← Quay lại trang sách

Truyện thứ hai Tiệp khắc-Mù mắt vì tình-

Thiên địa phong trần,

Hồng nhan đa truân

( Chinh phụ ngâm )

Thói đời của hồng nhan là suốt đời đa truân. Từ cổ chí kim thật hiếm đàn bà đẹp tận hưởng hạnh phúc đến mãn chiều xế bóng. Marta là một cô gái đẹp tuyệt vời, nên số kiếp nàng lận đận cũng chẳng có gì lạ. Sở dĩ nhiều người biết đến nàng –và hôm nay Người Thứ Tám tường thuật đời nàng- là vì sự truân chuyên của nàng khác hẳn những sự truân chuyên đối với mỹ nhân trong dĩ vãng.

Marta Frantek là gái Tiệp khắc. Thiên tình sử ai oán của nàng xảy ra nhiều năm trước đại chiến thứ 2, trước khi Hitler mới lên nắm quyền, hò hét ở Đức. Chủ nghĩa cộng sản sô viết chưa đè rụp dân Tiệp nên người Tiệp còn thảnh thơi, còn có thời giờ du hí, mơ mộng và … làm tình giữa một phong cảnh đầy thi vị từng làm đề tài sáng tác cho biết bao tao nhân mạc khách.

Gái Tiệp có cái độc đáo, người nào đẹp thì thật đẹp, còn xấu thì thật xấu. Phần đông là bình thường. Marta quá đẹp, nàng đến đâu là hào quang sáng rực đến đó. Xứ Tiệp là nơi sản xuất những loại la-ve thơm ngon nhất thế giới, đặc biệt là la-ve Pilsen. Trai gái uống la-ve tì tì, sông có nhiều cá, rừng có nhiều thú săn, do đó phụ nữ Tiệp không phải là phụ nữ biểu diễn đường cong núi lửa. Gái ở thành thị thường mập mạp, vòng bụng luôn luôn đe dọa tranh chấp vòng ngực. Gái ở nông thôn quanh năm làm việc đồng áng nên được thon hơn nhưng vẫn thô tháp và nặng nề. Đó là kết quả của những chất bổ dưỡng trong rượu la-ve.

Marta đẹp hơn hẳn mọi người đẹp khác. Mọi người to ngang, eo lớn, trông cục mịch và chậm chạp thì nàng nhỏ nhắn, bụng lép, mông tròn, ngực nở, dáng điệu thanh thoát và nhanh nhẹn. Thân thể nàng không có tí mỡ thừa nào, ngực và mông nàng nở đều đã đành, lại còn cứng rắn nữa. Đặc điểm thứ hai: trai gái nhậu nhẹt rượu bia quá trớn thành ra hơi thở luôn luôn nồng nặc. Khi hơi men tản hết thì miệng không còn thơm mấy. Giới y sĩ cho biết hôi miệng là do nhiều nguyên nhân, sâu răng, đau nướu, lở trong miệng, trong cuống họng, đau phổi, tiêu hóa xấu…chứ chưa ai nói hôi miệng là vì đa mang la-ve. Nhưng trên thực tế, nhiều cô gái (và dĩ nhiên nhiều chàng trai) mắc bệnh hôi miệng.

Nhưng ai có cái miệng thơm thơm như ngậm kẹo thì thiên hạ mến yêu, đổ đi không hết ái tình. Hồng nhan đa truân có khác, Marta đẹp như vậy mà gia đình lại nghèo, quá nghèo từ thuở chào đời đến tuần cập kê, nàng chỉ sống ru rú trong căn nhà lụp sụp. Thành thử ra nhan sắc siêu đẳng của nàng không được ai biết tới.

Cha nàng làm nghề thổi thủy tinh trong một nhà máy chế tạo ly lọ ở vùng ngoại ô thủ đô Praha (Prague). Mẹ nàng làm lụng cơm nước, giặt giũ trong nhà. Số lương ít ỏi của chồng phải giật gấu vá vai mới tạm đủ. Như thông lệ, vợ chồng nghèo, không có phương tiện giải trí, nghỉ hè hàng năm nên con cái càng đẻ ra sồn sồn. Ông thợ thổi thủy tinh có cả đống con trai, con gái. Để giúp đỡ cha mẹ, giai nhân Marta phải kiếm việc làm. Nàng học hành chẳng bao nhiêu nên chỉ có thể làm thư ký quèn trong một xí nghiệp hóa phẩm lớn.

Đàn bà có 8 kị tướng, hễ phạm một là đủ long đong trọn đời. Marta lại phạm những 2. Đó là xà hành và đào hoa diện. Đàn bà xà hành là đàn bà có dáng đi uyển chuyển, uốn éo như rắn. Theo sách tướng, đàn bà xà hành thường lẳng lơ, thích tình yêu xác thịt. Muốn có dáng đi xà hành phải có cặp mông tròn nở và đôi chân dài thòng. Đàn ông rất khoái đàn bà mông tròn, cẳng dài. Hàng triệu đàn bà trên trái đất mơ được mông tròn, cẳng dài. Nhưng đàn bà xà hành lại long đong. Vì quá đam mê. Vì luôn luôn ngụp lặn trong hưởng thụ vật chất, thay đổi người yêu như đổi đồ lót, để rồi xuân qua đông lại chẳng mấy chốc sẽ rơi vào kiếp hoa tàn nhị rữa.

Kị tướng thứ hai là đào hoa diện. Mặt như hoa đào, lúc nào cũng hồng, cũng tươi, môi bóng, mắt ướt, ai lại chẳng ưa. Ấy thế, đàn bà đào hoa diện lại bất lợi về đường chồng con. Đàn ông khôn ngoan không dại gì lấy gái có khuôn mặt hoa đào làm vợ, vì chắc đâu vợ sẽ trung thành, chắc đâu con nàng đẻ là con thật của mình. Đó là chưa nói đến sắc mặt hoa đào còn có tính chất sát phu.

Người đẹp Marta có tướng xà hành và đào hoa diện phải sống cảnh chăn đơn gối chiếc là vì thế.

Nói cho đúng, những người nặng lòng về nàng có thể đếm được hàng trăm. Nhân viên văn phòng, nhân viên nhà máy, từ xếp lớn đến xếp bé tép riu, ai cũng mê nàng. Nàng lại được tạo hóa phú cho cái tính ngây thơ hiền từ mới chết chứ…

Mỗi ngày nàng mỗi nẩy nở, mỗi ngày nhan sắc khuynh quốc khuynh thành của nàng mỗi hiện ra lồ lộ. Ông Pasticka mất ăn mất ngủ vì nàng không phải là một biến cố quá đáng. Giá ông không già khọm thì có lẽ giai nhân Marta đã nhảy vọt lên ghế bà giám đốc. Vì ông Pasticka là giám đốc nhà máy.

Ông giám đốc đã hơn ngũ tuần, bụng khá to, mái tóc bạc phơ, da dẻ vừa răn vừa mốc. Ông có hai cái thú cũng như người đẹp có hai kị tướng, đó là làm việc và uống la-ve Pilsen. Ông vùi đầu vào giấy tờ, vào máy móc từ sáng đến tối, và xểnh ra phút nào rỗi rãi là ông nhậu nhẹt la-ve. Đàn bà cô gái uống la-ve thường mập ra, đàn ông gần hết xí quách như ông giám đốc Pasticka uống la-ve lại nảy ra trạng thái xuân tình phát động. Ông giám đốc có cảm tình với Marta, song ông tự thấy xấu xí, ốm yếu, lại già bằng cha nàng nên ông lặng lẽ rút lui. Tình yêu tuyệt vọng của ông được nhường cho tình thương vô điều kiện. Ông hằng nghĩ cách cất nhắc nàng, giúp nàng có thêm đồng ra đồng vào để nuôi đàn em dại.

Ông nói với nàng:

- Thông minh như cháu mà ngày này qua ngày khác ngồi lì một chỗ làm cái việc xếp hồ sơ và tống thư văn trong nhà máy thì thật uổng. Qua muốn giúp cháu, cháu chịu không?

Nàng chắp tay vái ông:

- Được ông giám đốc nâng đỡ thì chắc chắn cháu sẽ nở mày nở mặt với chúng bạn. Gia đình cháu sẽ thâm tạ ông giám đốc.

- Hừ, có gì mà thâm tạ…Đây này, sở đang thiếu một chân thư ký. Lẽ ra qua phải đăng báo tuyển chọn một thư ký mới, nhưng vì nghĩ đến cháu, qua tìm cách chần chừ. Cháu chịu khó tập tành ở nhà một thời gian là biết việc. Chỉ cần biết thôi, chưa cần giỏi. Qua sẽ chỉ bảo thêm cho cháu.

- Thưa ông giám đốc, cháu phải học gì ở nhà ạ?

- Học đánh máy.

- Thưa, khó lắm, cháu…

- Đánh máy có gì khó đâu. Có người học dăm ba bữa là gõ lóc cóc được rồi. Mới đầu thì gõ một ngón, dần dần đến 2, 3 ngón. Qua điều khiển nhà máy, qua không chê cháu kém cỏi thì thôi, ai dám xía vào. À, qua biết rồi…cháu sợ không học nổi vì cháu có quá nhiều bạn, tối nào cháu cũng phải đi chơi…Bản tâm của qua là giúp đỡ cháu, thành tâm giúp đỡ cháu. Tuy nhiên, qua cũng thấy hơi phiền. Vì cháu đang còn trẻ, đang còn tuổi ham hố, đam mê…

Sự thành thật của ông giám đốc hiện rõ trong khóe mắt. Marta cảm động muốn khóc. Nếu ông giám đốc nói thêm vài tiếng nữa, nàng đã ôm chầm lấy ông. Ông là ân nhân của nàng, ân nhân của gia đình nàng.

Và từ đó giai nhân Marta học thêm nghề thư ký đánh máy. Nàng học riêng ở nhà, không ai kiểm soát đôn đốc, nên sau mấy đêm miệt mài tập tành, nàng bắt đầu chán, nàng bắt đầu thèm nhớ không khí thị trấn ban đêm, hóng mát bên giòng sông lững lờ, choàng vai bá cổ những chàng trai khôi ngô, uống rượu la-ve, trầm ngâm trước tách cà phê phin đặc sệt thơm phức –mà Praha là một trong những thủ phủ quốc tế có truyền thống pha cà phê khéo léo- nàng không thể cấm cung thêm nữa.

Dường như tạo hóa sinh nàng ra để hò hẹn với đàn ông. Thiếu đàn ông một ngày là nàng ngứa ngáy, buồn phiền, mắt hoa, đầu nhức. Nàng phải yêu, phải cọ sát, phải hôn hít, phải làm tình liên miên mới sống nổi. Nàng lại quá đẹp, quá lẳng nên thiên hạ yêu nàng cả đống. Nàng lại thích đổi món, thành ra số đàn ông đông đảo này có lợi cho nàng. Mỗi chiều tan sở nàng lại du dương với một bạn trai trong nhà máy. Cậu nào có tấm thân cân đối, khỏe mạnh, bền sức, tính tình khả ái, nàng sẽ hẹn hò nhiều lần. Còn là đàn ông bình thường thì nàng thay đổi gần như cơm bữa.

Rất nhiều chàng trai đòi được nàng nhận lời làm vợ, nàng chỉ hứa cuội. Các cậu trồng cây si đâm ra ghen tuông, cậu này rình rập cậu kia để rồi nói kháy nhau, cãi lẫy nhau, và sau cùng thượng cẳng tay hạ cẳng chân với nhau. Và giai nhân Marta vẫn phây phây…

Nhưng nàng không biết rằng trò chơi nguy hiểm này khó thể kéo dài được mãi. Sớm muộn nàng sẽ gặp trục trặc. Chỉ cần một trục trặc nhỏ là tính mạng nàng bị đe dọa.

Trong số những thanh niên khổ sở điêu đứng vì nàng, kẻ liều lĩnh không phải là hiếm. Quá mê đắm, án mạng có thể xảy ra.

Trên thực tế, Marta đã bị mưu sát sau đó một thời gian ngắn.

Thường lệ, phản ứng của đàn ông bị hất hủi, bị cắm sừng là giải quyết bằng máu. Từ thuở khai thiên lập địa, có đàn ông và đàn bà, những vụ giết nhau vì tình đã xäy ra. Chàng trai tuyệt vọng mai phục trong bóng tối, hoặc sùng sục vào thẳng nhà người-yêu-không-bao-giờ-cưới, chĩa súng ra bắn luôn cả xạt-giơ hoặc thọc mũi nhọn giữa tim nàng.

Trong vụ Marta, khí giới được dùng lại không phải là súng hoặc dao. Nó là một khí giới chưa từng được ai nghĩ tới. Ngay sau khi Marta bị nạn, sở công an Parha nghi ngờ bọn đàn ông đêm ngày vẫn bám lấy nàng để xin ân huệ. Một cuộc điều tra cặn kẽ được tiến hành trong nhà máy hóa phẩm.

Nội vụ như sau: một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi trắng xóa, bà mẹ của Marta gọi điện thoại cho văn phòng giám đốc, báo tin Marta bị đau bất thần, và xin nghỉ một vài buổi. Bà mẹ được hân hạnh nói chuyện với ông giám đốc Pasticka. Con gái bà thường khen ông giám đốc tốt bụng và bà chưa có dịp cám ơn. Giọng bà run run, bà trình vụ con gái bị đau lên ông giám đốc. Giọng ông giám đốc cũng run run. Ông có vẻ buồn bã. Như thể Marta là con ruột của ông. Ông hỏi:

- Cháu nó đau bệnh gì, thưa bà?

Bà mẹ đáp:

- Thưa, tôi cũng chưa rõ. Cháu vừa đi bệnh viện. Ông giám đốc rất tốt với cháu, với gia đình chúng tôi, cháu nó nghỉ việc thế này làm công việc xưởng máy bị trì chậm, tôi lấy làm áy náy. Xin ông giám đốc…

- Ồ, có gì đâu, thưa bà. Tôi coi cô Marta như con cháu trong nhà. Bà cứ cho cháu nghỉ, và đi bệnh viện điều trị. Nhà máy có y sĩ giỏi, tôi sẽ yêu cầu họ săn sóc cháu. Bà yên tâm…

Tuy ông giám đốc Pasticka hết lòng an ủi, bà mẹ của Marta vẫn không thể yên tâm. Vì Marta không nghỉ một ngày, hai ngày. Mà là nhiều ngày. Và có thể nàng phải nghỉ vĩnh viễn. Nghỉ vĩnh viễn…vì nàng mắc phải một căn bệnh quái ác, kỳ lạ chưa từng thấy. Một căn bệnh chưa có phương pháp nào và đơn thuốc nào chữa khỏi.

Nàng có những triệu chứng kỳ lạ. Nàng kêu đau lung tung khắp người. Mới đầu nàng mỏi rừ các khớp xương, đầu gối, mắt cá chân và cườm tay. Nàng bị đau nhức như bị đánh trọng thương. Rồi hai mắt nàng bỗng dưng mờ hẳn. Ban đêm nàng không tài nào nhắm được mắt. Nàng phải uống thuốc mới ngủ nổi. Nhưng giấc ngủ của nàng rất ngắn, chốc chốc nàng lại giật mình thức dậy, toát đầy bồ hôi lạnh, miệng kêu ú ớ.

Chỉ trong mấy tuần lễ, Marta sụt hơn 10 kilô. Đột ngột một buổi sáng bà mẹ mở cửa sổ cho ánh nắng bên ngoài tràn vào thì một màng đen dầy đặc che ngang mắt nàng.

Nàng bị mù.

Tin nàng bị mù loan ra trong giới nhân viên xưởng máy. Mọi người bàng hoàng. Đẹp như nàng mà bị mù thì chẳng còn gì sinh thú nữa. Marta càng gầy thêm vì nàng bỏ ăn, bỏ ngủ. Nàng khóc đến nỗi mặt mày sưng húp.

Đùng một cái, nàng khỏi mù. Nàng không ngày rõ như trước nhưng nàng không bị màng đen che phủ nữa. Marta mừng rú. Nàng bắt đầu hy vọng. Hy vọng này mới bùng lên lại tắt ngúm. Vì Marta mù lại, ban đêm hãi hùng trở về với đôi mắt nâu tuyệt đẹp của nàng. Mấy ngày sau, nàng hết mù. Rồi mù lại. Cứ như thế, mấy ngày mù, mấy ngày nhìn thấy lại. Mỗi lần xê xích từ 3 đến 8 ngày.

Bệnh tình của Marta quá bí ẩn. Viên thầy thuốc ở khu phố tìm mãi không ra nguyên do. Y sĩ của xưởng hóa phẩm cũng được mời tới chẩn mạch cho nàng, và cả ông cũng lắc đầu bó tay. Sau cùng, Marta được chở tới bệnh viện công lớn nhất thủ đô Tiệp khắc. Những nhà chuyên môn y khoa nổi tiếng nhóm họp bàn cãi.

Khi ấy, sự thật kinh sợ mới được nổ bùng.

Các nhà chuyên môn thảo luận nhiều lần mà không đi đến một kết luận chung. Đột nhiên có người nghi chứng bệnh quái đản của Marta là do tia phóng xạ radium gây ra. Những cuộc thí nghiệm sau đó cho thấy đúng. Nếu vụ Marta xảy ra sau đại chiến thứ hai thì có lẽ các nhà chuyên môn không mất quá nhiều thời giờ để nghiên cứu bệnh trạng. Vì khoa học nguyên tử ngày nay đã tiến xa vượt bực, mọi người đã biết rõ tác động giết người ghê gớm của tia phóng xạ nguyên tử.

Bản phúc trình y khoa gởi cho công an Praha nói rõ rằng những ngón tay của Marta bị dính bụi phóng xạ nguyên tử, dần dà nàng lấy ngón tay dụi mắt, và mắt nàng bị hư. Bụi phóng xạ tiếp tục nhiễm độc trên khắp cơ thể của nàng. Căn bệnh của nàng là một căn bệnh không thể nào chữa khỏi. Nạn nhân không chết ngay, mà sẽ chết lần chết mòn, có thể lay lứt vài ba tháng, vài ba năm…

Hồ sơ Marta được đưa tới phòng giấy viên tổng giám đốc công an. Những viên chức lão luyện và tài giỏi trong ngành lần lượt xem xét nội vụ. Nguyên nhân đã được tìm ra: phóng xạ nguyên tử. Xưởng hóa phẩm mà Marta làm việc chứa một số radium kỹ nghệ. Điều này có nghĩa là tai nạn của nàng liên hệ chặt chẽ tới nhà máy.

Trưởng ban thẩm sát Durich (1) điều khiển cuộc điều tra. Durich nhận thấy xưởng hóa phẩm quá rộng lớn, lại phân chia thành nhiều khu riêng biệt. Marta là nhân viên văn phòng cấp dưới, nàng làm việc trong tòa nhà dành riêng cho các văn phòng. Nàng không được phép bén mảng đến khu hóa chất. Bởi vậy, nàng không thể nhiễm độc phóng xạ.

Durich đến khu radium. Sau khi xem xét, ông kết luận Marta chưa bao giờ tới đó. Marta chưa bao giờ tới nơi có chất độc phóng xạ thì đương nhiên chất độc này…đã tìm tới nàng. Chất độc phóng xạ không có chân, thế tất phải có một người nào mang nó đến. Người ấy là thủ phạm.

Thủ phạm là ai?

Vụ Marta dễ mà khó. Dễ vì chưa cần điều tra, người ta có thể biết tại sao nàng mù mắt và hấp hối. Nhưng lại khó vì con số tình nghi nghe lên đến cả trăm. Nhà máy hóa phẩm có bao nhiêu con trai, đàn ông thì tổng cộng có bấy nhiên phần tử tình nghi thủ phạm. Vì mọi đàn ông trong xí nghiệp đều trồng cây si với cô gái xà hành, đào hoa diện. Một cậu nổi cơn ghen, không muốn mắt nàng mở rộng thao láo để ngắm người khác nên lừa dùng bụi phóng xạ giết nàng. Hung thủ phải là kẻ quá yêu và cũng quá tàn ác. Thiếu gì cách giết, nhưng hắn giết nàng bằng cách này lâu lắt hơn, và làm nàng đau đớn hơn.

Durich tập trung cuộc điều tra vào các nam nhân viên nhà máy. Thôi thì đủ cả đàn ông là đàn ông. Đứng trước tình yêu không có giai cấp, không có sự phân biệt giữa ông xếp và chú loong toong, do đó Durich mở hết hồ sơ nhân viên, từ giám đốc, trưởng ban, chuyên viên hóa học, cơ khí xuống đến viên chức hành chính, thương mãi, tùy phái, gác dan…

Một tia chớp lóe trong đầu trưởng ban thẩm sát Durich. Ông chợt nghĩ ra: thủ phạm phải là kẻ có học. Nhân viên cắc ké trong nhà máy khó thể biết cách giết người từ từ, hữu hiệu bằng bụi phóng xạ. Lưới điều tra công an được thu hẹp dần chung quanh những nhân viên có học thức.

Và sau cùng tên 2 người đàn ông đáng nghi nhất hiện ra.

Người thứ nhất là Jan Hradvice, đặc trách thương mãi. Hradvice đã có vợ, có con đùm đề. Con y đã lớn, một số sắp ra ở riêng. Y bắt đầu bước vào tuổi hồi xuân. Ngày lại ngày đối diện bà vợ nhan sắc tàn phai, lấm chấm vài sợi tóc bạc và những nếp răn tai hại trên cổ. Hradvice cảm thấy cõi lòng trống rỗng và lạnh lẽo. Sự hiện diện của giai nhân son trẻ Marta thổi tới một luồng gió thanh xuân. Hradvice yêu nàng, yêu vô bờ bến, yêu cuồng dại như thanh niên 18, 19. Hradvice đề nghị thuê cho nàng một căn nhà sang trọng, nàng từ chối. Song nàng không từ chối những món quà của y. Trời, Hradvice gửi tặng nàng hàng đống quà, quà nào cũng đắt tiền. Chắc bao nhiêu năm giành dụm bồ hôi nước mắt của y đã đổ vào sự biếu xén để lấy lòng người đẹp. Hradvice đề nghị ly dị vợ để thành hôn với Marta. Nàng vẫn lạnh lùng từ chối. Hradvice đã viết rất nhiều thư cho nàng. Những bức thư tình nóng bỏng…Hradvice yêu nàng có thể chết được. Và trong phút ghen tuông, y có thể đã mưu hại nàng…

Người đáng nghi thứ hai là Gustav Czyba. Y là chuyên viên phòng thí nghiệm, so sánh với Hradvice thì chức vụ thấp hơn, lương tiền cũng ít hơn. Đền lại, Czyba còn độc thân. Czyba lại khôi ngô. Đàn bà con gái thấy y là mê mệt. Marta bắt bồ với y dường như để chứng minh cho mọi người thấy nàng là giai nhân siêu đẳng, hơn hẳn những cô gái khác. Nói đúng ra, nàng cũng có nhiều cảm tình với Czyba. Nàng đi chơi thường xuyên với hắn. Trong những ngày đầu, y dẫn nàng ra bờ sông, đến rạp hát, vũ trường, tiệm ăn, đến khi cá cắn câu y mời nàng về nhà, một căn nhà gồm nhiều phòng bầy biện lộng lẫy và sang trọng. Dưới ánh đèn mờ ảo và trong điệu nhạc ru hồn, Czyba toan tính bẻ khóa động đào. Không ngờ nàng vẫn tỉnh, nàng xô y ra, và từ đó nàng không cặp kè với y nữa. Sự kháng cự của người đẹp không làm Czyba chán. Trái lại, y càng yêu nàng hơn. Y bám chặt nàng như con chó trung thành với chủ. Hơn một lần, Czyba rủ nàng đi chơi như ngày xưa, nàng thẳng thừng từ chối. Và hơn một lần, Czyba đã đe dọa nàng. Nghĩa là Czyba cũng như Hradvice, cả hai gã đàn ông cuồng nhiệt này đều có thể là hung phạm.

Cả hai lại được phép ra vào khu chứa độc chất phóng xạ. Với tư cách đặc trách thương mãi của xí nghiệp, Hradvice luôn luôn có mặt trong khu radium. Về phần Czyba, y làm việc trong phòng kế bên. Đành rằng chất phóng xạ được cất giữ an toàn, nhưng nếu là nhân viên có quyền ra vào tự do thì bất cứ lúc nào cũng có thể mang bụi radium ra ngoài, đựng giấu trong thùng chì…

Thẩm sát viên Durich kết luận rằng hoặc Czyba đã bí mật đánh cắp chất bụi nguy hiểm, chờ lúc vắng người -chắc là sau giờ làm việc- mang qua văn phòng Marta, rồi lén lút quét chất bụi này lên những đồ vật chỉ riêng nàng dùng thường ngày.

Durich thở phào khoan khoái. Ông đinh ninh tìm ra thủ phạm dễ dàng như trở bàn tay. Ông bèn ra lệnh cho nhân viên lục tìm những đồ vật bị nhiễm xạ. Toàn thể nhân viên trong nhà máy cũng như trong văn phòng của Marta đều được khám nghiệm: không ai bị nhiễm xạ như nàng. Marta chỉ đụng tới một số ít đồ vật. Durich nghĩ rằng nhân viên công an chỉ mất 5, 10 phút là tìm thấy.

Nhưng họ chẳng tìm thấy gì hết. Bàn giấy của Marta được mở tung, hồ sơ được lấy ra từng tờ, thậm chí những con tem thư trong ngăn kéo mà nàng có bổn phận dán vào phong bì để gửi đi cũng không thoát khỏi sự lục xét của công an. Với máy khám phá tia phóng xạ, nhân viên công an tiếp tục lục xét tất cả những nơi nào trong xí nghiệp Marta có thể đặt chân tới như phòng vệ sinh phụ nữ. Cả những món đồ trong xắc tay của nàng cũng được thử nghiệm: thỏi son, hộp phấn hồng, lông mi giả, lược, gương, kẹp tóc, nhíp, rũa móng tay, bông tai, vòng tay, đồng hồ tay, lớp vải may trong xắc…Marta mặc áo choàng trong giờ làm việc, thẩm sát viên hy vọng có chất phóng xạ trong áo. Nhưng chẳng có gì hết.

Có thể nào hung thủ đã thủ tiêu vật giết người rồi không? Câu hỏi thắc mắc này được nêu ra song ông giám đốc Pasticka đã trả lời ngay. Ông là chủ nhân gương mẫu, ông vốn ghét sự bừa bãi. Văn phòng nhà máy phải lưu giữ bản liệt kê các vật dụng. Căn cứ vào bản liệt kê, thẩm sát viên Durich kiểm điểm lại một lượt. Không vật dụng nào bị mất. Nạn nhân Marta cũng nói là không mất món đồ tùy thân nào cả.

Vậy Marta dính bụi phóng xạ chết người ở đâu?

Thẩm sát viên Durich rầu thối ruột. Trong nhiều năm ở công an, ông chưa hề thất bại. Những vụ khó nuốt bậc nhất ông vẫn giải quyết êm ru. Vụ Marta tưởng dễ mà khó, tuyệt khó.

Durich trở lại từ đầu. Ông trở lại những ngày đầu tiên Marta làm việc tại xưởng hóa phẩm. Ông duyệt lại con số bạn bè, tình nhân bu quanh nàng đông đặc như ruồi. Một lần nữa, ông lại phăng ra ra ánh sáng. Thôi, đúng rồi, những bức thư tình si mê của Hradvice. Y đã manh tâm rắc bụi radium lên giấy viết thư. Y đeo găng nên không nhiễm độc. Còn nàng…nàng dính đầu ngón tay vào giấy, nàng đưa lên miệng, lên mắt…May thay, Marta còn giữ lại bó thư tình của Hradvice. Mừng phát run, thẩm sát viên Durich mang đến phòng thí nghiệm riêng của công an bó thư tình, và ngồi chờ kết quả.

Té ra kết quả là con dê-rô to tướng.

Durich đã lầm. Giấy viết thư, bì thư thơm mùi nước hoa, với những giòng chữ nắn nót không có một li radium phóng xạ nào.

Hradvice và Czyba đã bị tống giam. Ngay đêm ấy Durich hầm hầm vào văn phòng, đọc lại hồ sơ đương sự. Họ phải nằm nhà đá là do công an ức hiếp họ. Thật ra chưa có chứng cớ nào đủ buộc tội họ. Công an đã thử nghiệm tay chân họ, quần áo họ. Công an đã hỏi cung liên tiếp nhiều ngày. Hỏi cung từ sáng tinh sương luôn một lèo đến tối, chỉ nghỉ 5, 10 phút ăn bánh mì khô, tợp ngụm nước lạnh. Rồi một lèo từ tối đến sáng. Họ không có phút nào chợp mắt chứ đừng nói là được ngủ nư mắt nữa. Miệng họ vẫn kêu oan. Mà sự thật là Hradvice và Czyba đều oan.

Hung thủ là người khác.

Một người không ai ngờ tới.

Durich đọc lại tập hồ sơ nên mới tìm ra. Lập tức ông sai nhân viên đến bắt. Ông khỏi mất thời giờ vì hung phạm đã thú tội. Durich chẳng nói nửa lời, chí quăng xấp giấy và cái bút lên mặt bàn. Hung phạm nhìn ông ra vẻ ngạc nhiên. Durich nhún vai:

-Viết đi. Ông đừng giả vờ ngạc nhiên nữa. Tôi đã biết hết. Ông viết tờ thú tội đi.

Sở dĩ thẩm sát viên phăng ra hung phạm là vì bản danh sách những kẻ tình nghi ghi hết nam nhân viên trong xí nghiệp hóa phẩm, trừ một người. Theo nguyên tắc căn bản của nghề điều tra, kẻ ít bị tình nghi nhất lại thường là kẻ có nhiều hy vọng làm hung phạm nhất.

Durich đã đặt sai vấn đề từ đầu: ông đinh ninh bụi phóng xạ giết người phát xuất từ xưởng máy. Thế tất vụ mưu sát tinh vi này phải xảy ra bên trong xưởng máy. Bởi vậy, ông chỉ điều tra tỉ mỉ bên trong xưởng máy mà lơ là nhà riêng của nạn nhân. Lần cuối, đọc lại toàn bộ hồ sơ, Durich mới thấy mình lầm. Ông tức tốc đến nhà Marta. Trong phòng ngủ của nàng, ông tìm thấy một cái máy chữ mới tinh, kiểu xách tay. Mặt chữ được quét chất bụi radium. Khi gõ máy, Marta nhiễm độc vào tay, rồi từ tay lên mắt và khắp cơ thể.

Cái máy chữ xinh xắn này là món quà của một người đàn ông thầm yêu trộm nhớ nàng, song chưa hề thổ lộ với nàng. Và chính nàng cũng không hay biết. Bản tính y rụt rè, nhút nhát, y không đủ can đảm nói hết sự thật giấu kín trong lòng. Vả lại, y đã lớn tuổi, y chẳng thua tuổi phụ thân nàng bao nhiêu. Y đoán thấy Marta không thể chấp nhận tình yêu của y. Phương chi y lại hói đầu, tóc rụng gần hết, và mập thù lu, chỉ riêng cái thùng nước lèo của y cũng đủ làm người đẹp buồn nôn…

Tệ hơn nữa, y mắc một chứng bệnh bất lợi. Giá y còn trẻ y cũng không dám tỏ tình với nàng. Vì trời đất ơi, đó là bệnh hôi miệng kinh niên. Y đánh răng, xúc miệng, ngậm kẹo thơm mà hơi thở vẫn nồng nặc. Y yêu nàng nhưng không làm sao nói được tâm sự với nàng nên nẩy ra ý định giết nàng. Nàng còn sống, nàng sẽ bị kẻ khác chiếm đoạt. Nàng chết đi, nàng mới có thể thuộc về y mãi mãi.

Bởi vậy y mới nghĩ kế khuyến khích nàng tập luyện nghề đánh máy chữ để làm thư ký văn phòng. Y lại tặng nàng cái máy chữ để dẫn nàng đến tai họa thê thảm…

Bạn đọc đã biết y là ai, hung phạm là ai?

Hung phạm là ông giám đốc xí nghiệp Pasticka, ân nhân của người đẹp xà hành và đào hoa diện.

Chú thích:

(1) ông Durich đã trốn khỏi Tiệp sau khi cộng sản cướp chính quyền, và ông qua Pháp tị nạn chính trị. Ông đã thuật lại thiên tình sử của Marta.