← Quay lại trang sách

Truyện thứ mười - Anh quốc -Giòng họ ăn thịt người---

Con người man rợ thường khác con người văn minh ở 2 điểm: thứ nhất, ăn thịt đồng loại ; thứ hai, loạn luân. Về vấn đề loạn luân, nghĩa là những người cùng máu mủ gia đình lấy nhau làm vợ chồng, thì lịch sử đã có nhiều trường hợp anh chị em vua chúa lấy nhau để giữ ngai vàng khỏi lọt vào tay người ngoài. Sự loạn luân hầu như trở thành phong tục trong những làng xã giỏi chuyên về một nghề bí truyền. Họ sợ trái gái kết hôn ở xa sẽ làm mất nghề do ông cha để lại.

Loạn luân vì hoàn cảnh còn có thể được xã hội tha thứ. Nhưng « ăn thịt người » thì không. Dường như ở trong rừng rậm thuộc một vài miền hẻo lánh Phi-Á đang còn sống sót một số rất ít bộ lạc ăn thịt người. Những phần tử tiền sử này dần dần bị mai một trước sự săn đuổi ráo riết của thế giới văn minh.

Đầu thế kỷ thứ 17, ở miền bắc Anh quốc có nhiều vụ ăn thịt người kỳ quặc. Đây không phải một bộ lạc. Mà là một giòng họ. Đúng hơn, một gia đình gồm già trẻ lớn bé 48 người. Họ cũng không phải là người tiền sử. Họ là dân Anh trăm phần trăm. Những trớ trêu của đời sống đã xô đẩy họ vào vòng « ăn thịt người ».

Họ là gia đình Beanes Sawney. Điều hơi lạ là gia đình Beanes tiếp tục hành nghề « ăn thịt người » trong đúng 25 năm. Phải, đúng một phần tư thế kỷ mới bị lột mặt nạ. Dầu muốn dầu không, tấn thảm kịch gia đình Beanes đã viết trong lịch sử nhân loại những trang đầy máu và nước mắt.

Câu chuyện rất giản dị. 48 người thuộc gia đình Beanes ăn thịt người, bị bắt rồi bị hành hình. Tuy rất giản dị, họ vẫn gây ra mối hoài nghi lay lứt. Nếu người ta không lưu lại hồ sơ, với đầy đủ bằng chứng cụ thể, vị tất có ai tin.

Vai chính trong câu chuyện Sawney sinh sống tại một quận miền bắc Anh quốc, gần Edinburg, dưới thời vua James đệ nhất. Cha của Sawney làm nghề cầy ruộng ở đó, cho nên sau ngày hắn chào đời ai cũng nghĩ hắn sẽ theo gương cha. Nghề nông vất vả, nhọc nhằn thật đấy, song đủ bảo đảm một nếp sống thoải mái, và nhất là tự do. Thế nhưng Sawney lại lý luận khác. Hắn ghét cay ghét đắng sự cần cù. Bất cứ cái gì đòi hỏi sự làm việc là hắn trốn tránh. Khi mọi người kéo nhau ra ruộng thì hắn kiếm cớ lẩn lút ở nhà. Hắn lại thù hằn sách vở. Hắn lớn tồng ngồng mà chưa biết đọc, chưa biết viết, thậm chí hai phép cộng trừ dễ nhất hắn cũng không biết.

Lười biếng đã đành, hắn còn xấu tính nữa. Bạ đồ đạc, tiền nong của ai hắn cũng thó. Cha mẹ răn dạy hắn không thèm nghe. Hễ cha mẹ hắn lên tiếng khuyên bảo là hắn sửng cồ, cãi lại tay đôi.

Lớn lên, Sawney bỏ nhà lập thân một mình. Cha mẹ hắn cầu mong hắn đi cho rảnh mắt nên không hề ngăn cản. Nhờ bộ óc lưu manh, Sawney sống ung dung một thời gian dài bằng thủ đoạn lừa bịp người khác. Hắn gặp một thiếu phụ cũng « bụi đời », lười biếng và gian giảo như hắn. Hắn lấy thiếu phụ làm vợ. Hai người rủ nhau đến một khu vực hẻo lánh dọc bờ biển Galloway.

Chẳng hiểu sao vợ chồng Sawney lại mầy mò đến giẻo đất quạnh hiu và tiêu điều này. Có lẽ di tích con người tiền sử man rợ thức dậy trong lòng Sawney. « Dinh thự » của đôi vợ chồng son giang hồ là một cái động không lấy gì làm rộng, tọa lạc dưới những mỏm đá nhọn chĩa ra biển. Khi nước thủy triều rút xuống, miệng hang được lộ ra. Tiếp theo miệng hang là một cái « sân » nhỏ bằng cát. Thạch động không rộng nhưng khoét sâu trong lòng núi đá, khoảng 1.500 đến 2.000 mét. Nó gồm nhiều ngõ ngách quanh co trông như mê hồn trận. Xế cửa động có một tảng đá khổng lồ chắn ngang, người đứng ngoài không thể nhìn thấy. Lối vào cửa động lại quá nhỏ hẹp, nếu ai khám phá ra chắc sẽ không tiến vào vì tưởng đó chỉ là rãnh núi, không ngờ đó là hang ngầm.

Mỗi ngày thủy triều lên xuống hai lần. Cứ mỗi lần nước dâng lên là khúc ngoài của thạch động bị chìm ngập. Khoảng một phần ba hang đã bị chìm ngập như vậy nên « dinh thự » của vợ chồng Sawney biến thành pháo đài bất khả xâm phạm.

Vợ chồng Sawney ăn ở trong hang ngầm với ý định rõ rệt. Họ muốn dùng nó làm sào huyệt cho những hoạt động tiền sử của họ.

Thoạt đầu, Sawney chỉ đặt nặng vấn đề cướp bóc. Chung quanh hang đá là một vùng hoang vắng, cách một quãng xa mới có làng mạc. Và những trung tâm dân cư thưa thớt này cũng ở rải rác, liên lạc với nhau bằng những con đường độc đạo lượn ngoằn ngoèo giữa núi đá và biển khơi mênh mông. Phục kích bên đường, lắt túi khách thương đi qua là chuyện dễ ợt. Sawney là người biết cân nhắc nên sau một thời gian đón đường mãi lộ, hắn thay đổi chương trình. Hễ chộp được người nào, cướp tiền bạc, hành lý xong là hắn làm thịt người ấy. Như vậy để phi tang.

Sawney chỉ cần tiền mặt để mua lương thực ở các chợ và tiệm tạp hóa trong vùng. Tuy vậy, hắn cũng đoạt đồ nữ trang, đồng hồ, quần áo và những đồ vật nào xét thấy đáng giá, khả dĩ bán được. Hắn khôn như ranh, hắn chọn lựa kỹ càng. Những món nào không tạo ra sự nghi ngờ hoặc không có dấu vết riêng hắn mới đem đi tiêu thụ. Kỳ dư những món còn lại đều được hắn xếp chất thành đống trong kẹt hang.

Đồng hồ, nữ trang mỗi ngày một nhiều, vậy mà tiền mặt lại hiếm. Hiếm đến nỗi vợ chồng Sawney sinh sống một cách vô cùng đạm bạc mà vẫn không đủ cung cấp. Chẳng qua dân chúng địa phương không có thói quan mang theo nhiều tiền trong mình. Vợ chồng Sawney vắt mũi đút miệng cũng bị thiếu hụt thường trực. Đem bán tống bán tháo những vật dụng tước đoạt được thì có thể dư dả, nhưng lại có thể dẫn đến tòa án và pháp trường.

Cho nên Sawney áp dụng một phương pháp thích hợp: ăn thịt luôn nạn nhân.

Thói quen ăn thịt người khởi đầu từ đó. Vô chồng Sawney chặn giết một khách thương trên con đường độc đạo, kéo xác về thạch động, rồi trong bóng tối được chiếu sáng lờ mờ bằng cây đèn cầy lập lòe, dùng dao nhọn mổ bụng nạn nhân, lấy bộ lòng ra, rồi lần lượt chặt tay, chặt chân ra từng khúc ngắn. Đùi nạn nhân và những khúc có thịt được phơi khô, ướp muối đàng hoàng, cùng với một số gia vị thơm tho trước khi được treo thành hàng dài vào những cái móc sắt do Sawney rèn chế, trông như móc hàng thịt. Kho thịt người ướp muối này nuôi sống gia đình Sawney trong suốt 25 năm trời. Xương xẩu còn lại được chất trong một góc thạch động.

Những vụ mất tích đột ngột trong vùng đã gây ra sự hoảng sợ. Trước đó nạn nhân chỉ bị chặn cướp và giết chết. Tuy vậy xác chết vẫn còn. Giờ đây, những thi hài đã biến mất. Sự hạ sát không làm dân chúng địa phương hoảng sợ bằng sự biệt tích. Nhất là sự biệt tích vô cùng bí mật. Sự biệt tích không ai có thể giải thích.

Các cơ quan an ninh sở tại gia tăng nỗ lực điều tra hòng khám phá nơi xác chết được giấu nhẹm. Đặc biệt là khám phá hung thủ. Nhưng vợ chồng Sawney vẫn tiếp tục hoạt động an toàn. Hang đá ở mấp mé mặt biển, mỗi ngày bị ngập nước hai lần, nên không ai ngờ bên trong có người ở. Tất nhiên không ai ngờ là những nạn nhân bị chặn cướp và hạ sát được chở về đó. Hung thủ cũng sinh sống trong đó. Và tất nhiên không ai ngờ là nạn nhân đã bị…ăn thịt.

Nếp sống của vợ chồng Sawney vẫn trôi chảy một nhịp bình thường. Họ cũng sinh con đẻ cái như mọi cặp vợ chồng văn minh khác. Duy khác một điều là con cái họ được nuôi luôn trong hang ngầm. Nói cho đúng, gia đình Sawney không hoàn toàn sống trong thạch động. Từ khi vấn đề lương thực được giải quyết thỏa đáng với thịt sống thừa thãi, Sawney có thể dùng tiền bạc cướp được để mua sắm vật dụng cần thiết khác. Thỉnh thoảng vợ chồng Sawney rời hang đá, phục sức chỉnh tề đến các cửa tiệm trong làng kế cận. Họ không có những nét bất lương khiến nhân viên an ninh tưởng họ là dân tôn trọng pháp luật. Họ cũng không có những nét đặc biệt cho nên họ có thể trà trộn giữa đám đông, không sợ ai để ý.

Bầy con của Sawney gồm toàn những đứa khỏe mạnh, mặc dầu chúng thiếu thuốc men, thiếu ánh sáng. Chúng được ăn đầy đủ chất thịt, có lẽ vì vậy mà chúng ít đau ốm. Sự giết chóc và ăn thịt người trở thành thói quen, ăn sâu trong xương máu chúng. Đó là một cách đấu tranh để sinh tồn. Một cuộc đấu tranh hợp lý vì vợ chồng Sawney đã sinh sản được những 14 đứa con. Họ không làm hắc điếm thì chúng phải chết. 14 đứa con này gồm trai gái lẫn lộn. Chúng sống với nhau từ nhỏ đến lớn, rồi khi chúng trưởng thành, đứa này ăn nằm với đứa kia để sinh sản thêm một giòng con mới gồm 8 đứa trai và 14 đứa gái. Nghĩa là Sawney có 22 đứa cháu cả thảy.

Gia đình đông đúc như vậy mà chẳng hiểu sao cơ quan an ninh địa phương lại để họ được sống yên ổn. Nghe đâu một số nhân viên cảnh sát héo lánh tới khu vực hang ngầm là bị bầy con nhung nhúc của Sawney bắt làm thịt nên từ đấy không ai dám đi lang thang một mình nữa.

Đám con cháu của Sawney không hề được học hành. Chúng chỉ được dạy cách nói chuyện với nhau, cách giết người và cách mổ bụng nạn nhân, xẻ thịt ướp tiêu muối. Đứa nhỏ thì được nuôi giấu trong hang. Khi bắt đầu lớn, có sức khỏe và trí khôn mới được ra khỏi động, và tháp tùng đàn anh, đàn chị trong các cuộc chặn đường đoạt của rồi phụ lực làm thức ăn thịt người. Chỉ khi nào thu thập đầy đủ kinh nghiệm chúng mới được giao nhiệm vụ hẳn hòi.

Bầy con cháu của Sawney mỗi năm một gia tăng. Tuy vậy, số nạn nhân bị lóc thịt phơi khô cũng gia tăng. Gia tăng đến nỗi một phần thịt phơi khô bị hư thối. Gia đình Sawney quen ăn thịt người, nhưng cũng khảnh ăn ra phết. Do đó họ đành vứt bỏ thịt hư xuống biển.

Kết quả là thỉnh thoảng người ta tìm thấy những thỏi thịt nổi lềnh bềnh trên mặt biển, bị tấp vào bãi cát. Cơ quan an ninh đoán biết là thịt người nhưng không thể xác định được danh tính của nạn nhân cũng như thời gian hạ sát. Dầu sao thì cơ quan an ninh cũng xác định được đó là di tích của hàng trăm người đã bị mất tích.

Thoạt tiên, dư luận chưa tin. Dần dà, một phần sự thật được hé lộ làm ai cũng bàng hoàng. Giết người cướp của là chuyện thường xảy ra, không đáng kinh ngạc. Cho dẫu nạn nhân bị chăt chân, chặt tay chăng nữa cũng không đáng kinh ngạc lắm. Chứ còn lóc thịt, ướp muối tiêu rồi đem phơi khô thì thật là quái gở. Bởi vậy dư luận xa gần đều sôi sùng sục.

Ngọn trào phẫn nộ của công chúng đã dẫn đến thái độ nóng nẩy của cơ quan an ninh. Họ không chịu đựng được những lời ta thán, thóa mạ nên hốt hoảng phóng ra nhiều cuộc bắt bớ. Dĩ nhiên là bắt bớ toàn những kẻ vô tội. Thành thử hơn nữa là nhiều kẻ vô tội này đã bị hành quyết. Trong khi đó, gia đình Sawney vẫn sống an toàn phây phây dọc bờ biển hoang vu, bên trong thạch động bất khả xâm phạm.

Rồi ngày tháng lặng lẽ trôi qua. Kế hoạch « hắc điếm » của Sawney được tiến hành trên một quy mô rộng lớn hơn. Có lần Sawney tung hơn một tá con cháu vào vòng chiến, phục kích khoảng 6 khách thương. Như thường lệ, khách thương bị hạ sát toàn bộ, không một ai trốn thoát. Sawney tổ chức cuộc chặn đánh như viên tướng cầm quân. Một toán chặn đầu. Toán thứ hai chặn hậu. Hai toán khác núp dọc theo đường độc đạo, chờ hiệu lệnh được ban ra là ồ ạt tấn công chớp nhoáng và ác liệt. Khách thương chạy lên phía trước hoặc thót ra phía sau đều lọt vào ổ phục kích.

Cơ quan an ninh lại mở các cuộc điều tra, và cũng như trong quá khứ họ không vớ được dấu vết khả nghi. Hơn một lần, các nhóm tuần tiễu võ trang hùng hậu của chính quyền đã rầm rộ kéo qua hang ngầm mà không ai để ý.

Thế nhưng tình hình an toàn kỳ lạ này không thể kéo dài được mãi. Không ai trên đời có thể không mắc phải lỗi lầm. Sawney đã làm ăn thông suốt trong đúng một phần tư thế kỷ, sớm muôn hắn sẽ để lại hớ hênh.

Hớ hênh của gia đình Sawney rất giản dị. Cũng giản dị như nếp sống loạn luân và ăn thịt người của họ. Đúng ra, Sawney phải hớ hênh như vậy từ nhiều năm trước. Chờ những 25 năm hắn mới bị lột mặt nạ, dầu muốn dầu không Sawney đã lập được thành tích phi thường.

Lần thứ nhất sau 25 năm, bầy con cháu của Sawney chặn đường giết người đã bị đánh bại. Một cặp vợ chồng cưỡi ngựa từ chợ làng bên dại dột đi qua con đường độc đạo. Có hai người nên gia đình Sawney coi là trò đùa. Sau khi bố trí cẩn thận, chúng tóm bắt người vợ, lôi xềnh xệch đến bụi rậm. Và trong khi một nhóm vật lộn với người chồng cứ bám chặt lấy lưng ngựa, một nhóm khác bắt tay ngay vào việc làm thịt sống. Chúng hối hả xé nát quần áo người vợ rồi thản nhiên cắt họng, chặt tay, chặt chân mặc cho nạn nhân vùng vẫy kêu la. Cảnh tượng này làm người chồng sợ toát bồ hôi. Y nhận thấy y không có hy vọng sống sót. Trừ phi y liều mạng.

Và y liều mạng tả xung hữu đột, huy động sức mạnh cuối cùng tiềm ẩn trong cơ thể để phá mở đường máu. Một số con cháu của Sawney bị y quật ngã và đấm đá trọng thương. Nhưng bọn chúng kéo tới mỗi lúc một đông.

Suýt nữa người chồng đã bị làm thịt nếu một toán khách thương khác không xuất hiện kịp thời trên con đường ngoằn ngoèo. Toán này gồm trên 20 người đàn ông lực lưỡng. Nghĩa là đông hơn, khỏe hơn đạo quân của Sawney. Toán khách thương phi ngựa đến nơi giữa lúc người chồng bị giật ngã xuống chân ngựa, và bọn man rợ sửa soạn thọc tiết.

Một màn giao phong diễn ra. Bọn con cháu của Sawney chỉ quen hiếp đáp khách thương cô đơn chứ chưa bao giờ so tài với một lực lượng ngang bằng. Huống hồ lần này chúng lại rơi vào phe thiểu số.

Tam thập lục kế, dĩ đào vi thượng, bọn chúng đánh nhau được một lúc thì hè nhau chạy thẳng một mạch, vứt bỏ thi thể của thiếu phụ bị chặt mổ đầm đìa máu lại trên bãi cát. Toán khách thương không dám đuổi theo vì trời đã xẩm tối. Hơn nữa, họ không quen thuộc địa hình địa vật trong vùng.

Dù sao chính quyền địa phương cũng đã nắm được những bằng cớ quan trọng. Một nạn nhân chết. Một nạn nhân sống sót. Và hơn 20 người chứng kiến tận mắt những gì rùng rợn ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra. Cuộc giao phong ngắn này là lầm lẫn đầu tiên và cũng là lầm lẫn cuối cùng của gia đình Sawney.

Người chồng về ngay thị trấn, trình báo nội vụ lên quan tòa. Từ lâu, tòa án vẫn chờ mở lại đống hồ sơ ám bụi về hàng trăm nạn nhân bị mất tích một cách bí mật, về những khúc thịt ướp muối dọc bờ biển…Nhờ lời khai của người chồng mất vợ và của toán khách thương, tòa án đã có thể kết luận là đám cướp gồm toàn thanh niên, chúng ăn hàng trong nhiều năm. Chúng còn có những hành động man rợ, và điều quan trọng nhất là chúng sinh sống trong vùng.

Sống trong vùng, nghĩa là ở đâu? Cơ quan an ninh đã tìm kiếm đỏ mắt mà không thấy mặc dầu họ không bỏ qua một tấc đất nào.

Viên quan tòa bèn thảo tờ trình đệ lên quốc vương James đệ lục, khi ấy trị vì Anh quốc. Nhà vua đích thân xem xét nội vụ, và đích thân ngự giá đến nơi với một đạo quân nhỏ gồm 400 binh lính võ trang và một số chó săn giỏi.

Đạo quân này, với sự tiếp sức của dân chúng địa phương, dưới sự điều khiển trực tiếp của quốc vương xục xạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Nhưng kết quả vẫn là con số không. Còn lại rặng núi đá và con đường độc đạo dọc bờ biển luôn luôn bị nước chìm ngập. Nhà vua ra lệnh cho toán quân lục lọi từng hốc đá, bụi cỏ. Không may cho gia đình Sawney: toán quân tìm kiếm đến gần thạch động giữa khi nước triều rút xuống để lộ một lối đi hiểm trở. Nhóm tiền sát sửa soạn thoái lui thì đàn chó sủa vang.

Thì ra đàn chó đánh hơi thấy mùi thịt chết. Và mùi người sống. Đàn chó ùa nhau chạy vào trong hang ngầm. Biết có người núp bên trong, nhà vua bèn dàn quân tứ phía, rải rác trên một diện tích rộng lớn, hầu ngăn chặn đối phương tẩu thoát.

Nhà vua đoán đúng. Đường trong hang ngầm lượn vòng như con rắn, đi hoài đi mãi không hết. Những bó đuốc tẩm nhựa được đốt cháy, thạch động tối om vụt sáng như ban ngày để thấy toàn thể già trẻ lớn bé của giòng họ Sawney. Nghe tiếng động, gia đình Sawney kéo nhau rút sâu vào tận trong xa, và nằm ép trong kẹt đá, với hy vọng quân đội của nhà vua chỉ vào nửa chừng rồi bỏ cuộc.

Sawney đã lầm.

Đàn chó vẫn sủa. Toán quân thận trọng tiến từng bước. Gươm giáo được tuốt sáng ngời. Theo lệnh vua, kẻ nào toan chạy trốn sẽ bị đâm chết tại chỗ.

Mới đầu, toán quân tới nơi treo thịt ướp. Hàng chục xác người, đàn ông và đàn bà, bị treo ngược đầu, xương được lóc sạch, da và thịt đã đổi màu, một mùi in ỉn xông lên làm mọi người phải bịt mũi để khỏi nôn ọe. Trong hang kế bên là quần áo, đồ vật của nạn nhân, chất thành đống cao nghễu nghện. Nhiều món đã mủn, đụng nhẹ là nát bấy vì thiếu hơi nắng. Đâu đâu cũng có mùi tanh hôi. Vào xa hơn nữa là nơi cất giữ xương tay, chân dài lòng thòng, và đầu lâu, dưới ánh đuốc bập bùng, những cái sọ dừa nhe răng khủng khiếp.

Sau cùng toán quân đụng độ gia đình Sawney. Bọn con cháu của Sawney chống trả quyết liệt, nhưng không đi đến đâu. Binh lính được tập luyện thuần thục, bọn con cháu Sawney võ trang bằng dao gậy không nghĩa lý gì đối với họ. Chúng bị đánh ngã và trói gô lại một loạt, rồi bị giải về thị trấn kế cận.

Gia đình Sawney gồm 27 nam và 21 nữ không được đưa ra tòa án xét xử. Quốc vương phán rằng bọn man rợ ăn thịt người không xứng đáng hưởng luật pháp của xã hội văn minh. Ngài tuyên án tử hình toàn bộ gia đình Sawney và cho hành quyết ngay hôm sau.

Nếu hành động ăn thịt người của gia đình Sawney làm dư luận kinh hồn thì sự trừng trị của quốc vương cũng làm dư luận kinh hồn không kém. Những đứa trẻ bé bỏng, hoàn toàn vô tội, chưa hề dính dáng đến tội ác của giòng họ chúng, cũng không được ân xá. Toàn thể phải đền tội. Đàn ông thì bị chặt tay, chặt chân như thể những nạn nhân trước kia của họ. Tử tội bị trói ghì trên cái thớt lớn, đao phủ thủ dùng dao bén, từ từ chặt đứt hai tay họ trước khi chặt đứt hai chân. Tử tội rên la cho đến khi hết máu mà chết. Trong khi đó 21 đàn bà con gái phải chứng kiến cuộc phanh thây. Đàn ông chết xong, đàn bà con gái bị dồn lên giàn hỏa và bị thiêu sống.

Từ đầu đến cuối, không một tử tội nào tỏ vẻ hối hận. Bọn con cháu của Sawney không hối hận là đúng vì chúng được nuôi nấng trong hang đá, tách khỏi đời sống bình thường. Chúng không biết việc gì khác ngoài việc chặn đường khách thương để cướp của giết người và ướp thịt người mà ăn. Trên một phạm vi nào đó, chúng là người vô tội. Sawney và vợ mới là người có tội.

Liệu chúng có biết được hành động của chúng là hành động phạm pháp hay không? Chắc là không.

Vả lại, chúng biết nữa cũng vô ích. Vì chúng đã bị hành quyết. Hành quyết một cách man rợ.