← Quay lại trang sách

Truyện thứ năm Ấn độ-Lời thề chết người-

Dưới thời ngoại thuộc, mỗi khi xét xử những vụ lường gạt, nhất là quỵt nợ, ông tòa thường cho phép hai bên, nguyên đơn và bị cáo đi…thề. Một hôm nào đó, hai bên kéo nhau đến một ngôi đền thiêng trong vùng, mang theo con gà còn sống, xì xụp khấn vái một hồi rồi dùng dao chặt đứt cổ gà, thề rằng « kẻ nào ăn gian nói dối sẽ bị chết như con gà này ». Nhiều người đã đi thề. Tuy không ai biết những lời nguyền do thần linh chứng giám trong quá khứ đã được nghiệm ứng đâu, và từ trước đến nay có bao nhiêu kẻ ăn gian nói dối đã chết.

Nước nhà thu hồi độc lập. Những bản án …đi thề không còn nữa, song tập quán thề nguyền vẫn chưa biến mất trong dân gian. bằng chứng là hàng ngày vẫn có những chàng trai vỗ ngực cam kết với người yêu măng tơ nhẹ dạ « nếu anh phụ em thì ra đường anh sẽ bị xe GMC 10 bánh cán chết », « anh nói láo thì sẽ chết hộc máu », vân vân và vân vân…

Mặc dầu phương tiện thông tin ngày nay được phát triển mạnh mẽ, ngay cả thôn xóm xa xôi hẻo lánh cũng có báo đọc, và ngay cả những tin vặt cũng được đăng tải, chúng ta chưa hề nghe tin ai bị xe 10 bánh cán chết vì…quất ngựa truy phong.

Nhưng ở Ấn độ lại có.

Một người đã chết vì lời thề độc.

Ấn độ vốn là một nước huyền bí.

Về vấn đề văn minh, tiện nghi vật chất, Ấn bị quốc tế bỏ xa hàng trăm dặm. Nhưng hãy coi chừng, về cái khoái bậc nhất của con người, cái khoái làm tình thì chưa chắc mèo nào cắn mỉu nào. Các dân tộc tây phương phát minh ra đủ phương pháp, đủ thứ thuốc, đủ dụng cụ mà vẫn bị kỹ thuật làm tình của trai gái Ấn qua mặt cái vù.

Về thần quyền cũng vậy. Ít có quốc gia nào trên trái đất có nhiều ông thần, bà thần được thờ bằng Ấn độ. Và ít có dân tộc nào đam mê những chuyện thiêng liêng bằng dân tộc chà và, cà ri, sét ty Ấn độ.

Vì thế, ở đất Việt nước mắm, rau muống, giá sống chưa có người chết vì lời thề nhưng ở Ấn độ lại có. Vâng, một người đã thiệt mạng hẳn hòi do lời thề độc.

Chuyện « lời thề chết người » này xảy ra tại Calcutta. Thành phố Calcutta tọa lạc ở miền đông Ấn độ, gần biên giới Diến Điện, và nhìn ra biển. Nó là một thị trấn kỹ nghệ lớn, theo tiêu chuẩn châu Âu, với những dinh thự đồ sộ, nguy nga, nằm dọc đại lộ rộng thênh thang và những hoa viên xanh rờn, tráng lệ.

Sự đẹp đẽ này chỉ là nước sơn phiến diện. Trong số gần 6 triệu dân thì quá nửa phải sống trong những khu ổ chuột đầy bệnh hoạn và chết chóc. Và khoảng một triệu vô gia cư đêm đêm ngủ ở vỉa hè, và dạ cầu. Khách đến Calcutta bằng đường hàng không, xuống trường bay Đum-Đum, hoặc đường bộ với ga xe lửa Howrah đều ngốt ngợp trước những đám đông người nhung nhúc như ròi bọ.

Nhà ga Howrah ở bên hữu ngạn sông Hooghly, có thể coi là một thành phố riêng biệt. Dân chúng ăn ngủ, nấu nướng tại đó giữa một rừng già trẻ lớn bé và xe cộ khác nhau như xe hơi, xe đạp, cam-nhông, xe kéo và xe xích-lô, chưa kể người đi bộ và …bò cái thần nghênh ngang đi hàng đàn giữa lộ. Vượt qua cây cầu sắt to lớn, thô lỗ gần như chướng mắt, người ta đặt chân lên đất-thánh.

Ba trăm năm trước, ở đây là đồng không mông quạnh, và chỉ có những túp lều tranh tường đất, họp thành 3 khu làng nhỏ. Đặc biệt là làng Kalikata, người Anh đọc trệch ra là Calcutta. Kalikata là nhà của Kali, nữ thần. Nơi này là đất-thánh. Nữ thần Kali từng ngự tại đó. Một ngôi đền trang trọng được xây cất trong vùng để thờ bà. Cách một quãng ngắn còn có một ngôi đền uy nghi khác dành cho nữ thần Kali.

Kali là vợ của thần Siva. Người Ấn coi Siva là thần tình yêu. Họ lấy bộ phận sinh dục đàn ông lingam làm linh vật tượng trưng cho Thần (xin đọc Hận vàng Ấn độ và Cát-sơ-mia, Sông máu Thuyền hoa để biết thêm).

Nữ thần Kali xuất hiện dưới nhiều thể, có khi bà mang khuôn mặt đoan trang của người vợ hiền, có khi thật kiều diễm và nhu mì, ngồi bên chồng, sẵn sàng ban phát hạnh phúc cho chúng sinh, có khi lại mặc nhung phục, tay cầm khí giới tàn bạo, tượng trưng cho chiến tranh chém giết. Tai hại nhất là khi bà hiện nguyên hình nữ thần Kali, thân hình đen đủi, cổ đeo cái vòng làm toàn bằng sọ người chết phơi khô trắng hếu, cái lưỡi đỏ hỏn, dài lòng thòng như trái núc nác luôn luôn thè lè ra ngoài miệng cá ngão thèm cắn ngoạm và hút máu. Người Ấn chất phác thường toát bồ hôi lạnh trước nữ ác thần Kali. Họ nịnh bợ, xin xỏ thần bằng cách cúng kiến ê hề. Họ đồn với nhau rằng Kali rất thiêng. Thần trù ếm ai là người ấy phải chết.

Dân làng Kalikata bên giòng sông Hooghly sợ oai thần từ nhiều thế kỷ. Khi chửi rủa, thề nguyền kẻ thù, họ mới cầu đến nữ thần Kali.

Chẳng hạn trong trường hợp Aru.

Aru chết vì lời thề.

*****

Ramdranath Bhakerfi Aru là dân Bà la môn trăm phần trăm. Từ 2.500 năm nay, Ấn độ sống dưới chế độ phân chia đẳng cấp. Có cả hàng trăm đẳng cấp khác nhau, mỗi đẳng cấp theo một nếp sinh hoạt riêng, ăn uống riêng, cưới gả riêng, học hành riêng, thậm chí làm tình cũng riêng nữa. Với những cải cách của thánh Gandhi (Cam-địa) và nền độc lập Ấn độ, bức tường đẳng cấp bất khả xâm phạm đã nghiêng đổ phần nào. Tuy nhiên, các đẳng cấp chính vẫn còn tồn tại. Đứng đầu là đẳng cấp bà la môn.

Nghĩa là Aru ở trong đẳng cấp quí tộc thượng lưu, từ đời này sang đời khác chỉ cưỡi đầu cưỡi cổ thiên hạ. Không những thuộc gia đình lá ngọc cành vàng, Aru còn là giòng giõi đại phú nữa. Nếu cha mẹ hắn sống thọ, hắn sẽ sung sướng nhất đời. Nhưng theo luật thừa trừ của tạo hóa, hắn bị bồ côi từ tấm bé. Bồ côi cả cha lẫn mẹ.

Cũng theo luật thừa trừ, Aru không được hưởng gia tài một mình. Cha hắn lấy nhiều vợ. Và hắn có một người anh em cùng cha khác mẹ tên là Jagadis. Sau khi cha mẹ hắn lìa đời, hắn được bà dì Santha Natyami Guri nuôi nấng cùng với Jagadis.

Jagadis lớn hơn Aru nhiều tuổi nên được đảm nhiệm việc quản thù các của chìm của nổi. Sự quản thủ này không được hợp pháp hóa trên giấy tờ, nhưng trong nhiều năm liền không có chuyện nào đáng tiếc xảy ra vì lẽ hai anh em rất hòa hợp. Aru vốn nhường nhịn, Jagadis lại không đến nỗi xấu tính. Hơn nữa Aru còn nhỏ, vấn đề tiêu xài phung phí hoặc phân chia tài sản chưa được đặt ra.

Cho dẫu Aru thành niên, hắn cũng không đòi phân chia tài sản. Hắn cũng không đòi kiểm soát sổ sách kế toán nữa là khác. Nguyên do rất dễ hiểu: Aru tối kị giấy tờ rườm rà, tối kị cộng trừ nhân chia. Hắn bét lớp về môn toán, hễ đọc tờ giấy nào có chữ số là hắn nhức đầu. Bản tính Aru thiên về văn chương triết học. Hắn có cảm tình khác thường với những luận thuyết thoát tục, coi khinh vật chất như là rác rưởi bẩn thỉu ở đời.

Tính tình khiêm cung và ngoan đạo của Aru đã chinh phục được sự mến yêu của bà dì. Bà dì không có con nên lề lối cư xử của bà luôn luôn cứng cỏi, hầu như nghiệt ngã. Bà ghét Jagadis bao nhiêu thì ngược lại, thương Aru bấy nhiêu.

Aru lại không mấy khỏe mạnh nên bà dì rất lo lắng. Aru như cái phong vũ biểu, hễ trái nắng trở trời là có chuyện. Và mỗi lần đứa cháu cưng rêm mình -sự này xảy ra gần như thường xuyên- là bà dì sợ cuống cuồng. Mặc dầu bà thuộc phái bảo cựu, bà lại tin tưởng đặc biệt vào y khoa tây phương. Bác sĩ Sindh là thày thuốc được bà tín nhiệm và khâm phục. Bác sĩ Sindh tốt nghiệp ở Anh quốc, là nhà khoa học thuần túy triệt để chống lại mê tín dị đoan. Bệnh nhân nói đến phép nhiệm màu của thần là ông nhăn mặt, nhún vai, chép miệng. Ông không phát biểu thành lời song cử chỉ của ông đã biểu lộ rõ ràng sự khinh miệt.

Thật ra Aru chỉ hay vang mình sốt mẩy chứ không đến nỗi ốm yếu như sên. Aru bị cảm cúm, tự mua thuốc và tự điều trị lấy cũng khỏi. Nhưng bà dì lại cứ sợ cháu chết yểu, chết vì bất cứ bệnh gì nên Aru vừa gây gấy sốt là bà hốt hoảng cho đi mời bác sĩ Sindh.

Không ai biết nhiều về bác sĩ Sindh. Chỉ biết ông có thân hình cao lớn, bộ điệu chững chạc và khoan thai của người thày thuốc đông khách.

Hôm ấy, Aru đi chơi về thì bị ớn lạnh. Như thường lệ, bà dì đóng chặt cửa phòng -để ngăn tà ma xâm nhập- và tức tốc sai gia nhân đến phòng mạch của bác sĩ Sindh. Bà dì là thân chủ khá rộng rãi nên bác sĩ Sindh đi ngay. Bà chờ ông ở cửa nhà, và ghé tai ông nói nhỏ:

-Nguy rồi, bác sĩ ơi!

Bác sĩ Sindh cười, nắm chặt bàn tay răn reo của bà, giọng an ủi:

-Chẳng sao cả đâu. Chắc cậu ấy cảm xoàng, tôi chỉ chích một vài mũi là bình phục.

Quả như bác sĩ Sindh tiên đoán, Aru chỉ bị cảm xoàng. Một ngày đi chơi dưới nắng chang chang, và gặp mưa đột ngột Aru nhiễm bệnh là điều không lạ lắm. Tiêm thuốc xong, bác sĩ Sindh xách túi đồ nghề ra phòng ngoài, nhưng bà dì đã chặn lại:

-Nó có đau nặng không, bác sĩ?

Sindh lắc đầu:

-Bà cứ tin tôi đi. Sáng mai là khỏi.

-Tôi vẫn sợ, ông ạ. Vì nó dại dột đến trước Cây Đa nói bậy.

-Cây đa nào?

-Cây đa đại trong vườn bách thảo, bên kia sông.

Nói đến cây kỳ thảo này, du khách mới ghé Calcutta lần đầu cũng biết chứ đừng nói là dân bản xứ chính tông nữa. Bên kia bờ sông Hooghly, khu vườn bách thảo choán một diện tích rộng bao la, lái xe hơi bên trong cũng đủ mệt ứ hơi.(1)

Trong vườn được trồng hơn 30.000 loại thảo mộc khác nhau. Tuy nhiên, du khách thường đến chiêm ngưỡng cây đa vĩ đại. Một số dân chúng mê tín cho biết cây đa lớn này là nơi tụ tập của thần linh, ai dại dột đến gần cây, thốt ra những lời sàm báng xúc phạm sẽ bị thần linh quật chết hộc máu.

Aru rất hiền, song hắn lại được ăn học đàng hoàng nên hắn không quá mê tín như bà dì của hắn. Hắn không dám xúc phạm thần linh song hắn không quá sợ cây đa đại như bà dì.

-Thưa bà, cậu Aru đã nói gì trước cây đa đại?

-Tôi không rõ. Nó đâu dám nhắc lại với tôi. Tôi cũng đâu dám nghe.

-Bà đã hỏi cậu Aru chưa?

-Chưa. Vả lại, như bác sĩ biết, tôi đâu dám hỏi.

-Nghĩa là bà chỉ đoán phỏng.

-Vâng. Vì tôi thấy mặt nó ngây ra, chắc bị thần nhập vào người…

-Thần nào?

-Khổ quá, bác sĩ đừng bắt tôi nhắc đến tên ngài. Ngài nổi giận, ngài bắt luôn cả tôi chứ chẳng chơi đâu.

-Bà sợ nữ thần Kali?

Bà dì Guri nín thinh không đáp. Cả đến tiếng Kali bà cũng không dám nhắc lại. Bác sĩ Sindh ngần ngừ một vài giây rồi nói:

-Nữ thần Kali linh thiêng ra sao, tôi không dám lạm bàn, nhưng riêng về phần tôi là chuyên viên y khoa thì cho dẫu nữ thần Kali thật sự linh thiêng và ám ảnh cậu Aru, tôi xin đảm bảo với bà là nội đêm nay cậu sẽ xuống mạch, bớt sốt, và khoảng chiều mai sẽ trở lại bình thường. Thôi, xin chào bà.

Aru xuống mạch, bớt sốt và trở lại bình thường trong vòng 24 tiếng đồng hồ như lời bác sĩ Sindh cam đoan. Tuy vậy, bà dì vẫn tin nữ thần Kali. Tin mãnh liệt hơn nữa là đằng khác. Bà dì cho rằng nữ thần buông tha nạn nhân do bà hết lời cầu xin, nên Aru bình phục. Bác sĩ Sindh là thày lang mát tay, nhưng nếu nữ thần không cho ăn lộc, nếu nữ thần cương quyết bắt Aru về cõi ta-bà thì tài lương y của ông cũng chỉ bằng thừa.

Bà dì Guri là người đàn bà lận đận nhất trong giòng họ Aru. Bà khổ sở vì thần linh đã đành, bà còn khổ sở vì người sống nữa. Bà nghĩ rằng loài người gồm nhiều xấu hơn tốt. Chung quanh bà, bà chỉ thấy rặt một phường ăn không nói có, đi nói dối cha về nói dối chú.

Bà nghi ngờ Jagadis là vì thế.

Mặc dầu Jagadis là cháu ruột của bà, cũng như Aru, bà lại ghét bỏ hắn. Bà liệt Jagadis vào đa số những kẻ xanh vỏ đỏ lòng, khẩu Phật tâm xà. Bà thường căn dặn Aru:

-Cháu nên coi chừng thằng đó.

Aru hơi ngạc nhiên:

-Thưa dì, dầu sao Jagadis cũng là anh của cháu. Không phải anh ruột, nhưng cùng cha khác mẹ thì cũng như anh ruột, phải không, thưa dì? Vả lại, anh ấy có lòng dạ nào đâu mà cháu phải để ý coi chừng.

Bà dì buông ra tiếng thở dài:

-Cháu còn trẻ người non dạ, cháu chưa có đủ kinh nghiệm để xét đoán thiên hạ. Sở dĩ dì khuyên cháu đề phòng thằng Jagadis vì gần đây dì thấy nó ăn tiêu vong mạng, nó lại trây lười, không chịu làm sổ sách 6 tháng một lần. Đằng này gần một năm nay nó vẫn chẳng nói gì cả. Cháu nên nghe dì. Vẫn biết cháu và nó đều cùng máu mủ, một cha mà ra, và dì là em gái của cha cháu, cha của thằng Jagadis, dì vẫn có linh cảm là sớm muộn nó sẽ lừa cháu…

Aru cười xòa với bà dì đa nghi:

-Dì ơi, dì đã luống tuổi, dì bận tâm về những chuyện vụn vặt ấy làm gì cho mệt óc. Dì nên thuốc thang tẩm bổ đi. Cháu không tin anh Jagadis có thể tồi tệ đến thế. Có thể anh ấy chơi bời nên cần tiền, và đôi khi thâm lạm sang phần cháu. Nhưng thưa dì, anh em giúp nhau là thường. Anh ấy mượn tạm của cháu rồi anh ấy sẽ hoàn trả. Hiện giờ cháu chưa cần tiền mà…thưa dì.

Bà dì lấy khăn lau nước mắt, không nói thêm nữa. Bà biết Aru rất thương anh, trừ phi có bằng chứng cụ thể về âm mưu chiếm đoạt gia tài, bà khó hy vọng thuyết phục Aru. Tìm ra bằng chứng đầy đủ không phải dễ. Jagadis ăn vụng chùi mép rất giỏi.

Không hiểu sao bà lại lo sợ. Bà có linh tính một biến cố nghiêm trọng sắp xảy đến cho Aru.

Biến cố này xuất hiện dưới hình thức một bức thư của ông giám đốc ngân hàng nơi Jagadis gửi tiền. Tiếp sau là một nhân viên ngân hàng đích thân đến gặp Aru. Nhân viên này cho biết một số giấy tờ cạo sửa hoặc giả mạo với trách nhiệm của Jagadis. Kết quả là Aru bị mất khá bộn tiền.

Aru tiễn nhân viên ngân hàng ra khỏi nhà rồi trở vào phòng riêng, ngồi thẫn thờ giờ lâu. Sự lươn lẹo của người anh cùng cha khác mẹ mà hắn quý yêu hơn cả anh ruột đã giáng xuống, ác liệt và kinh hoàng như tiếng sét. Bà dì đã cảnh cáo nhiều lần, hắn vẫn khăng khăng một mực bênh vực cho Jagadis. Hắn vẫn một mực tin tưởng ở tấm lòng trong sạch của Jagadis. Té ra, Jagadis chỉ là đứa lưu manh, gian ngoan hạng nhất.

Tối hôm ấy, Aru chờ Jagadis xuống dùng cơm để hỏi cho ra lẽ. Nhưng Jagadis vắng mặt. Jagadis bỏ cơm vì nhuốm sốt. Bác sĩ Sindh đã đến nơi chẩn mạch.

Aru vào phòng trong lúc Jagadis nằm ngửa trên giường, miệng ngậm ống thủy. Aru cố giữ bình tĩnh, bản tâm hắn là chờ Jagadis lấy nhiệt độ xong, bác sĩ Sindh ra về, mới yêu cầu Jagadis giải thích. Nhưng Aru không dằn được lòng. Thấy vẻ mặt nhởn nhơ của Jagadis, hắn nổi giận, chìa bức thư nhà băng, và hỏi lớn:

-Anh nghĩ sao về vụ này?

Jagadis quay nghiêng, giật tờ giấy đánh máy trong tay Aru, liếc qua rồi cười khẩy:

-Chẳng nghĩ sao cả.

Thái độ phớt lờ pha lẫn thách đố của Jagadis làm Aru thêm nộ khí xung thiên. Hắn dằn từng tiếng:

-Nghĩa là anh thú nhận đã thâm lạm tiền riêng của tôi?

Jagadis rút ống nhiệt ra khỏi miệng, ném xuống nệm:

-Có gì đâu mà tôi phải thú nhận. Cha mất đi để lại tài sản cho tôi quản trị. Tôi có quyền vì tôi là anh.

-Anh lầm. Anh không có toàn quyền. Ngay cả quyền làm anh hợp pháp, anh cũng không có. Anh đừng quên chúng ta chỉ có liên hệ với nhau trên phương diện tình cảm.

-Hiểu rồi, hiểu rồi, mày khỏi cần lên giọng thày đời, tao cũng hiểu hết. Mày là con có khai sinh đàng hoàng. Mẹ mày được lập hôn thú. Còn mẹ tao thì không, tao là con ngoại hôn mà. Nhưng dầu sao chăng nữa, tao cũng vẫn là anh mày.

-Tôi chưa hề phủ nhận điều đó. Tôi chưa hề phủ nhận mối tình ruột thịt giữa anh và tôi. Nhưng anh cũng không nên phủ nhận lòng tốt của tôi. Trong chúc thư, ba không trao quyền quản trị tài sản cho anh. Chẳng qua tôi yêu kính anh, tin cậy anh…

-Phải, ba thương mày lắm mà.

-Tôi lầm.

-Mày thấy lầm thì đã muộn.

-Chưa muộn đâu, anh Jagadis. Tôi không muốn tình anh em bị cắt đứt vì chuyện tiền bạc. Tôi sẵn sàng nhắm mắt bỏ qua hành động lươn lẹo phạm pháp của anh. Nhưng anh phải hoàn trả số tiền cưỡng đoạt. Tôi đặt một kỳ hạn dứt khoát cho anh.

-Mày đừng dọa tao.

-Bản tính tôi hiền hòa, nhưng một khi tôi đã định đoạt việc gì thì không sức mạnh nào khả dĩ lay chuyển được tôi. Yêu cầu anh nghe rõ, trong trường hợp anh không thanh toán đúng hẹn, tôi sẽ đưa nội vụ ra tòa, và chắc chắn anh sẽ ngồi tù…

-A a…mày dám tính chuyện bỏ tù tao. Té ra mày không còn tình nghĩa anh em gì với tao nữa.

-Tự anh dứt trước.

-Đồ em vô phúc…Tao sẽ xin thần Kali trị tội mày. Mày biết oai thần chưa? Nhưng thong thả, tao chưa rủa mày vội, để bà dì vào trong này rồi tao thề cũng chưa muộn. Bà già gàn dở này cũng khoái mày lắm. Bà già rất sợ mày ngủm cu tỉ. Hồi tao còn nhỏ, bà dì dẫn tao đến đền thờ nữ thần Kali, dặn tao tuyệt đối cung kính kẻo nữ thần nổi giận. Và tao đã nghe lời bà dì răm rắp. Thần thương tao vì tao sùng bái ngài, tao luôn luôn cúng kiến ngài, tao không sàm báng lếu láo như mày. Tao cầu nguyện gì là ngài ban cho nấy.

Đang nằm trên giường, Jagadis nhảy vọt xuống đất. Bà dì chạy tới, mặt tái mét vì sợ. Bà vội năn nỉ Jagadis:

-Con chớ làm thế, con ơi…Lẽ nào con lại thề nguyền cho em con chết.

Jagadis trợn mắt, giọng lạnh lùng:

-Bà dì ơi, bà đừng lý luận vớ vẩn nữa. Thằng Aru khốn khiếp không phải là em tôi. Bà già rồi, song bà chưa lãng tai, bà hãy nghe lời tôi thề và xem ứng nghiệm đến đâu. Bà sẽ thấy số mạng của thằng cháu cưng của bà, thằng con cưng của cha tôi…Ha ha…

Bà dì mếu máo:

-Dì xin cháu, dì lạy cháu. Nếu cháu muốn rủa, cháu hãy rủa dì, dì xin chết thay cho thằng Aru. Nó thương cháu lắm, lòng nó trong sáng như mặt nguyệt. Chỉ có dì mới đen tối. Chính dì đã xúi nó ngờ vực cháu, chính dì đã tố cáo với nó về vụ cháu thâm lạm…Cháu Jagadis ơi…

Jagadis gắt:

-Im đi, bà già hủ lậu.

Aru lời tiếng:

-Anh không được hỗn với dì.

Nhưng Jagadis không thèm quan tâm đến lời cảnh cáo của người em cùng cha khác mẹ. Jagadis vung tay chỉ Aru và thề độc:

-Aru, tao và mày không còn tình nghĩa gì nữa kể từ giờ phút này. Mày trở thành kẻ thù bất cộng đái thiên của tao. Tao là đệ tử của thàn Kali oai trấn vũ trụ. Ngài sẽ chấp nhận lời cầu xin chính đáng của tao, trừng phạt mày. Aru, mày có cái lưỡi đỏ hồng, nhỏ nhắn, trơn tru, ngọt ngào. Thần Kali sẽ phạt cho cái lưỡi của mày nổi mụt đen sì khiến miệng mày lở loét và hôi thối. Aru, mày vốn yêu ánh sáng, ghét bóng tối. Thần Kali sẽ hóa phép cho mày sợ sệt ánh sáng, và mày sẽ chìm đắm mãn kiếp trong bóng tối kinh hoàng. Mày không còn khôi ngô, cường tráng như xưa nữa. Da dẻ mày sẽ sần sùi, ghẻ cùi, máu mủ chảy đầy, thân thể mày sẽ bẩn thỉu gớm ghiếc tới độ không ai dám đến gần mày nữa. Mày sẽ nhức đầu như búa bổ, mày sẽ có cảm giác hàng chục mũi dao nhọn đang đâm xuyên óc mày. Aru…Aru…mày sẽ ngã gục, rên rỉ trong đau đớn, cơn hấp hối của mày sẽ kéo dài, kéo dài một vài ngày rồi mày tắt thở, mày chết…Aru, mày sẽ chết…

Bọt trắng sùi đầy mép, Jagadis lắc lư như người say sóng. Hắn rủa một hồi, đoạn thở dốc ra vẻ mệt mỏi. Hắn nằm quay xuống giường, kéo mền che kín mặt, tay chân run rẩy trong cơn giận dữ.

Aru bàng hoàng giây lâu. Hắn không ngờ Jagadis có thể táng tận lương tâm đến thế. Hắn đứng yên nghe Jagadis nguyền rủa, không nói nửa lời. Khi Jagadis thề xong, Aru lặng lẽ bước ra ngoài.

Thì ngay khi ấy bà dì luống tuổi té xỉu…

Bác sĩ Sindh xoa nắn, rồi chích thuốc cho bà tỉnh dậy. Ông bồng bà về phòng riêng, dùng lời lẽ nhẹ nhàng khuyên nhủ. Bà dì ngó bác sĩ Sindh với cặp mắt đầy lệ.

Bác sĩ Sindh nói:

-Bà đừng sợ. Tôi chưa thấy ai chết vì lời nguyền rủa cả. Đó chỉ là chuyện trẻ con. Chẳng qua Jagadis nóng nẩy, muốn nói cho sướng miệng. Lát nữa, chắc chắn anh ta sẽ hối hận.

Bà dì đáp:

-Dầu nó hối hận, nó cũng không vớt vát được nữa. Thần Kali rất linh thiêng. Tôi sợ lắm, ông ơi…Thằng cháu vô tội của tôi chết mất.

Bác sĩ cáo từ:

-Bà yên tâm, tôi sẽ gặp anh Aru ngay bây giờ. Tôi sẽ tiêm cho anh một phát thuốc an thần. Thế là đủ. Mọi người ngủ được đêm nay an giấc là sáng mai tất cả sẽ được dàn xếp ổn thỏa. Chào bà.

Bác sĩ Sindh gõ cửa phòng Aru. Không có tiếng trả lời. Aru nằm yên, quay mặt vào tường. Bác sĩ Sindh hắng giọng. Aru không đáp. Biết là Aru còn bực bội và lo sợ, bác sĩ Sindh bèn sửa soạn đồ chích. Aru không có phản ứng gì khác ngoài việc vén áo cho bác sĩ tiêm thuốc. Bác sĩ Sindh chào hắn, hắn không buồn cất tiếng, trái với ngày thường hắn là người lịch sự, không hề làm phật lòng ai, nhất là bác sĩ Sindh lại được coi như người thân trong gia đình.

Lại một ngày trôi qua…

Đối với bác sĩ đắt khách Sindh thì ngày nào cũng như ngày nào, ông bận tíu tít từ sáng đến tối với con bệnh. Người Ấn thường chữa bệnh bằng cúng kiến, bằng rễ lá do bọn thày pháp và lang vườn cung cấp, chỉ khi nào không khỏi –mà thường là không khỏi- họ mới tìm đến tây y, và khi ấy phần nhiều là bệnh đã trầm trọng đến độ bất khả trị. Thành thử ra ngày làm việc của bác sĩ Sindh nặng nề gấp chục lần ngày làm việc của các nghề nghiệp khác. Về đến nhà, ông mệt nhoài, ăn cơm xong là lên giường ngủ.

Tối hôm ấy, ông quên bẵng những chuyện xảy ra trong gia đình Aru và bà già dị đoan. Nhưng ông vừa tắt đèn thì bị dựng dậy, bà dì của Aru sai gia nhân đến gọi, yêu cầu ông đi gấp.

Bác sĩ tất tưởi đến nơi. Bà dì của Aru đợi ông ngay ngoài cửa. Tóc tai bà rã rượi, mắt bà sưng húp và có quầng thâm chúng tỏ bà mất ngủ, và thần kinh bấn loạn.

Giọng nói của bà ướt nhèm nước mắt:

-Bác sĩ ơi, lời thề của nó bắt đầu linh ứng. Thằng Aru chết mất…hu hu…hu…

Bà dì òa khóc. Bác sĩ Sindh ái ngại, đứng hồi lâu trên ngưỡng cửa. Ông lực lời vỗ về:

-Chẳng sao cả đâu, thưa bà. Tôi chỉ cho uống một liều thuốc là khỏi đứt nọc.

Bà dì khóc to hơn:

-Thằng Aru sẽ chết. Bác sĩ coi nó thì biết.

Bác sĩ Sindh nhìn chung quanh:

-Jagadis có nhà không?

-Không.

-Anh ta đi đâu?

-Tối qua, bác sĩ vừa ra khỏi thì nó cũng hầm hầm ra theo. Tôi cũng chẳng buồn giữ nó lại. Nó lỡ nguyền rủa em nó, nó có mặt ở nhà càng nguy hơn nữa.

-Thưa bà, Jagadis chỉ nói xuông thì Aru làm sao chết được?

-Rồi bác sĩ thấy.

-Vậy bà còn mời tôi đến làm gì?

-Tôi cũng không hiểu. Hiện thời tôi như người điên, bác sĩ tha thứ cho tôi.

-Không dám. Bà để tôi khám bệnh Aru xem sao rồi tính.

Phòng bệnh tối om như hũ nút. Aru vốn ưa ánh sáng, ban đêm hắn thắp đèn sáng choang, đi ngủ hắn cũng chong đèn, chắc căn bệnh phải đau đớn lắm hắn mới chịu nằm mọp trong tối. Bác sĩ Sindh đằng hắng một tiếng nho nhỏ rồi bật đèn, ánh sáng nê-ông xanh dịu chiếu xuống chiếc giường sộc sệch. Aru đang nằm ngửa bỗng lấy bàn tay che mắt. Miệng hắn rên rỉ một cách thảm hại:

-Bác sĩ Sindh ơi, tắt đèn đi, tôi chịu không nổi.

Bác sĩ Sindh lại bên giường, giọng hiền từ:

-Khám bệnh xong tôi sẽ tắt đèn cho anh ngủ.

-Không, không, phải tắt đèn ngay bây giờ.

-Tối quá, tôi không cặp thủy và chẩn bệnh được.

-Nhưng ánh đèn làm tôi nhức nhối kinh khủng.

Bác sĩ Sindh lấy miếng vải nhung đen đặt ngang mắt bệnh nhân. Aru không tiếp tục than vãn nữa. Bác sĩ Sindh đo nhiệt độ hắn. Ông hơi ngạc nhiên vì trán Aru chỉ hâm hấp nóng mà ống thủy lên tới hơn 40 độ bách phân. Tưởng ống thủy bị hư, ông lắc đi lắc lại nhiều lần đoạn bỏ vào miệng Aru, kiểm điểm nhiệt độ lần nữa. Và lần này vẫn là 40 độ. Quả là bệnh nhân sốt nặng. Nếu cơn sốt không giảm, hắn sẽ mê sảng nội trong đêm. Ông hỏi Aru:

-Anh nặng đầu lắm, phải không?

Aru thều thào:

-Như thể hàng chục mũi dao nhọn đang đâm xuyên óc.

Bác sĩ Sindh giật mình. Aru vừa nhắc lại câu trong lời nguyền độc địa của người anh cùng cha khác mẹ Jagadis. Ông cúi xuống xem xét diện mạo bệnh nhân. Những cái mụt nhỏ màu đỏ gớm ghiếc mọc đầy hai bên mép bệnh nhân, một thứ nước vàng bẩn thỉu, hôi tanh đang ri rỉ chảy ra. Lưỡi bệnh nhân trở nên dầy cộm, và cong veo, bên trên phủ một lớp da đen với hàng trăm nốt ruồi sù sì…

Jagadis từng nguyền rủa như vậy. Jagadis rủa như thế nào thì Aru mắc triệu chứng thế ấy. Đứng bên, bà dì run như rẽ:

-Bác sĩ thấy chưa? Mắt nó sợ ánh sáng, mép miệng nó lở lói, hôi thối, lưỡi nó mọc mụt kinh tởm, đầu nó nhức nhối như bị dao đâm. Đúng như lời thề độc ác của thằng vô lại Jagadis…Tội nghiệp con quá, Aru ơi!

Bà dì tru tréo ầm ỹ khiến bác sĩ Sindh phải gắt:

-Bà có yên lặng tôi mới có thể làm việc được. Nào, mời bà ngồi xuống ghế.

Thiếu phụ nín thin thít. Bác sĩ Sindh cởi áo bệnh nhân ra khám. Những mụn đen đỏ mọc đầy. Làn da trước kia mịn màng của Aru đã trở nên sù sì, thô tháp không khác da cóc. Bác sĩ Sindh từ tốn đâm vào mạch máu ở khuỷu tay bệnh nhân, rút máu vào xơ-ranh, nút bông và dán keo lại cẩn thận. Sau đó ông nói với bà dì:

-Tôi phải thử máu mới biết được bệnh. Tôi nhờ họ làm liền, chắc chỉ gần sáng là có kết quả.

Bà dì lại khóc nức nở:

-Ông ơi, ông chẳng tìm thấy gì đâu. Nữ thần Kali trừng phạt ai là kẻ ấy phải mất mạng.

Bác sĩ Sindh tắt đèn, rón rén ra xe.

Như ông đã hứa, đến rạng đông ông trở lại. Bà dì vẫn gục đầu bên giường bệnh. Aru nằm im như thây ma. Thỉnh thoảng hắn mới rên được một tiếng ngắn.

Bác sĩ Sindh kéo thiếu phụ ra ngoài, giọng nói của vị thày thuốc có vẻ nghiệm trọng:

-Tôi đã cho thử nghiệm hết. Nhưng chẳng thấy gì cả. Căn cứ theo kết quả của phòng thử nghiệm, máu của Aru hoàn toàn bình thường.

Bà dì chấm nước mắt:

-Ông đừng tìm nữa, vô ích. Đây là vấn đề thần bí, khoa học không thể giải quyết.

Bác sĩ Sindh lật tấm mền đắp người bệnh ra. Nước da Aru đã sám nghoẹt, lấm tấm mụt trắng đỏ, ri rỉ nước vàng hôi nồng nặc. Bác sĩ Sindh lúi húi cạo mụt vào hứng nước mủ vào miếng kiếng nhỏ trên phết sẵn một hóa chất đặc biệt. Bà dì của Aru xua tay:

-Tôi đã bảo mà bác sĩ không chịu nghe.

Bác sĩ Sindh ngẩng đầu:

-Xin phép bà cho thử nghiệm lần nữa. Tôi sẽ thử nghiệm máu và mủ luôn thể. Và chỉ lần nữa thôi. Tôi tin tưởng là tìm ra vi khuẩn gây bệnh.

Mệt mỏi, bà dì ngồi bệt xuống nền gạch. Bà khóc suốt đêm nên đôi mắt khô cạn, giọng nói của bà khản đặc. Phòng khách lố nhố người. Đó là bà con láng giềng. Tuy trời chưa sáng, họ đã kéo tới đông nghìn nghịt. Chứng bệnh của Aru là một tai nạn lạ lùng chưa hề xảy ra trong vùng. Bà dì của Aru khóc ti tỉ một hồi rồi ngất xỉu. Hàng xóm đổ xô lại, vực bà lên ghế đi văng, kêu réo và giựt tóc mai cho bà tỉnh lại. Từ hồi hôm đến khi ấy bà đã bất tỉnh mấy lần như vậy.

Bác sĩ Sindh cặm cụi khám xét. Ông dùng đèn bấm nhỏ cực mạnh soi vào lỗ tai, cuống họng và hậu môn bệnh nhân. Ông còn dùng kiến hiển vi để quan sát mụt trên thân thể. Sau hết, ông đích thân đổ máu và mủ vào nhiều ống nghiệm để thử.

Ông lắc đầu tỏ vẻ chán nản. Một người hỏi:

-Bác sĩ tìm thấy gì chưa?

Bác sĩ Sindh đáp ngắn:

-Không.

Nằm trên giường bệnh nhân bắt đầu nấc cụt. Aru không còn đủ sức ngồi dậy nữa. Hắn không muốn ăn đã đành, ngay cả uống hắn cũng không đòi. Hắn nhắm nghiền mắt, tứ chi hoàn toàn bất động, môi mấp máy những tiếng nhỏ, quá nhỏ không ai nghe được.

Và cứ thế cơn hấp hối kéo dài trong hai ngày. Hai ngày đau đớn tột độ, trước khi trút hơi thở cuối cùng.

Aru chết.

Chết vì phép lạ của nữ thần Kali.

Theo bà dì của Aru và toàn thể xóm giềng có mặt trong ngôi nhà bất hạnh ấy, bệnh nhân đã chết vì lời nguyền rủa, chết vì nữ thần Kali trừng phạt.

Cho đến phút chót, phải bó tay nhìn tử thần đến cướp sinh mạng Aru mang đi, bác sĩ Sindh vẫn không tin vào pháp thuật màu nhiệm của nữ thần ác ôn. Có thể trong lòng ông tin hoặc có ý nghi ngờ, nhưng ngoài miệng ông không thú nhận vì lẽ ông là thày thuốc giỏi, từng tốt nghiệp rạng rỡ ở tây phương, không những giỏi về khoa chữa bệnh, ông còn giỏi cả về vi trùng học nữa. Khi hồi hương, ông tự đặt cho nhiệm vụ khai hóa đồng bào.

Bởi vậy trong giấy khai tử Aru, ông không ghi tại sao Aru thiệt mạng.

Ấn độ là xứ của mê tín dị đoan, nhưng con số những người vững tin vào khoa học cũng không phải ít. Bà dì của Aru, bà con lối xóm và Jagadis cho rằng nữ thần Kali đã giết Aru. Gia đình nạn nhân chỉ biết cúi đầu phục tòng số mạng. Nếu số đã tận thì chạy lên trời cũng chết. Và nếu thần Kali đã trừng phạt thì không phép lạ nào cứu thoát. Aru chết vì vắn số. Thằng anh cùng cha khác mẹ ác ôn đã xin Thần giết chết Aru.

Bà dì của Aru lo việc tẩm liệm và hỏa thiêu thi thể người chết. Hồi sinh tiền, Aru quen rộng, tính tình lại dễ thương nên khi nằm xuống bạn bè phúng điếu đông đảo, và ai nghe chuyện cũng thương tiếc.

Duy có một người thắc mắc muốn tìm hiểu sâu xa hơn nữa. Người này là giáo sư triết học tại trường đại học trong vùng. Aru từng là sinh viên của ông. Aru lại được ông yêu thương.

Ông không nghi rằng Aru chết vì lời thề. Do đó, ông đã yêu cầu tang gia hoãn lễ hỏa táng, đồng thời ông trình bày những điều ông ngờ vực với sở cảnh sát.

Kết quả là tử thi được giải phẫu để khám nghiệm. Và kết quả kế tiếp là Jagadis bị bắt giữ, rồi bị đưa ra tòa xét xử về tội chủ mưu hạ sát Aru. Hạ sát ở đây có nghĩa là hạ sát với bằng chứng hẳn hòi, chứ không phải chỉ là nguyền rủa xuông.

Sự thề độc của Jagadis chỉ là tấn kịch. Hắn biết bà dì và hàng xóm kinh sợ thần Kali nên mượn oai thần –mà vị tất thần Kali thiêng thật- để giết Aru. Jagadis muốn loại trừ Aru từ lâu song chưa có dịp. Hắn trần trừ phần nào cũng vì thấy Aru quá hiền lành, không quan tâm đến tiền nong, khiến hắn được tự do đánh cắp. Nhưng đến khi thủ đoạn lươn lẹo của hắn bị ngân hàng phanh phui, và Aru nổi nóng dọa bỏ tù hắn, hắn không thể trần trừ thêm nữa.

Phương chi hắn lại được một đồng lõa khôn ngoan và tài giỏi giúp sức.

Thật vậy, nếu không có đồng lõa khôn ngoan và tài giỏi thì chưa chắc Jagadis dám thi hành độc kế.

Kể tên đồng lõa của Jagadis nhiều người bật ngửa vì kinh ngạc, vì đồng lõa này là Sindh, bác sĩ Sindh. Kiếm được đồng lõa khôn ngoan và tài giỏi như tiến sĩ y khoa Sindh đâu phải dễ…

Bác sĩ Sindh hạ sát Aru một cách rất khoa học và giản dị. Hôm ấy, sau khi Jagadis nguyền rủa, bà dì ngất xỉu, Aru cũng sắp sửa ngất xỉu, bác sĩ Sindh bèn mượn cớ chích thuốc an thần để chích luôn vi trùng bệnh dịch hạch vào máu nạn nhân.

Đây là loại vi trùng đặc biệt, tác động nhanh như điện, đủ sức giết nạn nhân trong vòng 48 giờ đồng hồ.

Chú thích:

(1) vườn bách thảo này mở cửa từ năm 1786. Cây đa trong đó cao 27 mét, vòng tròn của cành lá đo được 360 mét.