← Quay lại trang sách

- II -

4.

"Bực mình vì thái độ lấc cấc của tay bán thuốc, tôi đi hùng hục qua những cánh đồng giữa rặng núi. Khi đường bắt đầu dốc tôi mới chỉ đi được một đoạn ngắn, ngước lên thấy hàng loạt khúc quanh hẹp. Con đường mòn càng đi càng dựng đứng lên, cong cong như cánh cung căng ra trước mặt tôi tựa một cây cầu lộng lẫy bắc trên thiên đình.

Tôi đang leo dốc và hướng mắt lên nhắm đến đích, thì tay bán rong ban nãy xuất hiện, hối hả vượt qua. Chúng tôi không chào nhau lấy một tiếng, mà nếu hắn có chào tôi cũng không thèm đáp lại. Hắn vẫn giữ cái mặt câng câng và ném vào tôi ánh mắt thách thức trong lúc hùng hục tiến lên phía trước. Hình như trong một tích tắc cái dù của hắn xòe ra trên đỉnh đồi rồi lặn xuống phía sau.

Tôi cũng đi theo quỹ đạo đó, lên đỉnh đồi rồi xuống dốc bên kia. Tay bán thuốc nhanh hơn một đoạn nhưng hắn đã dừng lại dưới chân dốc nhìn ngang ngó dọc, tôi cứ tưởng hắn như định bày trò chơi xấu nhưng khi đến gần mới biết tại sao. Có hai ngả rẽ trước mặt. Một ngả thẳng lên cái dốc cao, bị che lấp bởi cỏ mọc um tùm. Chỗ ngã ba có một cây bách khổng lồ to đến ba bốn người ôm. Lối hẹp này biến mất sau cây bách rồi ngoằn ngoèo quanh ba, bốn tảng đá đồ sộ phân bố đều đến đỉnh dốc. Sau khi cân nhắc, tôi kết luận mình không hợp đi lối ấy. Cho đến thời điểm này tôi vẫn duy trì quan điểm đã đi thì đi đường cái, ở trường hợp này cũng vậy, cứ trông địa hình kia thì chọn con đường lớn là hơn, thêm vài dặm nữa sẽ gặp con đèo.

Tôi dừng lại ở ngã ba một lúc, xem xét tình hình coi nên đi đường nào. Cây bách khổng lồ hoàn toàn choán chỗ con đường rộng hơn, cành lá tạo thành vòm trên đồng lúa xung quanh giống như một cầu vồng bắc qua bầu trời. Không chỉ cành lá mà rễ cây cũng rất ư là hoành tráng, chúng trồi lên khắp nơi trên mặt đất tạo thành những hình dạng kỳ thú như một đống cá chình lúc nhúc. Tôi cũng nhận thấy một con suối nhỏ chảy quanh rễ cây và lan ra xung quanh thành một vũng nước lớn. Trên thực tế, nước chảy ra từ ngã rộng hơn trong hai ngã rẽ tạo thành một con suối, đó chính là con đường tôi đã nhắm để đi tiếp.

Thật là kỳ cục vì những cánh đồng lúa xung quanh không biến thành một cái hồ. Tôi quan sát theo chiều dòng chảy thì thấy đâu đó xa xa phía có một lùm cây tạo thành bức tường ngăn nước. Tuy nhiên, ở khoảng cách hai trăm thước giữa chỗ tôi đứng với lùm cây nước chảy tràn. Đá được kê rải rác trong lòng suối để người ta có thể sải chân bước lên, mặc dù cách bố trí có vẻ ngẫu nhiên nhưng tôi chắc chắn những hòn đá này ở đây là do có bàn tay của con người.

Cái ngã ba này không lắt léo hiểm trở đến nỗi phải cởi áo khoác dài để bước qua, nhưng nếu đây là đường lộ thì nghe chừng hơi bị khó đi thì phải, ngựa đi còn khó qua nữa là một người đi bộ như tôi.

Gã bán rong cũng lưỡng lự đứng yên một lúc rồi quả quyết đi về phía con đường hẹp bên phải dẫn lên đồi với những bước gấp. Tôi để ý quan sát nhưng hắn đã biến mất sau cây bách vĩ đại và một lúc sau ló ra trên triền đồi nhìn xuống chỗ tôi.

Hắn cất tiếng gọi: "Ê sư kia, đường đi Matsumoto đây này." Hắn đi thêm đoạn nữa rồi dựa vào một tảng đá, lại hô lớn về phía tôi: "Cẩn thận chứ không khéo bọn ma cây trong rừng nó hù cho, đang là ban ngày nhưng biết đâu nhà sư lại chủ quan." Châm chọc chán, hắn biến mất sau bóng những tảng đá và hoàn toàn mất dạng vào đồng cỏ cao phía sau.

Một lúc trôi qua, tôi ngẩng đầu nhìn lên dốc thấy cái dù của hắn rồi nó lại lẫn vào những bụi cây um tùm trên triền núi.

"Ơ kìa!" Một giọng nói vui vẻ cất lên. Tôi nhìn quanh, thì ra là một bác nông dân đang nhảy chân sáo qua những hòn đá kê dưới sông. Bác cuốn một cái chiếu cói quanh thắt lưng, trên vai vác cái đòn mà không có gánh."

5.

"Khỏi nói cũng biết từ lúc rời tiệm trà, ngoại trừ tay bán thuốc dạo ra tôi không gặp ma nào cả. Một người bán hàng rong sành sỏi như thế chắc chắn nắm rõ đường sá như lòng bàn tay. Tôi nghĩ đến lời nhận xét trước của gã trước khi đi mà trong lòng hoang mang, phải giở bản đồ ra dò lại mặc dù ban sáng đã xem xét chán chê cẩn thận.

"Phiền thí chủ giúp tôi một việc được không?" Tôi hỏi.

"Tôi giúp gì được sư thầy?"

Dân miền núi quê mùa chất phác song lúc nào cũng lịch sự trước một hòa thượng như tôi.

"Cũng không có gì to tát, thí chủ cho hỏi đây có phải đường cái không?"

"Sư thầy đi Matsumoto à? Đang mùa mưa nên ông trời hào phóng nước nôi lắm, sư thầy xem, đường lộ đã ngập thành sông rồi."

"Ngập sâu đến thế sao?"

"À không, đây thì ngập chứ đi ra đến dưới lùm cây xa xa kia là khô ráo. Đường núi rộng rãi đủ để hai xe thồ tránh nhau. Cái lùm cây ấy từng là nhà của một lương y, còn chỗ thầy với tôi đứng ngày xưa có một ngôi làng. Hình như mười ba năm trước có một trận đại hồng thủy đã biến khu này thành bình địa, nhiều người cũng bỏ mạng theo. Sư thầy là người nhà Phật, nhân việc qua đây có thể cầu siêu cho những linh hồn xấu số đó không?

Tuy tôi không hỏi han gì đến lịch sử vùng miền nhưng thông tin của bác nông dân rất hữu ích. Vậy ra tôi đúng, song le điều đó có nghĩa là tay bán thuốc đã sai.

"Thế đằng kia thì rẽ về đâu?" Tôi hỏi, nghểnh đầu sang phía con đường mà tay bán thuốc lựa chọn.

"À, đường ấy là đường mòn. Cách đây hơn năm chục năm dân tình đi lối đó, cũng hướng về huyện Shinshu như đường cái mà còn đỡ được bảy dặm nhưng thời buổi này rẽ qua đó thì đi dễ khó về. Năm ngoái có một gia đình du mục lỡ dại chọn lối ấy, đến là khổ. Tuy họ vô danh nghèo hèn nhưng mạng người quý giá nên chúng tôi cũng hết lòng hết sức mà tìm kiếm. Ba ông cảnh binh và mười hai dân làng lập thành một nhóm cứu hộ kéo nhau lên núi, rốt cuộc cũng tìm thấy cả nhà nhưng thú thực với sư thầy được được hay không do hên xui cả thôi. Sư thầy có vẻ mạnh khỏe nhưng chớ chủ quan mà chọn đường tắt làm chi. Cứ đường cái thẳng tiến, cùng lắm chịu khó màn trời chiếu đất một đêm. Trời phù hộ cho thầy. Tôi đi nhé!"

Tạm biệt bác nông dân, tôi đang tính bước lên mấy hòn đá kê bước thì đột ngột dừng lại, đâm lo cho anh chàng bán thuốc đi lầm đường kia.

Bác nông dân kể chuyện nghe có tí thêm mắm dặm muối, nhưng nếu bác ta nói thật chẳng hóa ra tôi lại để anh chàng bán thuốc bỏ mạng oan. Thực tình tôi đúng là một hòa thượng, xem mọi thứ trên đời là hư vô, thế thì đi đường nào cũng đâu quan trọng. Ban đêm tôi không cần phải tìm lữ quán ấm áp tiện nghi như lữ khách bình thường cơ mà. Với ý nghĩ này, tôi quyết định rẽ sang lối tắt để đuổi theo anh chàng bán thuốc dạo, nếu đuổi kịp tôi sẽ chỉ cho anh ta đường cái mà nếu không đuổi kịp thì cứ đường mòn mà đi, chẳng sao cả. Bây giờ không phải mùa săn của bầy chó sói, ma cây cũng không hoạt động mấy. Tôi tự nhủ: "Cứ đi xem thế nào." Hạ quyết tâm xong tôi đứng lại một lúc, ngó dọc ngó ngang chẳng thấy bác nông dân đâu nữa.

"Được lắm." Tôi tự nhủ, dứt khoát hướng về con đường hẹp lên đồi. Không phải do tuổi trẻ nông nổi hay muốn làm người hùng mà tôi đuổi theo tay bán thuốc. Nói như vậy thí chủ có khi lại lầm tưởng là tôi đã giác ngộ nhưng kỳ thực tôi chỉ là một tên nhát gan. Việc tôi sợ chết, không dám uống nước sông chảy từ ngôi làng có dịch đã mười mươi khẳng định điều đó, vậy thí chủ có thắc mắc duyên cớ nào khiến tôi đuổi theo anh chàng kia để dẫn anh ta về đường cái không?

Giả sử tay bán thuốc dạo chỉ là một lữ khách trao đổi vài ba câu xã giao, tôi có lẽ đã mặc cái số anh ta cho trời định đoạt. Ngặt nỗi trong lòng tôi bây giờ lại có hiềm khích với con người này nên nếu vì thế mà bỏ rơi anh ta thì suốt đời sẽ phải áy náy."

Hòa thượng Shucho tiếp lời, người vẫn cuộn lại úp mặt vào gối và chắp hai tay như đang cầu nguyện vậy. "Thấy chết mà không cứu thì tụng kinh niệm phật cũng chả có nghĩa lý gì."

6.

"Thí chủ biết không, tôi đã đi theo con đường hẹp vòng qua cây bách cổ thụ và trèo lên con dốc phía sau, len lỏi giữa những tảng đá lớn cho đến khi gặp vách núi. Từ đây phải vượt qua mấy khu rừng và đồng cỏ cao nữa.

Chẳng mấy chốc tôi đã trèo xong một ngọn núi và chuẩn bị leo tiếp sang ngọn thứ nhì. Bốn bề là thảo nguyên mênh mông. Hóa ra đường này vừa rộng lại vừa không dựng đứng như con đường cái ban nãy. Nhìn chung lối mòn chạy song song với đường cái, chẳng qua một đường vòng hướng Đông đường kia vòng hướng Tây, con đường tắt này thừa rộng cho một lãnh chúa dắt theo cả đoàn tùy tùng ấy chứ.

Ngặt nỗi ngay cả ở chỗ rộng rãi mênh mông thế này tôi cũng không thấy bóng dáng hay dấu vết nào của tay bán thuốc, trên đường có nghe động tĩnh gì thì chẳng qua là bọn côn trùng bay lên bầu trời hoàng hôn. Tôi thấy cô độc và hơi bồn chồn trên đồng cỏ khô cằn và trống trải một mình, quang cảnh này không có gì thân thuộc để an ủi tôi cả. Vùng Hida này năm thì mười họa mới xuất hiện một lữ quán hay dịch trạm, ở lữ quán cũng chẳng có gì ăn ngoài cơm độn hạt kê - những điều đó người ta nói nhiều rồi nên tôi đã chuẩn bị tinh thần và sức lực đi một mạch. Nhưng đường mỗi lúc một hẹp lại và dựng đứng đến độ có thể vừa đi vừa dang tay chạm vào cả hai bên vách núi.

Tôi biết từ đây là con đèo Amo khét tiếng. Mặc dù đang thở hồng hộc trong cái nóng khủng khiếp, tôi chỉ dừng bước để buộc lại đôi dép rơm.Nhiều năm sau tôi mới nghe nói rằng có một lối thông gió gần đấy đem không khí mát mẻ từ trong hẻm núi này xuống chùa Liên Đài ở Mino giúp cho khí hậu được điều hòa. Tuy nhiên bấy giờ tôi hùng hục leo núi, chả còn đầu óc nào để ngắm cảnh hay tìm hiểu địa hình, đại để chuyên tâm đến nỗi không biết trời đang âm u hay nắng ráo. Tôi chỉ tập trung vào việc leo núi thôi.

Câu chuyện tôi muốn kể cho thí chủ nghe là sự kiện xảy ra sau đó. Tôi chỉ có một mình, mà thứ tôi sợ đụng phải nhất khi đi đường là rắn. Thường bọn chúng hay nằm ngay lối đi, đầu đuôi giấu trong bụi cỏ. Gặp con rắn thứ nhất chân tôi đã mềm như bún, sụm xuống. Tôi ngồi bệt xuống, cái mũ rơm trên đầu, cây gậy trong tay, toàn thân tê liệt vì sợ hãi. Nỗi sợ của tôi mang tính bệnh lý chứ không phải chỉ đơn thuần do ghê tởm con vật đó. May mà con rắn chỉ trườn qua, nghểnh cái đầu lên rồi biến mất trong bụi cỏ mặc tôi ngồi trơ khấc ra đấy. Đúng là hú hồn hú vía.

Tôi chật vật đứng dậy và tiếp tục hành trình nhưng đi được năm sáu trăm mét lại gặp con rắn nữa. Nó nằm phơi bụng ra vắt ngang giữa đường, chắc là đang sưởi nắng. Tôi nhảy ra sau thối lui và la oai oái, còn nó thì trườn vào bụi cỏ một cách nham hiểm, khẽ khàng. Con thứ ba thì không nhanh nhẹn như con thứ nhì, cứ nhìn thân hình tròn lẳn và dáng điệu lề mề của nó thì chắc phải năm phút mới qua đường xong. Không còn cách nào khác, tôi đành mắm môi mắm lợi nhảy qua, lông tóc thiếu điều dựng ngược hết cả lên thành vảy rắn, đôi mắt dường cũng lạnh ngắt và trong suốt như thể mặt mình đã biến thành mặt rắn vậy.

Mồ hôi lạnh chảy đầm đìa, hai chân mềm nhũn như cao su, tôi thấy trong người như sắp phát bệnh. "Vùng này vốn nhiều rắn, không được mất tinh thần." Tôi vừa trấn an bản thân vừa sợ hãi chạy thật nhanh để rồi lại đụng độ cái giống trời đánh ấy ngay lập tức. Con rắn này bị phanh thây, chỉ còn lại khúc giữa và đuôi. Phần thân nó ánh lam, chỗ đứt chảy ra một chất dịch màu vàng. Nó vẫn còn thở và co giật.

Kinh hồn bạt vía, tôi kéo vạt áo cà sa tính co giò quay lại nhưng chợt nhớ ra là không thể, vì mấy con rắn mình đụng độ ban nãy vẫn còn lảng vảng trên đường là cái chắc. Thà chết còn hơn phải nhảy qua con rắn to tướng ấy lần nữa. Nếu bác nông dân cảnh báo về bọn súc sinh này trước thì thà bị đày xuống âm ti chứ tôi không đời nào chọn quay lại con đường tắt để cứu gã bán rong kia."

Lấy hai tay ôm đầu, hòa thượng tiếp lời: "Tôi sợ quá, vừa khóc vừa niệm Phật. Bây giờ chỉ nhớ lại thôi cũng đủ rùng mình."