửa soạn cho chúng tôi một bữa ăn có canh và cá khô. Từ cách họ trao đổi có thể đoán biết rằng đôi vợ chồng già và hòa thượng là chỗ quen biết lâu năm, thành thử tôi, người bạn đường của hòa thượng, cũng cảm thấy hòa nhập tự nhiên với mọi người.
Đôi vợ chồng dẫn chúng tôi vào phòng ngủ ở tầng hai. Trần nhà được đỡ bởi hai thanh rầm chống chéo từ sàn lên nóc, thấp đến nỗi không cẩn thận là cộc đầu như chơi. Một trận tuyết lở từ ngọn núi sau lưng xuống khéo cũng chẳng quật ngã được ngôi nhà vững chãi này.
Tôi khoai khoái chui ngay vào trong chăn vì chủ nhà bố trí lò sưởi ở một đầu tấm nệm để sưởi chân cho khách, tấm mền bông được trải đều cả bốn góc để ai cũng được hưởng nhiệt lượng tỏa ra nhưng vị hòa thượng đã chối bỏ mọi sự ấm áp, không thèm đắp mền mà chỉ nằm xuống bên cạnh tôi.
Hòa thượng chẳng buồn nới thắt lưng nữa là cởi áo, cứ trang phục như thế mà vo tròn lại luồn vào dưới chăn, phủ tay áo lên vai và cúi mặt xuống nệm - chẳng giống cách người bình thường ngủ một tí nào. Ông ta sớm nằm im, coi mòi đã ngủ rồi đây. Như đã trình bày với hòa thượng ở trên tàu về thói quen ngủ muộn, tôi trót lỡ hy vọng ông ta niệm tình mà thức với tôi một lát cho đỡ buồn, bèn lay ông dậy, đòi nghe kể về những việc lý thú ông đã trải qua trong cuộc đời tu hành tứ xứ nay đây mai đó, y như một đứa trẻ đòi được kể chuyện trước khi đi ngủ.
Hòa thượng gật đầu, bảo rằng từ khi bước sang tuổi trung niên ông đã có thói quen cuộn tròn úp mặt xuống như tôi vừa thấy chứ không nằm ngửa như bình thường. Cũng như tôi, hòa thượng chưa buồn ngủ và ông đồng ý kể chuyện cho tôi nghe với lời dặn dò: "Thí chủ đừng cho rằng cứ sư sãi thì sẽ kể chuyện tu hành, giáo huấn nhàm chán. Xin hãy nghe cho kỹ những gì tôi sẽ kể cho thí chủ."
Hỏi kỹ tôi mới biết hóa ra hòa thượng đây không phải ai xa lạ mà chính là cao tăng Shucho - nhà thuyết pháp rất nổi tiếng và cũng là vị trụ trì đáng kính ở chùa Lục Minh.
3.
"Chủ nhà nói rằng sẽ có một thanh niên nữa cũng đến từ Wakasa như thí chủ ghé quán trọ ngủ một đêm cùng chúng ta. Anh này là một thương lái đồ sơn mài, tuy ít tuổi nhưng là người nghiêm túc, lương thiện.
Như đoạn đầu tôi đã nói, trên chuyến du hành tôi bắt gặp một gã thanh niên khá lạ đời lúc băng qua rặng núi Hida. Ở tiệm trà dưới chân núi tôi đã đụng độ gã - một người buôn thuốc dạo từ Toyama tới, tính tình ngổ ngáo, ăn nói tục tĩu. Tôi có chủ ý trong ngày hôm ấy phải qua được con đèo nên đã dậy từ ba giờ sáng để đi được nhiều. Lúc sáng tinh mơ trời còn lạnh, tôi đã đi được sáu dặm nhưng không dừng lại cho đến khi bước vào tiệm trà này. Bấy giờ trời đã trưa và nắng gắt, không khí hầm hập lên.
"Tôi chỉ có suy nghĩ đơn giản là làm thế nào để đi xa nhất có thể nên lúc nghỉ chân đã khát khô cả cổ, định dừng lại ghé qua tiệm trà uống một chén rồi lại lên đường nhưng chủ tiệm nói vẫn sớm quá họ chưa kịp đun nước. Ngày ấy thỉnh thoảng lắm mới có lữ khách đi qua con đường này, chẳng có lý nào các dịch trạm lại phải mở cửa, nước nôi sẵn sàng từ sớm. Người ta có câu "Hoa rau muống còn nở, chưa cần phải mở hàng" mà lại. Trước mặt tiệm trà có một con suối mát lạnh chảy từ trên núi xuống, tôi toan múc một gáo thì nhận ra đang vào mùa nóng nực và gần đây hình như có dịch bệnh ghê gớm nào đấy hoành hành. Trước đó không xa tôi có gặp một làng tên Tsuji và thấy người ta rải vôi bột khắp nơi.
"Xin lỗi thí chủ, nước này cùng nguồn với nước giếng ạ?"
"Đâu có, nước sông đấy."
Tôi cảnh giác hỏi: "Nghe nói vùng này có dịch. Con sông có chảy qua làng Tsuji không ạ?"
"Không." Cô phục vụ dửng dưng đáp. Nghe vậy tôi lấy làm mừng nhưng thí chủ biết sau đó thế nào không? Cái anh chàng buôn thuốc tôi vừa nhắc đến hóa ra đã ngồi trong quán được một lúc trước khi tôi đến. Anh này thuộc hạng bán hàng rong lưu manh mà thí chủ có thể đoán được qua cách ăn mặc: bộ kimono kẻ sọc không có lớp lót, dây lưng kiểu Kyushu, tướng khệnh khạng, lúc nào cũng lăm lăm đồng hồ quả quýt - loại người này không hiếm.
"Thí chủ biết rồi đấy, lúc đi đường họ làm ra vẻ trầm ngâm yếm thế nhưng bước vào nhà trọ nghỉ đêm là sẽ thay ngay quần áo lòe loẹt, nới lỏng thắt lưng, ngả ngốn khắp nơi, nốc rượu rẻ tiền và chỉ chăm chăm nhéo mấy cô phục vụ."
"Ê anh sư kia!" Hắn ta cất tiếng gọi, làm tôi thấy mình như thằng ngốc. "Bộ nói mà không biết mình nói gì, nghe mà không thấy chướng hả? Đằng ấy đi tu rồi, đầu đã cạo trọc lốc thế kia, xem cõi đời là vô thường mà lại lo giữ mạng à? Kể cũng kỳ, nhưng thú nhận đi, bản chất con người là thế! Ngoài mặt ra vẻ quay lưng lại với nhân gian nhưng bên trong vẫn ham sống sợ chết. Thấy chưa cô em, thằng cha hòa thượng này đâu đã hoàn toàn diệt dục đâu!" Gã buôn thuốc vừa nói vừa ngoái đầu nhìn cô phục vụ, hai người bọn họ cười phá lên.
Tôi còn ít tuổi nên đã sớm đỏ mặt tía tai nhưng vẫn không dám uống gáo nước mình vừa múc. Anh ta gõ xái thuốc rơi ra khỏi tẩu, bảo: "Sao thế hòa thượng? Lần lữa cái gì, uống đại đi. Uống cho cạn, ngộ nhỡ lăn đùng ra thì thằng này đã có thuốc. Cô em thấy không, số trời run rủi cho anh đến đây cũng vì mục đích đó mà. Ê, nhưng đừng tưởng người ta làm phước cho không đấy nhé. Tôi có thuốc Mankitan nhưng hòa thượng phải trả 3 sen một gói, tiền trao cháo múc. Bình sinh thằng này chưa làm gì bậy bạ khuất tất mà phải tạ tội bằng cách bố thí cho nhà sư cả. Thế còn cô em, có muốn làm chuyện bậy bạ với anh không nào?" Anh ta chọc vào mạng sườn cô phục vụ gợi ý.
Phẫn nộ trước thái độ bỉ ổi của gã, tôi nhanh chân quay trở lại con đường. Một hòa thượng đã có tuổi như tôi lẽ ra không nên truyền bá những điều nhảm nhí như ghẹo gái cho thí chủ, nhưng lần này thì châm chước được vì cái đó cũng nằm trong chủ đề câu chuyện của tôi."