CHƯƠNG 22
Arthur tỉnh dậy và lập tức thấy hối tiếc. Anh đã từng thấy váng vất sau khi say rượu, nhưng chưa bao giờ tới mức này. Chính là nó đây, cái tồi tệ nhất, hố địa ngục kinh khủng nhất. Anh kết luận là tia truyền vật chất còn không vui bằng một cú đá thật lực vào đầu.
Không muốn nhúc nhích vì cơn đau âm ỉ giần giật trong người, anh cứ nằm yên đấy và suy nghĩ. Anh thầm nghĩ, vấn đề với hầu hết các phương tiện di chuyển chính là chẳng cái nào tiện dụng đến độ đáng phải chịu những rắc rối nó gây ra. Trên Trái Đất - từ cái hồi còn Trái Đất, trước khi nó bị san phẳng để lấy chỗ xây đường cao tốc xuyên không gian - rắc rối là xe ô tô. Bất tiện của ô tô là phải lôi ra rất nhiều thứ nhớt đen từ dưới lòng đất nơi nó đang nằm kín đáo chẳng bị đe dọa gì, biến nó thành nhựa đường để phủ lên mặt đất, rồi thành khói bay lên đặc không khí, và những gì còn lại thì bị đổ xuống biển, và tất cả những cái đó đều không đáng chỉ để đổi lấy cái tiện lợi là đi từ nơi này đến nơi khác nhanh hơn - nhất là khi nơi ta đến có thể đã bị chính những việc trên biến thành một nơi rất giống với nơi ta vừa đi, tức là phủ đầy nhựa đường, toàn là khói và ít cá.
Thế còn các tia truyền vật chất thì sao? Bất kỳ loại phương tiện di chuyển nào mà lại xé ta ra thành từng nguyên tử, ném những nguyên tử đó qua mạng hạ etha, rồi ghép chúng lại với nhau đúng lúc chúng mới được nếm mùi tự do lần đầu tiên sau bao nhiêu năm thì chắc chắn chẳng tốt đẹp gì.
Rất nhiều người trước Arthur Dent cũng đã nghĩ đúng như vậy và thậm chí đã từng viết bài hát về chuyện đó. Đây là một bài thường được các đám đông khổng lồ đồng thanh hát vang bên ngoài nhà máy sản xuất bộ dịch chuyển tức thời của Tập Đoàn Điều Khiển Học Thiên Lang trên Hành Tynh Hạnh Fúc III:
Aldebaran tuyệt lắm,
Algol thì nuột kinh,
Gái đẹp Betelgeuse
Đốn tim ta rất nhanh.
Họ sẽ làm gì ta thích
Thật mau rồi thật lâu,
Nhưng nếu phải xé tôi ra mới đưa được tôi đến đó
Tôi chẳng muốn đi đâu.
Cùng hát nào,
Xé tôi ra, xé tôi ra
Hành trình kiểu gì vậy hở,
Nếu phải xé tôi ra mới đưa được tôi đến đó
Tôi thà ở lại nhà.
Thiên Lang lát toàn vàng
Tôi nghe khen ngợi miết
Từ mồm những gã điên sau đó nói thêm
“Hãy đến thăm Tau trước khi chết.”
Tôi sẵn lòng đi đường lớn
Đường nhỏ cũng được rồi,
Nhưng nếu phải xé tôi ra mới đưa được tôi đến đó
Tôi thì xin kiếu thôi.
Cùng hát nào,
Xé tôi ra, xé tôi ra,
Chắc bạn điên rồi hở,
Nếu phải xé tôi ra mới đưa được tôi đến đó
Tôi thì ở yên nhà.
… và vân vân. Một bài hát được yêu thích khác thì ngắn hơn nhiều:
Tôi dịch chuyển về nhà một đêm kia
Với Ron và Sid và Meg,
Ron chiếm mất trái tim của Meg
Còn tôi được cái chân của Sidney.
Arthur thấy cơn đau đang từ từ dịu dần, mặc dù anh vẫn cảm nhận được những tiếng rầm rập trầm đục. Một cách chậm rãi, cẩn thận, anh đứng dậy.
“Cậu có nghe thấy một tiếng rầm rập trầm đục không?” Ford Prefect hỏi.
Arthur quay ngoắt lại và lảo đảo vẻ bối rối. Ford Prefect tiến lại, mắt đỏ ngầu, mặt trắng bệch.
“Chúng ta đang ở đâu đây?” Arthur hổn hển hỏi.
Ford nhìn quanh. Họ đang đứng trong một hành lang dài uốn cong, kéo dài hút tầm mắt sang cả hai phía. Bức tường thép phía ngoài - được sơn màu lục nhạt phát bệnh mà người ta hay dùng trong trường học, bệnh viện, và nhà thương điên để giữ cho các bệnh nhân khỏi lên cơn - uốn cong trên đỉnh đầu họ, cho tới khi nó gặp bức tường bên trong đứng thẳng, mà kỳ lạ thay lại được dán một lớp vải bố màu nâu. Sàn nhà bằng cao su xẻ rãnh màu xanh lục sẫm.
Ford nhích đến bên một tấm kính rất dày màu sẫm trong suốt gắn vào bức tường ngoài. Tấm kính dày tới vài lớp, song qua đó anh ta vẫn có thể nhìn thấy những ngôi sao xa tít tắp chỉ bằng đầu đinh ghim.
“Tôi nghĩ chúng ta đang ở trên một kiểu tàu vũ trụ nào đó,” anh ta nói.
Từ cuối hành lang vọng lại một tiếng rầm rập trầm đục.
“Trillian?” Arthur lo âu gọi. “Zaphod?”
Ford nhún vai.
“Chẳng thấy đâu cả,” anh ta nói. “Tôi đã tìm rồi. Họ có thể ở bất kỳ đâu. Một bộ dịch chuyển tức thời không được lập trình có thể ném ta đi xa hàng năm ánh sáng. Bằng vào cảm giác của tôi lúc này thì tôi đoán chúng ta đã đi xa lắm.”
“Cậu đang cảm thấy thế nào?”
“Rất tệ.”
“Cậu có nghĩ là họ đã…”
“Họ đang ở đâu, họ đang ra sao, chúng ta không có cách nào để biết và cũng chẳng làm gì được. Cứ làm như tôi đây này.”
“Làm gì?”
“Đừng nghĩ nữa.”
Arthur lật đi lật lại ý nghĩ này trong óc, miễn cưỡng thừa nhận là nó cũng có phần khôn ngoan, rồi gập nó lại và cất đi. Anh hít một hơi thật sâu.
“Tiếng bước chân!” Ford đột nhiên hô lên.
“Đâu?”
“Âm thanh ấy đấy. Tiếng rầm rập ấy mà. Là tiếng bước chân. Nghe này!”
Arthur lắng nghe. Âm thanh vang quanh hành lang và vọng đến chỗ họ không rõ từ đâu. Đó đúng là tiếng bước chân giậm rầm rập, và rõ ràng là nó đang to dần lên.
“Chuồn thôi,” Ford nói vội. Họ cùng chuồn - theo hai hướng ngược nhau.
“Đừng đi đường ấy,” Ford nói. “Chúng đang đến từ phía ấy.”
“Không phải,” Arthur nói. “Chúng đến từ phía kia chứ.”
“Không phải, chúng…”
Họ cùng ngừng lời. Họ cùng quay đi. Họ cùng dỏng tai lên chăm chú lắng nghe. Họ cùng đồng tình với nhau. Họ lại cùng quay đi theo hai hướng trái ngược.
Nỗi sợ bóp chặt lấy họ.
Từ cả hai hướng, tiếng bước chân đang mỗi lúc một to.
Cách vài mét phía trái họ có một hành lang khác chạy vuông góc với bức tường phía trong. Họ lao đến đó và vội vã chạy xuôi cái hành lang này. Nó tối om, dài vô tận, và họ càng đi thì càng có cảm giác đang lạnh hơn. Có nhiều hành lang khác tỏa ra từ bên trái hoặc phải, cái nào cũng tối như hũ nút và phả một luồng khí giá băng vào mỗi khi họ đi qua.
Họ hoảng sợ dừng lại. Họ càng đi sâu vào hành lang thì tiếng bước chân càng to hơn.
Họ ép mình vào bức tường lạnh ngắt và căng tai ra nghe. Cái lạnh, bóng tối, và tiếng bước chân rầm rập mà chẳng thấy người khiến họ vô cùng hoảng loạn. Ford rùng mình, phần vì lạnh, phần vì nhớ tới những câu chuyện mà bà mẹ yêu quý của anh ta thường kể khi anh còn là một chú nhóc tì Betelgeuse, chỉ cao đến cổ chân một con Châu Chấu Khủng sao Người Giữ Gấu: chuyện về các con tàu ma, những gã khổng lồ chết chóc bay vơ vẩn trong những vùng bị quên lãng của vũ trụ sâu thẳm, đầy quỷ dữ hoặc hồn ma của phi hành đoàn bị cả thế giới lãng quên; cả chuyện về những người lữ hành bất cẩn đã tìm thấy và bước vào những con tàu như vậy; chuyện về… Nhưng rồi Ford nhớ tới lớp vải bố màu nâu dán tường ở cái hành lang đầu tiên và trấn tĩnh lại. Anh ta tự nhủ, không biết ma quỷ thích trang trí tàu ma thế nào, nhưng anh ta dám cược tiền là chúng sẽ không dùng vải bố. Anh ta túm lấy tay Arthur.
“Quay lại đường cũ,” anh ta quả quyết và họ bắt đầu lần ngược trở lại.
Một lát sau họ vội nhảy sang một ngã tư hành lang gần nhất như hai con thằn lằn bị giật mình, khi chủ nhân của những đôi chân rầm rập kia đột nhiên xuất hiện ngay trước mặt họ.
Giấu mình sau góc quanh, họ kinh ngạc trố mắt nhìn chừng hai tá đàn ông và đàn bà béo phì mặc đồ thể thao vừa nện bước qua chỗ họ vừa thở phì phò với một vẻ sẽ khiến một bác sĩ phẫu thuật tim phải lắp bắp không nên lời.
Ford Prefect nhìn theo họ.
“Những người chạy bộ!” anh ta rít lên, trong khi tiếng bước chân của họ tiếp tục vang vọng khắp dãy hành lang.
“Những người chạy bộ ấy à?” Arthur Dent thì thào.
“Những người chạy bộ,” Ford Prefect nhún vai đáp.
Hành lang nơi họ đang trốn không giống những cái khác. Nó ngắn hơn nhiều, và dẫn tới một cánh cửa thép lớn. Ford dò xét cánh cửa, phát hiện ra cách mở, và đẩy toang cửa ra.
Thứ đầu tiên đập vào mắt họ là một vật nhìn giống cái quan tài.
Và bốn ngàn chín trăm chín mươi chín vật tiếp theo đập vào mắt họ cũng là quan tài.