← Quay lại trang sách

Truyện thứ bốn Nhật-Một vụ cướp nhà băng-

Cướp nhà băng không phải là chuyện hãn hữu. Cách đây mấy chục năm, hệ thống bảo vệ ngân hàng bằng điện tử chưa được thiết lập hữu hiệu, nên các nhà băng bị đánh cướp như cơm bữa. Các vụ đánh cướp này đều diễn ra theo một thể thức nhất định: một toán người võ trang có tổ chức, nghiên cứu tỉ mỉ từ trước, kế hoạch được thực hiện đúng từng phút, từng giây, lối rút lui cũng như cách tiêu thụ giấy bạc được bố trí hết sức chu đáo.

Rất ít tên cướp dám ăn hàng một mình, không có đồng lõa. Trừ phi để đi tìm cái chết. Hoặc giả phải là kẻ giết người không gớm tay như Brian Donald Hume, kẻ từng chặt nạn nhân thành nhiều khúc, gói lại đàng hoàng rồi lái máy bay nhẹ lần lượt thả xuống sông.

Đang sống ở Thụy Sĩ, Hume đội tên giả, lén về Luân đôn, đột nhập một ngân hàng ở ngoại ô thành phố. Một mình một súng, hắn chờ cửa sắp đóng, nghênh ngang bước vào, bắn ngã nhân viên đếm tiền, lượm khoảng 1.500 Anh kim bỏ vào túi, bình thản thoát ra ngoài, kêu taxi lên phi trường, trở lại Thụy Sĩ.

Ba tháng sau, ăn quen bén mùi, Hume từ Thụy Sĩ quay về Luân đôn lần nữa, và lần này hắn thủ hai khẩu súng, toan tái diễn tấn trò đánh cướp đơn thương độc mã tại nhà băng cũ. Nhưng nhà băng rút kinh nghiệm và đề phòng cẩn mật. Hume chưa kịp hành động thì các nhân viên nhà băng đã hành động trước. Nhờ hồng vận, Hume thoát khỏi màng lưới cảnh sát, vù qua Thụy Sĩ. Để rồi lần thứ ba, ngày 30-01-1959, Hume đánh cướp một ngân hàng trong vùng và bị bắt, ra tòa lãnh án chung thân cấm cố.

Hume đánh cướp nhà băng vì hồi nhỏ hắn đã sống trong cảnh lưu manh, du đãng. Hắn là con ngoại hôn, lọt lòng mẹ ra không biết cha hắn là ai, sau này hắn cũng không biết mẹ vì mẹ hắn đã vứt hắn vào viện mồ côi. Cho đến khi trưởng thành, Hume là thân chủ quen mặt của các tòa án thiếu nhi và nhà trừng giới.

Bởi vậy, Hume trở thành tên cướp nhà băng chỉ là việc tất nhiên. Cái « ca » của tên cướp Shimura lại khác hẳn. Hắn cũng hành động một mình, nhưng không mang súng. Không mang súng mà giết gọn 16 nhân viên ngân hàng và làm 4 người suýt mất mạng. Không mang súng mà vụ cướp thành công hoàn toàn. Hắn cũng không mang giòng máu mồ côi và du đãng trong huyết quản.

Shimura chỉ đánh cướp một lần. Mỗi một lần. Tuy vậy, vụ cướp ngân hàng do hắn chủ mưu đã được coi là vụ cướp ngân hàng quan trọng nhất ở Nhật bản trong những năm kế tiếp đại chiến thứ hai.

Shimura là con nhà trâm anh thế phiệt. Thân phụ hắn giữ một chức khá trong guồng máy hành chánh ở gần thủ đô Đông Kinh. Thân mẫu hắn là con gái cưng của một y sĩ có tiếng tăm. Tóm lại, hắn hội đủ điều kiện để trở thành phần tử ăn trên ngồi trước trong xã hội Nhật. Ngày nay, nước Nhật tiến vượt bực trên đường phát triển khoa học mà đa số dân chúng còn tha thiết với nề nếp cổ truyền, phương chi hồi hắn chào đời, thế chiến thứ nhất chưa xảy ra.

Cha nào con nấy, hắn được nhập học trường đại học Hoàng gia, tốt nghiệp khoa văn chương và hội họa. Trước khi ăn mừng sinh nhật 30 tuổi, hắn đã nhiều người nghe danh nhờ một bản luận án khá sâu sắc và phong phú về những nguồn gốc thần bí của Nhật ngữ. Hắn đưa ra một kết luận táo bạo: tiếng Nhật có nhiều liên hệ mật thiết với tiếng Phần Lan, và một số thổ ngữ khác ở châu Âu. Không những lỗi lạc về biên khảo, hắn còn gây được uy tín trên lãnh vực hội họa nữa. Những họa phẩm của hắn đã được triển lãm nhiều lần tại một phòng tranh hạng nhất ở Đông Kinh.

Chưa thế, hắn còn là thi sĩ có hạng.

Nhiều người đều đồng ý cho hắn là thiên tài. Thiên tài Shimura mỗi ngày một rực sáng trên vòm trời Phù Tang nhờ chịu học hỏi, trau giồi.

Vợ hắn cũng là kim chi ngọc điệp. Nàng xuất thân từ một gia đình quyền quý có đủ công dung ngôn hạnh. Mỗi khi ra đường với chồng, nàng luôn luôn đi sau chồng ba bước, đúng theo phong tục. Cặp vợ chồng ăn ở rất hòa thuận, và sinh được 6 đứa con xinh xắn và ngoan ngoãn.

Với những điều kiện về gia thế và học vấn ấy, Shimura xứng đáng được gọi là ông. Sở dĩ ta gọi Shimura bằng hắn là do hoàn cảnh biến ông ra thằng.

Đột nhiên hắn thay đổi toàn diện.

Một đêm kia, hắn mở cửa vào vườn nhỏ trồng hoa trước căn nhà tiện nghi của gia đình hắn thì gặp nạn. Trời quá tối, hắn không nhìn thấy con chó lạ nằm trốn trong góc. Con chó chồm dậy và ngoạm rách quần hắn. Hắn thộp cổ con chó. Người và con vật vật lộn nhau một hồi. Mọi người đổ xô ra và sau cùng giết chết con chó.

Đó là con chó dại. Không biết nó từ đâu đến. Shimura bèn đến một phòng mạch quen chích ngừa dại. Người thày thuốc này làm việc thiếu lương tâm, không rõ ông ta tiêm quá liều lượng, hay tiêm thuốc bị hư hỏng, hay tiêm lầm thuốc khác mà một thời gian sau Shimura mắc phải một chứng bệnh lạ kỳ: thần kinh hệ bị đảo lộn. Hắn không bị điên. Nhưng hắn không còn là Shimura xuất sắc, đức độ như xưa nữa.

Trước đây Shimura là ông. Giờ đây là thằng.

Thoạt tiên hắn mất khả năng thiên phú về văn chương, thi phú và hội họa. Cả buổi hắn không nặn ra được một bài thơ ngắn. Hắn cầm bút viết, ngón tay run run. Hắn vẽ nguệch ngoạc như con nít. Rốt cuộc hắn bỏ viết văn khảo luận, bỏ làm thơ tình cảm, bỏ vẽ tranh thủy mạc…Từ sáng đến tối hắn ngồi đờ đẫn như người mất hồn.

Quả hắn mất hồn thật! Người chồng gương mẫu ngày xưa đã nhường chỗ cho tên lưu manh, ở nhà hắn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ con. Đối với bằng hữu, mỗi ngày hắn một lánh xa. Không như trước kia hắn đi làm về có giờ giấc, và thỉnh thoảng mới vắng nhà ban đêm. Giờ hắn bất chấp, bất cần tất cả.

Hắn lén lút lui tới những chốn ăn chơi, rồi bao hai cô gái, thuê phòng cho ở thuộc vùng ngoại ô. Những liên hệ xác thịt mới này vẫn chưa thỏa mãn được cơn đói ái tình kinh khủng của hắn. Hắn phải ghé xóm thanh lâu hầu như hàng ngày.

Suốt đêm hắn chìm đắm trong cảnh hoan lạc, gần sáng mới khật khưỡng về nhà. Và khi ấy hắn đã say bí tỉ. Hắn nằm vật xuống nệm, kéo một giấc quên đời. Tỉnh dậy thì trời đã chạng vạng. Hắn khoác vội cái áo vào người, quát mắng vợ con trước khi ra đường, gọi xe đến thăm hai cô vợ bé, hẹn hò với vũ nữ, gái điếm và uống rượu thâu đêm.

Gia tư hắn thuộc loại bát ăn bát để nên trong những tháng đầu tiên của sự đổi thay, hắn vẫn có đủ tiền tiêu xài phung phí. Dần dần hắn mới phải nghĩ cách xoay sở. Thứ nhất là xoay sở trong nhà. Cha mẹ vợ để của hồi môn cho vợ hắn bằng một số cổ phần trong các công ty thương mãi và kỹ nghệ. Hắn bèn lần lượt đem bán. Các cổ phần này mang lại lợi nhuận khá cao nên Shimura sang nhượng lại nhanh chóng và êm thắm.

Của ăn không núi cũng lở, chỉ trong vòng mấy tháng số vốn chung của hai vợ chồng đã tan biến. Hắn gõ cửa bạn bè để vay mượn. Hắn vốn sòng phẳng, lại chưa thiếu tiền ai bao giờ nên ít người từ chối. Hắn nói dối cần thật nhiều tiền để xuất bản tác phẩm để đời. Hắn khoe khoang tác phẩm của hắn sẽ biến hắn thành triệu phú trong thời gian ngắn. Do đó hắn sẵn sàng vay mượn với bất cứ lãi suất nào.

Tâm tính hắn biến chuyển từ từ, bởi vậy không ai hay biết, kể cả những người thân thích. Hắn lại che đậy khéo léo. Đến khi cây kim trong bọc bị lòi ra thì đã muộn.

Vỡ lẽ ra, hắn chẳng sáng tác, chẳng xuất bản gì ráo. Hắn vay nợ lãi suất cao là để ăn chơi trác táng. Bị chủ nợ thôi thúc, hăm dọa, hắn bèn áp dụng phương pháp kiếm tiền giản dị nhất: đánh bạc. Thôi thì sòng bạc nào cũng có mặt hắn, có bao nhiêu tiền hắn dồn hết vào sự đỏ đen.

Số hắn vẫn đen chứ không đỏ như hắn tưởng. Vì thế những đồng bạc cuối cùng đã bay vèo. Hắn không thể vay thêm nữa. Hắn cũng không thể khất lần khất lữa thêm nữa. Bọn chủ nợ ra tối hậu thư cho hắn: nếu không trả được những núi nợ chồng chất, hắn sẽ bị lôi ra tòa, và gia đình hắn, danh dự hắn sẽ bị đạp xuống vũng bùn nhơ nhớp.

Không hiểu sao khi ấy hắn lại nghĩ đến danh dự. Hắn nghĩ đến tiền có lẽ đúng hơn. Phải, khi ấy hắn đang cần tiền ghê gớm. Cần tiền bịt miệng bọn sét-ty vô lương tâm đã đành, hắn còn cần tiền vì các cô vợ bé và nhân tình giang hồ của hắn vòi vĩnh ngày đêm.

Có tiền mua tiên cũng được. Nước Nhật vừa trải qua một trận đại chiến tàn khốc, xứ sở bị chiếm đóng, giá trị của đồng tiền càng gia tăng. Hồi ấy, thủ đô Đông Kinh đã chứa đựng những quyến rũ mãnh liệt mặc dầu chưa phải là thiên đường của khoa học và lạc thú tân tiến như ngày nay với hằng hà sa số điện thoại đỏ, vô tuyến thu hình màu, xe hơi đủ cỡ, những ngã tư có máy đo tiếng ồn và dụng cụ điện tử cho khách bộ hành còn bao nhiêu giây đồng hồ nữa thì đèn giao thông đổi màu để họ có thể vượt qua đường an toàn…và nhất là 10.000 sì-nách-ba.

Tình cờ hắn tạt qua một ngân hàng ở khu Shina-ga-oa. Và một ý nghĩ thoáng qua đầu hắn. Ngân hàng là nơi có rất nhiều tiền. Lúc nào cũng có rất nhiều tiền. Giá mình có một trương mục trong nhà băng này nhỉ?

Hắn đã quen với thủ tục gửi tiền, lãnh tiền ngân hàng. Xưa kia, hắn từng làm thế nhiều lần. Nếu hắn không lao thân vào cuộc sống bê tha thì những trương mục của hắn, của vợ hắn vẫn còn nguyên vẹn. Hắn đã rút tới đồng yen cuối cùng. Hắn đã mắc nợ như chúa Chổm. Hắn không còn lối thoát nào nữa. Ngoại trừ…

Ngoại trừ hắn đánh cướp nhà băng.

Hắn lạnh người. Hắn có cảm giác như vừa bị nhiễm gió độc. Hắn có thể lường gạt song chưa bao giờ hắn nghĩ đến tội ác. Đặc biệt là nghĩ đến đánh cướp nhà băng.

Hắn dừng lại ở dọc đường, uống rượu sa-kê. Hắn là con sâu rượu, vậy mà mới tợp một chén nhỏ hắn đã say chếnh choáng. Hắn lẩm bẩm « hừ, mình phải đánh cướp nhà băng này mới được ».

Nói thì dễ, thực hành lời nói rất khó. Bình sinh hắn là văn nhân, thuộc đẳng cấp dài lưng tốn vải ăn no lại nằm. Tuy hắn là con dân Phù tang, khoái đọc truyện trinh thám, và từng viết truyện trinh thám đánh đấm toát bồ hôi lạnh, hắn lại hoàn toàn mù tịt về võ thuật. Nhu đạo là môn võ ruột của người Phù tang, nhưng đối với hắn thì cũng xa lạ như thú xác thịt đối với vị chân tu đắc đạo.

Hắn lại không phải là kẻ gan dạ. Hồi còn cắp sách đến trường, hắn đã được bạn bè liệt vào hạng nhát như thỏ đế. Hắn quá hiền, còn hiền hơn cả con gái nhà lành nữa. Kể ra hắn hiền cũng đúng vì hắn sống trong một gia đình giòng giõi, lại được nuôi nấng nghiêm chỉnh. Vả lại, cốt cách của hắn là cốt cách của nhà thơ, của họa sĩ, của nhà văn, của nhạc sĩ đầy rung cảm trữ tình…

Muốn đánh cướp nhà băng một cách trót lọt, hắn phải hành động thật nhanh, thật tàn nhẫn và thật hữu hiệu. Có can đảm không cũng chưa đủ, còn phải có võ khí nữa. Chưa kể những cảnh sát viên canh gác cẩn mật bên ngoài, bên trong ngân hàng đều có nhân viên được võ trang. Rút kinh nghiệm, họ thường đặt súng ngay dưới quầy tiền. Động dụng, họ chỉ cần rón tay xuống là có thể đối phó kịp thời…

Hắn đã đọc nhiều tiểu thuyết. Trong sáng tác cũng như trên thực tế, chưa có vụ đánh cướp nhà băng nào không dùng đến súng đạn. Kẻ gian phải nạp đạn sẵn sàng, trong trường hợp bị ngăn cản thì bắt buộc phải lảy cò. Hắn chưa hề bắn ai từ thuở hắn làm người đến giờ. Cho dẫu hắn xoay được khẩu súng -việc này không mấy khó ở Đông Kinh hậu chiến, mua súng lậu cũng tương tự như mua súc cù là khích dâm- hắn cũng không có hy vọng làm nên cơm cháo gì. Tập bắn súng không còn kịp nữa vì phải mất cả tháng, đôi khi cả năm mới có thể trở thành thiện xạ, bắn đâu trúng đấy. Phương chi hắn lại kị súng.

Hắn còn kị máu. Hễ thấy máu đỏ lòm là hắn muốn nôn ọe. Có lần hắn mục kích một tai nạn lưu thông, nạn nhân bị xe cán, nằm ngắc ngoải trong vũng máu đào, hắn chỉ là kẻ bàng quang mà lại ngất xỉu, và hắn được chở đi bệnh viện cứu cấp cùng chuyến xe Hồng thập tự với nạn nhân hấp hối. Những khó khăn hiện ra sừng sững như đỉnh núi Phú sĩ. Cướp nhà băng không phải là công việc làm được một mình. Trong trường hợp hắn là quán quân bắn súng -điều không thể xảy ra- hắn vẫn phải có đồng lõa. Cướp nhà băng thường gồm nhiều người. Một tên chĩa súng ra lệnh cho nhân viên ngân hàng giơ tay, rời bàn giấy, tập trung vào góc, mặt ngoảnh vào tường. Ai lộn xộn thì cứ bắn bỏ. Một tên canh chừng ngoài cửa, ngón tay hườm sẵn cò súng. Và một hoặc hai tên khác đậu xe đối diện nhà băng, máy xe nổ ròn, chờ cả bọn chạy ra là dông tuốt. Đó là chưa kể đến một tên khác chờ dọc đường để thay đổi xe, đề phòng bị lực lượng an ninh truy kích…

Hắn lại chẳng có ai. Hắn chỉ có một mình. Xe hơi để vù khỏi nhà băng với số tiền đánh cướp, hắn cũng không có nữa. Hắn cũng không biết cách mượn tạm xe hơi của thiên hạ.

Tóm lại, nếu hắn muốn làm giàu nhanh chóng bằng phương pháp đột nhập ngân hàng, hắn phải thực hiện kế hoạch ăn hàng một mình. Không có súng đạn. Không có đồng lõa. Không có xe hơi đợi bên ngoài. Không có gì hết. Hắn phải bước vào nhà băng một mình. Lấy tiền một mình. Rồi đi bộ một mình ra đường, vẫy taxi tẩu thoát…

Nghĩ đến đó kẻ nào khoái cướp nhà băng nhất cũng phải từ bỏ ý định. Vì cướp nhà băng trong hoàn cảnh ấy chỉ là một lối tự tử. Nếu không bị bắn chết thì cũng bị xích tay, ra tòa lãnh chục năm cấm cố.

Bọn chủ nợ đêm ngày thúc giục, hai cô vợ bé đêm ngày đói tiền, các em xinh như mộng trong xóm lầu xanh đêm ngày vòi quà, những hình ảnh ấy không cho phép Shimura chần chừ. Lại còn vợ con hắn. Thanh danh hắn. Thanh danh gia đình hắn.

Thôi thà về nhà tắm rửa sạch sẽ, chọn cái áo kimônô trang trọng nhất, và cây kiếm báu của ông cha để lại, viết trên giấy hoa tiên tờ thú tội xin gia đình và xã hội tha thứ đoạn rạch bụng làm …sép-pu-ku. Sép-pu-ku là sự mổ bụng tự tử anh hùng của người Nhật.

Khốn nỗi hắn lại không thích chết. Hắn thích sống. Sống để tiếp tục du hí. Sống để tiếp tục đánh bạc.

Một người giàu óc tưởng tượng như hắn không thể khoanh tay bất lực. Trí đã quyết, hắn bèn sửa soạn một chuyến thăm viếng núi Phú sĩ.

Phú sĩ sơn, cách thủ đô Đông Kinh mấy giờ đồng hồ lưu thông, là một thắng cảnh độc nhất vô nhị. Trong quá khứ, mỗi khi có chuyện rối rắm cần suy nghĩ, hắn thường rời Đông Kinh đến vùng núi Phú sĩ. Một mình. Hắn mê trèo núi Phú sĩ vì hơn một lần đã tìm thấy ở đó một nguồn vui mới, sáng láng và đam mê. Ngạn ngữ Nhật có câu « ai trèo núi Phú sĩ, người ấy là khôn ngoan. Nhưng chỉ trèo một lần, trèo nhiều lần là điên ». Không hiểu sao ngạn ngữ lại nói như vậy vì từ nhiều thế kỷ, núi Phú sĩ vẫn là nguồn cảm hứng vô tận. Có người đam mê đến nỗi suốt đời chẳng làm gì ngoài mỗi việc vẽ, chụp hình núi. Danh họa Hokasai trong thế kỷ thứ 10 đã vẽ gần trăm bức. Và trái với ngạn ngữ, càng trèo nhiều lần Shimura càng khôn ngoan thêm ra.

Thần tiên nhất là đứng trên đỉnh núi khi ban đêm sắp tàn, và vầng đông ló dạng. Vì vậy người ta thường trèo núi lúc chập tối để lên tới đỉnh thì vừa kịp thưởng thức quang cảnh bình minh rạng rỡ.(1).

Shimura lại thích trèo ban ngày, tối đến hắn nằm ngủ, và thức dậy thật sớm để tham thiền và suy tư.

Đêm ấy hắn nảy ra mưu kế.

Nhưng mưu kế mới thành hình trong đầu thì hắn lâm bệnh. Mấy ngày sau khi trèo lên núi Phú sĩ, hắn bị kiết lỵ. Không riêng mình hắn mắc phải. Mà là hàng ngàn, hàng vạn người. Một nạn dịch kiết lỵ không biết từ đâu đến, đột nhiên gieo tai họa trên đất Nhật. Thủ đô Đông Kinh đông nghẹt dân chúng, sự tàn phá của chiến tranh và những khó khăn dưới chế độ chiếm đóng đã thu hút một số lớn nông gia thất nghiệp từ miền quê về thành phố, nên nạn dịch kiết lỵ hoành hành dễ dàng.

Hắn phải nằm liệt giường. Người hắn xọp đi, chỉ đâu hơn tuần lễ mà hắn mất 7, 8 kílô. Hắn vốn gày guộc, mất luôn một lúc 7, 8 kílô điều này có nghĩa là hắn chỉ còn da bọc xương. Nhưng hắn lại vui như Tết vì trong những ngày, những đêm bị bệnh kiết lỵ hành xác, hắn đã khám phá ra phương pháp tuyệt hảo để tiến hành mưu kế đơn thương độc mã đánh cướp nhà băng.

Hắn vùng reo lên:

-Thành công…chắc chắn mình sẽ thành công!

Phương pháp của hắn rất giản dị: hắn chẳng cần gì hết. Chẳng cần mua súng, tập bắn súng. Chẳng cần kết nạp đồng lõa. Chẳng cần tậu xe hơi. Đúng ngày giờ đã định, hắn sẽ nghênh ngang bước vào ngân hàng do hắn chọn trước. Hắn sẽ đột nhập ngân hàng giữa ban ngày, mọi người đang làm việc đông đảo, nhân viên công lực đang canh gác cẩn mật bên ngoài.

Hắn sẽ không lưu lại lâu. Sau 10 đến 15 phút, hắn sẽ ung dung trở ra. Với tất cả số tiền cất trong quầy và trong tủ sắt nhà băng. Hắn sẽ không cần giơ một ngón tay trỏ mà cuộc đánh cướp sẽ diễn ra hoàn toàn êm thấm. Và khi hắn rút lui, nhân viên ngân hàng sẽ không thể phản ứng như thường lệ…

Bệnh kiết lỵ bỗng khỏi biến như thể hắn được uống thần dược. Hắn lẩm bẩm một mình « thần dược…thần dược… ». Sau nhiều ngày nhịn ăn, hắn không cảm thấy yếu đuối, mệt mỏi. Trái lại hắn còn khỏe ra và thần trí minh mẫn nữa là khác.

Hắn tất tả mặc quần áo, rảo qua nhà băng. Hắn rượt nhẩm kế hoạch trong óc lần chót. Rồi hắn tìm quán rượu sa-kê ngon, ngồi nhấm nháp. Xong xuôi, hắn xẹt qua nhà vợ bé. Lần lượt, mỗi cô vợ một lát. Vẻ mặt hắn tươi rói như người trúng số độc đắc làm ai cũng ngạc nhiên. Thật vậy, hắn sắp trúng một loạt số độc đắc mà các cô nàng không biết. Hắn khoe mới vồ được một áp phe lớn. Tiền bạc sẽ chảy ào ào vào như nước suối. Hắn cũng không quên ghé thăm các bông hoa biết nói mĩ miều quen thuộc trong xóm bình khang với những lời hứa hẹn đê mê.

Như toán com-măn-đô trước ngày lên đường tấn công mục tiêu trên đất địch, phải tập luyện cho thuần thục, hắn chọn một nhà băng gần nơi hắn định ăn hàng để thực tập. Hôm ấy, trời khá đẹp. Đơn thương độc mã hắn tiến vào nhà băng. Nhưng hắn không đánh cướp. Hắn chỉ duyệt lại từng chi tiết của kế hoạch thần sầu mà hắn sửa soạn thực hiện.

Trong ngày hôm sau.

Tại một chi nhánh của ngân hàng Teikoku.

Và quả như hắn dự tính, hắn thành công mỹ mãn. Sau này, các chuyên viên phạm pháp học quốc tế đều nhìn nhận vụ đánh cướp của Shimura là vụ đánh cướp ngân hàng độc đáo nhất trong thế kỷ thứ 20.

Vụ đánh cướp nhà băng này gieo bàng hoàng trong giới lãnh đạo an ninh quốc gia ở Đông Kinh. Thoạt tiên, người ta nghi ngờ những bộ óc cừ khôi trong làng đi ngang về tắt quốc tế đứng sau nội vụ. Vì không ai dám tưởng tượng kẻ chủ chốt là người Nhật. Tổ chức quân báo của lực lượng chiếm đóng Mỹ được huy động, mọi phương tiện hùng hậu được áp dụng để truy tầm thủ phạm.

7 tháng trời trôi qua. Trong 7 tháng đằng đẵng này, giới an ninh làm việc ngày đêm, không nghỉ. Danh sách kẻ tình nghi kéo dài giằng giặc trên gần 300 trang giấy. Phải, gần 300 trang giấy đánh máy, với đúng 8.796 tên. Đa số là dân anh chị có tiền án. Công an Nhật hướng cuộc điều tra vào giới trộm cướp chuyên nghiệp nên bị trật đường rầy trong nhiều tuần lễ. Nếu họ thiếu kiên nhẫn, thiếu sáng suốt, và nếu Shimura khôn ngoan hơn nữa thì vị tất nội vụ đã bị lôi ra ánh sáng.

Vụ đánh cướp diễn ra trong bầu không khí êm ả, gần như vui vẻ, thân mật. Chiều hôm ấy, nhà băng sửa soạn đóng cửa thì một người đàn ông trung niên, khuôn mặt đầy thiện cảm, xuất hiện trên ngưỡng cửa.

Người đàn ông trung niên xách nơi tay cái va-li nhỏ, loại va-li thông dụng của giới y sĩ, trên nắp và hông dán dấu hiệu chữ thập đỏ, cánh tay cũng đeo cái bát-sa có dấu chữ thập đỏ to tướng. Chưa cần tự giới thiệu, người ta đã biết khách là nhân viên y tế.

Khách nhã nhặn yêu cầu được gặp ông giám đốc chi nhánh. Thân chủ đã về hết nên bên trong ngân hàng vắng tanh. Các quầy tiền đã sập xuống, cửa phòng giám đốc mở rộng. Ông giám đốc vừa khóa xong ngăn kéo bàn giấy thì khách đeo dấu hồng thập tự khom mình chào cung kính theo kiểu Phù tang thuần túy rồi chìa danh thiếp.

Ông giám đốc đọc danh thiếp thấy:

Yuitsu Kato

Y khoa Bác sĩ

Bộ Y tế.

Bác sĩ Kato được nhiều người biết tiếng. Thủ đô Đông Kinh người đông như kiến cỏ, ông giám đốc chi nhánh ngân hàng chỉ biết tiếng bác sĩ Kato chứ chưa hề biết mặt và hân hạnh được gặp. Ông giám đốc ngân hàng không thể ngờ rằng bác sĩ Kato bằng xương bằng thịt giờ phút ấy đang ngồi ở bộ Y tế, còn người đàn ông trung niên có mặt trong nhà băng là Shimura, tên cướp không tiền khoáng hậu.

Ông giám đốc mời ngồi song hắn xua tay:

-Xin ông tha lỗi. Tôi phải đi gấp. Lẽ ra việc này được giao cho đội y tế lưu động thường trực nhưng vì bệnh dịch đang bành trướng mạnh mẽ. Trong khu vực của ông lại có mấy người vừa thiệt mạng nên bắt buộc tôi phải đích thân phụ trách.

Bệnh dịch kiết lỵ là mối lo của đa số dân chúng, không riêng nhân viên trong ngân hàng. Một số nhân viên mắc bệnh đã phải nghỉ ở nhà. Nếu không có cách gì ngăn ngừa hữu hiệu, chẳng bao lâu nữa ngân hàng sẽ phải đóng cửa. Bác sĩ Kato quả là cứu tinh cho ngân hàng.

Ông giám đốc bèn hỏi:

-Thưa, bác sĩ muốn chúng tôi chích ngừa?

Shimura đáp:

-Không. Bộ Y tế vừa phát minh một phương pháp phòng bệnh hữu hiệu hơn thuốc tiêm nhiều lần. Đó là thuốc uống. Chích thịt vừa đau, vừa phiền phức, bất tiện. Và lại mất quá nhiều thời giờ. Với thuốc uống này, chỉ pha ít giọt vào nước trà là được. Tác dụng của nó có thể kéo dài trong 6 tháng. Nào, phiền ông giám đốc tập hợp các ông, các bà nhân viên để lãnh thuốc…

Người Nhật có 2 đặc tính quốc gia. Thứ nhất là sạch sẽ. Đến sở làm họ thường mang ly chén theo để uống nước. Bởi vậy mỗi nhân viên ngân hàng đều có chén riêng. Thứ hai là tính tôn trọng lệnh trên. Ông giám đốc ra lệnh là họ tuân theo răm rắp. Nhưng nếu không có lệnh trên, họ cũng không từ chối vì bác sĩ Kato đã đến đúng lúc.

Nhân viên ngân hàng không đông mấy, cả nam lẫn nữ đếm đúng 16 người nên Shimura khỏi phải chờ đợi lâu lắt. Trong vòng một phút họ đã xếp thành hàng trước mặt hắn. Hắn khoan thai đặt cái va-li y sĩ lên bàn, lấy ra cái ve nhỏ đựng nước thuốc ngừa bệnh kiết lỵ.

Hắn giơ ve thuốc lên cao rồi nói với ông giám đốc ngân hàng:

-Loại huyết thanh này được bào chế một cách tinh vi. Mức bảo vệ an toàn của nó lên đến một phần mười ngàn, nghĩa là trong số 10.000 người được uống thuốc ngừa chỉ có một người lây bệnh dịch kiết lỵ. Nhưng ngay cả trong trường hợp hãn hữu ấy con vi khuẩn kiết lỵ cũng đã quá yếu, không thể gây hại cho sức khỏe bệnh nhân. Vì huyết thanh được rút từ động vật và chất kim nên mùi vị nó không dễ chịu. Tuy nhiên, « thuốc đắng dã tật », quý vị đã sẵn sàng chịu khó uống ngay một hơi. Nào, tôi đã rót xong thuốc, xin mời quý vị nâng chén, mở cuộc đại tấn công vi khuẩn bệnh dịch kiết lỵ.

16 cánh tay cùng nâng lên một lượt. Và 16 cái miệng ngoan ngoãn uống hết 16 chén nước trà pha độc dược xi-a-nuya, loại độc dược giết người nhanh chóng và kinh khủng nhất.

Chất xi-a-nuya vừa thấm vào cổ họng, 16 nạn nhân đã bải hoải tứ chi. Trong chớp mắt, họ ngã gục xuống nền nhà băng. Có người đã chết, ngón tay còn nắm chặt cái chén. Mấy người chưa chết hẳn, còn nằm rên rỉ.

Shimura không thèm quan tâm đến việc những nhân viên ngân hàng còn sống hay chết. Hắn nhún vai bước qua đống nạn nhân bằng xương bằng thịt, áp lại quày tiền, xô cánh cửa gỗ, đột nhập cấm khu của ngân hàng. Hắn bình tĩnh nhét những xấp giấy bạc được xếp và ghim sẵn vào va-li y sĩ. Chưa đầy 3 phút sau, y đã thoát khỏi ngân hàng Teikoku, để lại phía sau 12 xác chết và 4 người sắp chết.

Lưới trời lồng lộng, Shimura bị bắt. Mặc dầu hắn bố trí chu đáo, hắn bị bắt trong một phút ma men ám ảnh, hắn buột miệng nói ra những điều không đáng nói.

Hắn ra tòa và lãnh án tử hình.

Chú thích:

(1) núi Phú sĩ cao khoảng 3.600m, hàng năm có trên 100.000 người trèo núi viếng thăm. Có 4 con đường lên núi, dọc đường có 10 trạm nghỉ, khách có thể uống la-ve, ăn, và thuê nệm ngủ, hoặc thuê cả ngựa.