LỜI NÓI ĐẦU
Sống trong Nhà Trắng giống như đứng trên sân khấu, nơi bi hài kịch đan xen lẫn lộn. Và chúng tôi, những người giúp việc của Nhà Trắng, là dàn nhân viên hỗ trợ
– Lillian Rogers Parks, phục vụ phòng kiêm thợ may của Nhà Trắng, 1929–1961, Ba mươi năm giúp việc cho Nhà Trắng.
Sống trong Nhà Trắng giống như đứng trên sân khấu, nơi bi hài kịch đan xen lẫn lộn. Và chúng tôi, những người giúp việc của Nhà Trắng, là dàn nhân viên hỗ trợ – Lillian Rogers Parks, phục vụ phòng kiêm thợ may của Nhà Trắng, 1929 – 1961, Ba mươi năm giúp việc cho Nhà Trắng.
Preston Bruce đang ngồi nghe radio trong căn bếp ở Washington D.C trong lúc ăn trưa với vợ – bữa ăn trưa duy nhất họ cùng ăn với nhau mỗi ngày – thì đột nhiên người phát thanh viên ngắt ngang chương trình để thông báo một tin khẩn cấp: tổng thống bị bắn.
Ông lập tức chồm người khỏi ghế, đầu gối đập vào bàn ăn làm mấy cái đĩa văng xuống đất vỡ nát. Khoảng một phút sau, một thông báo khác phát ra với giọng kích động hơn: tổng thống bị bắn. Tổng thống đã được xác nhận là bị bắn. Hiện chưa ai biết tình trạng ông ấy thế nào.
Không thể thế được, Bruce nghĩ thầm, ông khoác vội chiếc áo, quên không lấy cái mũ trong tháng 11 lộng gió, và nhảy lên xe lao vút ra đường. Sau lưng ông, vợ ông, bà Virginia đứng chết lặng trong bếp giữa những mảnh đĩa vỡ tung tóe trên nền nhà.
Người đàn ông điềm tĩnh thường ngày đang luồn lách giữa dòng xe cộ trên phố với tốc độ 80 km/giờ – “Tôi không biết mình đang phóng rất nhanh,” sau này ông kể lại – thì đột nhiên nghe tiếng còi cảnh sát vang lên sau lưng. Một sĩ quan cảnh sát đi mô tô cập sát xe ông ở góc đường Sixteenth Street và Columbia Road và nhảy xuống tiến về phía cửa xe.
“Sao gấp thế?” Anh ta chẳng có vẻ như muốn nghe biện minh.
“Anh sĩ quan, tôi làm việc ở Nhà Trắng,” Bruce nói không kịp thở. “Tổng thống bị bắn rồi.”
Tiếp đó là một khoảng lặng bàng hoàng. Không phải ai cũng nghe được tin chấn động này. “Đi nào,” viên sĩ quan cảnh sát nói giọng hoảng hốt và nhảy lên mô tô. “Theo tôi!” Hôm đó Bruce vinh dự được cảnh sát hộ tống đến tận cổng tây nam Nhà Trắng.
Hầu hết những người Mỹ sống năm 1963 đều nhớ chính xác họ đang ở đâu khi nghe tin Tổng thống Kennedy bị bắn. Thế nhưng tin này đặc biệt tác động đến Bruce bởi với ông, Kennedy không chỉ là tổng thống mà còn là ông chủ của ông và hơn thế nữa, một người bạn. Preston Bruce là người gác cửa ở Nhà Trắng được mọi người yêu mến. Chỉ mới sáng hôm trước, ông còn tháp tùng tổng thống cùng đệ nhất phu nhân và John John, con trai họ, đến chiếc trực thăng của thủy quân lục chiến ở Bãi cỏ phía nam (South Lawn) để từ đó bay đến chỗ chiếc Air Force One ở Căn cứ Không quân Andrews. Sau khi rời máy bay, vợ chồng Kennedy sẽ tham gia chiến dịch tranh cử định mệnh kéo dài hai ngày tại năm thành phố của bang Texas. (Bé John–John, chỉ bốn ngày nữa là 3 tuổi, rất thích đi trực thăng cùng bố mẹ. Từ trước đến giờ, nó chỉ đến căn cứ Andrews là xa nhất, vì thế khi nghe nói mình không được cùng bố mẹ đi Dallas, cu cậu òa khóc nức nở. Đó là lần cuối cùng cậu bé nhìn thấy bố.)
“Tôi giao ông phụ trách mọi việc ở đây đấy,” Tổng thống Kennedy hét to với Bruce trong tiếng động cơ trực thăng ầm ĩ ở Bãi cỏ phía nam. “Ông cứ quản lý mọi thứ theo ý ông.”
Là con cháu những người nô lệ và con trai một tá điền ở South Carolina, Bruce giờ đây đã trở thành một thành viên danh dự của gia đình Kennedy, ông vẫn cùng xem phim với họ ở rạp chiếu phim của Nhà Trắng hay đứng nhìn tổng thống nô đùa với con. Ông nhăn mặt khi thấy Kennedy va đầu vào bàn trong lúc rượt đuổi bé John–John đang chạy lững chững quanh Phòng Bầu dục. (Bàn làm việc của JFK là một trong những chỗ ẩn nấp ưa thích nhất của John–John. Thỉnh thoảng Bruce lại phải lôi cậu bé ra khỏi gầm bàn trước khi bắt đầu một cuộc họp quan trọng.) Là một người trạc hơn năm mươi với dáng vóc cao gầy cùng mái tóc và cặp ria trắng sáng, Bruce thường mặc bộ complet đen gắn nơ trắng để đi làm mỗi ngày, ông tận tụy với công việc – bao gồm cả nhiệm vụ đưa các thực khách bỡ ngỡ ở các quốc yến [**] đến chỗ ngồi – đến mức tự tay thiết kế một chiếc bàn mang biệt danh “Bàn của Bruce” với mặt bàn hơi dốc để xếp các bảng tên lên đó dễ dàng hơn. Phát minh này của ông được sử dụng suốt mấy chục năm liền.
[**](Dạ tiệc chiêu đãi cấp quốc gia.)
Ngày 22 tháng 11, Bruce chạy vội đến Nhà Trắng nhưng lòng vẫn chưa dám tin. “Cho đến hôm nay, tôi vẫn còn cảm nhận cú sốc lan truyền khắp cơ thể,” ông hồi tưởng lại.
Sau khi đến tòa hành pháp, ông chỉ nghĩ được một điều duy nhất, đó là “phải chờ phu nhân Kennedy về,” ông cùng các nhân viên khác xúm quanh chiếc tivi trong Phòng Quản lý. Tin tức trên tivi xác nhận những gì tất cả các nhân viên Nhà Trắng đang lo sợ. Nhiều năm sau ông viết: “Hầu hết chúng tôi vẫn luôn ý thức rằng bất cứ một vị tổng thống nào rời khỏi tòa nhà 18 mẫu Anh này cũng có thể quay về trong tình trạng giống Tổng thống Kennedy.”
Khi bà Jackie Kennedy trở về Nhà Trắng lúc 4 giờ sáng trong chiếc áo vest hồng đẫm máu và bám chặt vào tay cậu em chồng Robert F. Kennedy, mặt bà trắng bệch và bình tĩnh lạ thường. “Bruce, ông đợi chúng tôi về à,” giọng bà dịu dàng như đang cố trấn an ông. “Vâng, bà biết tôi sẽ ở đây đợi bà mà, thưa phu nhân,” ông trả lời.
Sau khi nhanh chóng hoàn thành một việc ở Phòng Đông (East Room), ông đưa đệ nhất phu nhân và ngài bộ trưởng tư pháp Hoa Kỳ lên khu nhà riêng ở tầng hai. Trong khoảnh khắc yên tĩnh bên trong thang máy cạnh hai người thân thương nhất của Tổng thống JFK, Bruce cuối cùng đã bật khóc. Jackie và Robert cũng ôm nhau khóc theo cho đến khi lên đến tầng hai. Vào đến phòng mình, Jackie nói với Providencia Paredes, cô hầu phòng riêng và cũng là người tín cẩn của bà: “Tôi nghĩ chúng có thể đã giết cả tôi.” Cuối cùng bà cũng cởi chiếc áo thấm đẫm máu chồng ra để đi tắm.
Kiệt sức, suốt thời gian còn lại của đêm hôm đó, Bruce chỉ ngồi thẳng lưng trên ghế trong căn phòng bé tí ở tầng ba. Ông cởi áo khoác và nơ ra, sau đó mở nút cổ áo chiếc sơ mi trắng hồ cứng, nhưng không để bản thân gục ngã vì mệt mỏi. “Tôi không muốn đi nằm vì sợ lỡ phu nhân Kennedy cần đến tôi.” Lòng trung thành của ông sau đó đã được đền đáp. Sau đám tang không lâu, đệ nhất phu nhân đem tặng ông chiếc cà vạt chồng bà đã đeo trên chuyến bay đi Dallas. “Tổng thống hẳn sẽ muốn ông giữ chiếc cà vạt này,” bà nói với ông (JFK đã thay cà vạt ngay trước khi bước vào chiếc xe được hộ tống, và chiếc cà vạt đó nằm trong túi áo khoác của ông khi ông bị bắn). Robert Kennedy cũng tháo đôi găng tay của ông ra đưa cho người bạn đau buồn: “Ông hãy giữ đôi găng này,” ông nói với Bruce, “và luôn nhớ rằng tôi đã đeo nó trong đám tang anh tôi.”
Mãi đến ngày 26 tháng 11, tức bốn ngày sau vụ ám sát, người gác cửa Nhà Trắng mới chịu rời nhiệm sở để quay về nhà với vợ. Sự tận tụy của Bruce đối với công việc và đối với đệ nhất gia đình có thể được xem là rất tuyệt vời, nhưng ta không thể trông chờ điều gì ít hơn từ những người làm việc trong tòa nhà này.
ÍT AI BIẾT về cuộc sống của các đệ nhất gia đình nước Mỹ. Sự riêng tư của họ được bảo vệ cẩn mật bởi các trợ lý khu Cánh Tây (West Wing) cùng một đội ngũ khoảng một trăm người nằm ngoài tầm mắt mọi người: các nhân viên làm việc ở tư dinh Nhà Trắng. Những người giúp việc này dành phần lớn thời gian của họ trên tầng hai và tầng ba của tòa nhà rộng khoảng năm ngàn mốt mét vuông này. Đây là nơi mà các đệ nhất gia đình có thể thoát khỏi áp lực nặng nề của văn phòng, dù chỉ là vài giờ quý báu, để ăn tối hay xem tivi. Trong khi khách tham quan đang di chuyển dưới tầng một và những thợ ảnh nghiệp dư đang tập trung ở hàng rào vòng ngoài để quay phim bằng điện thoại di động, thì các đệ nhất gia đình tự do tận hưởng cuộc sống riêng tư của họ.
Không giống hàng tá trợ lý chính trị hăng hái trả lời phỏng vấn và phát hành hồi ký sau khi rời Nhà Trắng, phần lớn các cô hầu phòng, các nhân viên phục vụ cùng các đầu bếp, quản lý, kỹ sư, thợ điện, thợ ống nước, thợ mộc và thợ cắm hoa đang điều hành tòa nhà nổi tiếng nhất nước Mỹ này không muốn ai biết đến họ. Một nhân viên nói với tôi rằng các đồng nghiệp của ông có chung “niềm đam mê ẩn danh”. Kết quả là cái thế giới ngầm của các nhân viên Nhà Trắng vẫn luôn tràn ngập bí ẩn.
Lần đầu tiên tôi để ý đến cái thế giới này là khi, với tư cách thành viên đoàn báo chí Nhà Trắng, tôi được mời đến dự bữa tiệc trưa do bà Michelle Obama tổ chức để thết đãi nhóm phóng viên chưa đến chục người trong căn phòng ăn ấm cúng ở Tầng Khánh tiết [**] của Nhà Trắng. Trở thành Phòng ăn Gia đình cũ (Old Family Dining Room) sau khi bà Jackie Kennedy xây thêm một phòng ăn riêng trên tầng hai, nơi các đệ nhất gia đình sau này thường hay sử dụng hơn, căn phòng này nằm khuất phía bên kia Phòng Quốc yến (State Dining Room), nơi tôi từng đến đưa tin cho hàng chục sự kiện. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy khu vực riêng phía bên này và thú thực là tôi cũng không biết căn phòng này tồn tại. Lối đi vào nhiều khu vực trong tòa nhà bị giới hạn nghiêm ngặt. Các phóng viên và thợ ảnh đến đưa tin ở các sự kiện chính thức – như tiệc chiêu đãi và tiệc tối ở Phòng Đông (East Room) – đều bị cách ly khỏi các khách mời Nhà Trắng bằng hàng rào dây (Hiện nay các sự kiện này thường được tổ chức trong một gian nhà trắng nguy nga ở Bãi cỏ phía nam). Và để chuẩn bị cho những bữa tiệc đông đúc này, Nhà Trắng thường tăng cường số nhân viên bằng cách thuê thêm nhân viên phục vụ bán thời gian và nhân viên dự bị.
[**](State Floor – Nơi tổ chức các buổi chiêu đãi và đại tiệc cấp quốc gia.)
Chính vì thế mà vào ngày đến dự bữa trưa do đệ nhất phu nhân chiêu đãi, tôi đã ngạc nhiên khi được đưa vào căn phòng ăn tương đối nhỏ nhưng ấm cúng này, và được một quý ông ăn mặc lịch lãm phục vụ rượu champagne trên chiếc khay bạc sáng loáng. Thực đơn hôm đó có món xà lách rau xanh thu hoạch từ vườn rau Nhà Trắng cùng món cá mú rán trình bày đẹp mắt trên đĩa sứ Truman. Mỗi món ăn đều được dọn lên bởi một nhân viên phục vụ rõ ràng là rất thân thiết với đệ nhất phu nhân. Tất cả những hình ảnh đó thực sự rất giống trong Downton Abbey, tôi nghĩ. Trải nghiệm này khiến tôi tự hỏi không biết những người đó là ai mà thân thiết với gia đình quyền lực nhất thế giới đến thế.
Là một phóng viên chuyên đưa tin về Nhà Trắng cho Bloomberg News, tôi làm việc ở một trong nhiều căn phòng bé tí xíu không cửa sổ nằm phía dưới Phòng Họp báo James S. Brady. Cái không gian chật chội dưới tầng hầm này luôn quay cuồng với những phóng viên tất bật tới lui để đưa tin sự kiện, nói chuyện với người cung cấp thông tin, rồi vội vã quay về máy tính để gọt giũa câu chuyện. Trong suốt thời gian đưa tin về Nhà Trắng, tôi đã chu du khắp thế giới trên hai chiếc Air Force I và Air Force II (chuyên cơ của phó tổng thống) để mài giũa lại các báo cáo đến từ Mông Cổ, Nhật Bản, Ba Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Trung Quốc và Colombia, nhưng câu chuyện hấp dẫn nhất hóa ra lại nằm ngay trước mắt tôi mỗi ngày. Đó là câu chuyện về những người đàn ông và phụ nữ chăm sóc cho đệ nhất gia đình, những người rất mực trung thành với trụ sở của các tổng thống Mỹ. Mỗi một nhân viên phục vụ trong Nhà Trắng đều là chứng nhân lịch sử và đều có những câu chuyện lạ thường để chia sẻ.
Nhà Trắng là biểu tượng mang ảnh hưởng lớn và lâu dài nhất của tổng thống. Tất cả 132 căn phòng, 147 cửa sổ, 28 lò sưởi, 8 cầu thang và 3 thang máy được trải ra trên 6 tầng lầu – cộng thêm 2 tầng lửng không nhìn thấy – của một tòa nhà mà nhìn bên ngoài trông như chỉ 3 tầng. Tòa nhà này là nơi sinh sống của mỗi lần chỉ một gia đình danh tiếng, nhưng chính các thành viên của dàn nhân viên hỗ trợ tòa nhà mới là những người sống trường kỳ ở đó.
Chính các nhân viên làm việc trong dinh đã đưa tính nhân văn và giá trị của Thế giới cũ vào cái không gian rộng mười tám mẫu Anh nổi tiếng nhất thế giới này. Thức dậy từ tờ mờ sáng, họ hy sinh đời sống riêng tư để phục vụ cho đệ nhất gia đình với thái độ trang nghiêm hòa nhã đáng nể. Với họ, làm việc trong Nhà Trắng dù ở bất kỳ vị trí nào cũng là vinh dự lớn lao. Các cuộc bầu cử có thể đem đến những gương mặt mới, nhưng họ thì vẫn tiếp tục ở lại từ chính quyền này sang chính quyền khác và luôn cẩn thận giữ kín tư tưởng chính trị của mình. Công việc của họ chỉ có một, đó là giúp cho các đệ nhất gia đình nước Mỹ thấy thoải mái trong ngôi nhà công tư lẫn lộn của đất nước này.
Trong quá trình làm việc, nhiều người trong số những người đàn ông và phụ nữ đó từng chứng kiến các tổng thống và gia đình họ trong những khoảnh khắc đau thương nhất, nhưng chỉ vỏn vẹn vài người phát hành hồi ký để kể về quãng thời gian họ làm việc trong Nhà Trắng. Cuốn sách này đánh dấu việc lần đầu tiên rất nhiều người chia sẻ chuyện họ cống hiến cuộc đời của họ ra sao cho sự nghiệp chăm sóc các đệ nhất gia đình. Hồi ức của họ đi từ những hành động tử tế nhỏ nhặt nhất đến những cơn giận dữ và tuyệt vọng đậm chất riêng tư, từ những thói quen kỳ quặc và nhược điểm cá nhân đến những khoảnh khắc mà công việc hằng ngày của họ bị lấn át bởi những vui buồn của đất nước.
Từ chuyện nô đùa với bọn trẻ nhà Kennedy trong Phòng Bầu dục đến chuyện chứng kiến vị tổng thống Mỹ gốc Phi đầu tiên bước vào Nhà Trắng, từ chuyện bị bà Nancy Reagan bắt đặt trở lại 25 chiếc hộp nữ trang Limoge của bà về đúng chỗ cũ của từng chiếc sau khi nhấc ra lau chùi đến chuyện dành cho bà Hillary Clinton chút khoảnh khắc riêng tư khi chồng bà dính vào vụ bê bối tình dục và bị tố giác, các gia nhân đã chứng kiến những thăng trầm của các đệ nhất gia đình mà không ai khác có thể nhìn thấy.
Mặc dù chấp nhận kể cho tôi nghe những chuyên họ chưa từng kể, những người đã và đang làm việc ở dinh tổng thống vẫn tuân theo một quy tắc đạo đức lâu đời là kín tiếng và đặt việc bảo vệ sự riêng tư của các đệ nhất gia đình lên trên hết. Không giống phần lớn những người sống trong một tiểu bang bị ám ảnh bởi quyền lực như Washington D.C. và vẫn thường hay khoe nhau nơi mình làm việc ngay cả trước khi cho người khác biết tên, các nhân viên Nhà Trắng luôn tránh đề cập đến nghề nghiệp đặc biệt của họ. Họ thừa hưởng đạo lý này từ những thế hệ nhân viên đi trước, những người từng giữ kín chuyện Tổng thống Franklin Delano Roosevelt bại liệt bằng cách chỉ đưa khách vào phòng tiệc sau khi đã đặt ông ngồi sẵn trong đó và đưa xe lăn của ông ra khỏi tầm mắt mọi người – và đảm bảo rằng những câu chuyện lăng nhăng của Tổng thống John Fitzgerald Kennedy không bao giờ lọt ra khỏi cổng Nhà Trắng.
Do những người giúp việc trong dinh được đặc ân tiếp cận các bí mật này nên các trợ lý đương nhiệm ở Nhà Trắng không muốn họ nói chuyện với tôi. Một cựu nhân viên Nhà Trắng nói với tôi trong email rằng: “Tôi nghĩ rồi cô cũng thấy là bất cứ ai còn đang làm việc ở đó sẽ không muốn nói chuyện với cô vì họ không muốn mất việc. Vâng, đúng thế. Chúng tôi được huấn luyện để giữ những chuyện xảy ra trong Nhà Trắng ở lại với Nhà Trắng.”
Mặc dù lúc đầu một số người không muốn chia sẻ với tôi những gì họ từng trải qua ở nơi họ gọi là “nhà”, nhưng tất cả bọn họ đều rất tử tế lịch sự. Dù họ là người da trắng hay da đen, là nam hay nữ, là đầu bếp, thợ điện hay người hầu phòng, thì cả chục nhân viên đã hưu trí này cũng đều mời tôi ngồi xuống trò chuyện với họ ở chiếc bàn bếp hay trên chiếc ghế sofa phòng khách nhà họ (Lúc đó tôi đang mang thai bé thứ hai và không ngớt được họ ân cần hỏi han xem tôi có khỏe không, có muốn ăn gì không). Chẳng bao lâu sau, họ đã vui vẻ kể về hồi ức của họ trong suốt hàng chục năm làm việc cho nhiều đời tổng thống cùng gia đình họ. Nhiều người dường như đã quên mình từng có cuộc sống thật đặc biệt và chứng kiến những gì đi vào lịch sử. Tuy nhiên hồi ức của họ không phải lúc nào cũng nhất quán. Trong khi nhiều người nhớ về những gia đình mà họ hầu hạ bằng tất cả sự trìu mến thì những người khác lại kể những chuyện chẳng mấy hay ho về họ.
Làm họ chịu nói không phải lúc nào cũng dễ. Một số người chỉ mở lòng sau khi nghe tôi nhắc tên các đồng nghiệp đã được tôi phỏng vấn. Một số khác tỏ ra rất thận trọng cho đến khi chúng tôi trực tiếp gặp nhau. Giống như trường hợp của Tổ trưởng tổ điện William “Bill” Cliber, người đã kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện hấp dẫn về Tổng thống Richard Nixon trong những ngày cuối cùng ở nhiệm sở, và trường hợp của Quản lý bộ phận phòng Christine Limerick, người đã kể về quyết định tạm thời nghỉ việc đầy đau lòng của bà chỉ vì không chịu nổi sự lăng mạ của một đệ nhất phu nhân nào đó.
Một số người như ông James Ramsey, nhân viên phục vụ được Tổng thống George W. Bush yêu mến nhất, thì lại chỉ muốn nói về những trải nghiệm tích cực của mình, ông thậm chí còn nói rằng ông sợ chính phủ sẽ lấy mất số tiền hưu mà ông làm việc cả đời để kiếm ra nếu như ông tiết lộ những chuyện không hay (mặc dù chẳng có dấu hiệu nào cho thấy chuyện này sẽ xảy ra). Ông thực sự rất yêu thương những gia đình ông từng phục vụ. ông mất năm 2014 nhưng tôi thấy mình rất may mắn quen biết ông cùng một số nhân viên khác, trong đó nhiều người đã qua đời trước khi có thể nhìn thấy những gì họ kể.
Tôi đã nói chuyện với những người làm việc ở Nhà Trắng trong thời kỳ được gọi là Camelot [**] – kể cả người đầu tiên nhận được tin Tổng thống Kennedy bị ám sát – cùng với các nhân viên phục vụ, nhân viên gác cửa và nhân viên cắm hoa làm việc cho gia đình Obama. Tôi đã nghe con cái các tổng thống kể chuyện họ lớn lên trong Nhà Trắng. Và tôi cũng từng chuyện trò cởi mở với các cựu đệ nhất phu nhân Rosalynn Carter, Barbara Bush và Laura Bush cùng nhiều trợ lý cấp cao của Nhà Trắng. Hầu hết mọi người đều nhiệt tình cho tôi biết về những người làm việc siêng năng và lặng lẽ phía sau hậu trường.
[**](Thời kỳ thịnh vượng dưới thời tổng thống Kennedy.)
Dù hy sinh và làm việc chăm chỉ đến đâu thì những người giúp việc trong dinh vẫn kiên trì lẩn tránh ánh đèn sân khấu – và không chỉ ở nghĩa bóng. “Theo luật bất thành văn thì chúng tôi phải ở trong hậu trường. Nếu nhìn thấy máy quay phim hay máy chụp hình, chúng tôi phải luồn trước lách sau để tránh né cho bằng được,” Quản lý James W.F. “Skip” Allen quả quyết. Những người giúp việc mà tôi phỏng vấn đều thể hiện sự thông minh pha lẫn nét tính cách khiến tôi càng muốn biết nhiều hơn về cuộc đời họ. Nhiều người trong số họ sở hữu tính hài hước pha chút châm biếm và thậm chí là ranh mãnh. Sau buổi phỏng vấn, bác phục vụ James Hall đã về hưu nhất định dẫn tôi băng ngang hành lang đông đúc của nhà hưu trí nơi ông ở với tốc độ rất chậm để tiễn tôi ra cửa. Ông công nhận mình làm thế không chỉ vì lịch sự mà còn vì muốn mọi người thấy ông đang đi cùng một phụ nữ trẻ. “Cứ như trong phim Peyton Place vậy!” ông phá lên cười.
Công việc tìm tòi nghiên cứu của tôi đã kéo tôi ra khỏi Washington cùng các vùng phụ cận. Nơi ông Allen lui về hưu trí là một trang trại rộng 550m2 mang phong cách kiến trúc của thế kỷ 19 ở Bedford, Pennsylvania. Chúng tôi vừa nhâm nhi món sandwich kẹp xà lách gà dưới cơn mưa phùn cạnh hồ bơi nhà ông vừa nghe ông kể về mối quan hệ thân thiết giữa tổng thống với các nhân viên (“chẳng có gì lạ nếu như một tổng thống biết ngày sinh nhật của ai đó”) và nói về gánh nặng của nghề làm tổng thống (“Cô thử kể tên một tổng thống bất kỳ xem. Không ai rời Nhà Trắng mà trông trẻ hơn khi họ bước vào.”)
Mặc dù không được ai để mắt đến trong các sự kiện long trọng và những chuyến viếng thăm cấp chính phủ nhưng những người giúp việc ở Nhà Trắng rất quan trọng với đời sống công và tư của tổng thống Mỹ. “Trên phương diện nào đó, tôi và gia đình tôi luôn xem họ như những đồng chủ nhà với tổng thống và đệ nhất phu nhân,” Tricia Nixon Cox, con gái lớn của Tổng thống Nixon nói với tôi. “Họ khiến mọi thứ trở nên rất đẹp đẽ ấm cúng.”
Đôi lúc họ còn giúp các cặp vợ chồng nổi tiếng nhất thế giới vượt qua cơn giông bão để bình tâm trở lại, dù chỉ vài giờ. Ở đỉnh điểm của vụ tai tiếng Monica Lewinsky, một số nhân viên cho tôi biết bà Hillary Clinton trông rất buồn phiền mệt mỏi. Họ nói họ thấy thương bà và biết bà đang rất cần một thứ mà bà không thể có lúc đó: sự riêng tư. Quản lý Worthington White nhớ mình đã cho hết khách tham quan Nhà Trắng ra về và tách các nhân viên mật vụ của đệ nhất phu nhân ra xa để bà có được vài giờ ngắn ngủi ngồi lặng lẽ bên hồ bơi. Có thể giúp được phu nhân Clinton “có ý nghĩa rất lớn đối với tôi”, ông White nói.
Những người làm việc trong dinh cũng thỉnh thoảng chứng kiến niềm hân hoan của một tổng thống mới nhậm chức khi đạt đến đỉnh cao chính trường Mỹ. Năm 2009, sau khi dạ tiệc khiêu vũ kết thúc, gia đình Obama bắt đầu chuyển vào sống đêm đầu tiên trong Nhà Trắng. Nhưng họ vẫn chưa sẵn sàng để ngủ lúc ông White lên lầu đưa một số giấy tờ lúc đêm khuya. Khi lên đến tầng hai, ông nghe được điều khác thường.
“Bất chợt tôi nghe tiếng Tổng thống Obama kêu lên, ‘Tôi làm được rồi, tôi làm được rồi. Tôi vào được đây rồi’, rồi tiếng nhạc đột nhiên vang lên và đó là bài hát của Mary J. Blige [**].” Các cư dân mới của tòa nhà đã cởi bỏ bộ y phục trang trọng của họ. Lúc này, tổng thống chỉ còn mặc sơ mi còn đệ nhất phu nhân mặc áo phông quần thể thao. Tổng thống tóm lấy đệ nhất phu nhân và “cả hai khiêu vũ với nhau” theo điệu hit “Real Love” của Blige, White nhớ lại. Người quản lý ngưng một lúc. “Đó là cảnh tượng đẹp đẽ đáng yêu nhất ta có thể tưởng tượng.”
[**](Một ca sĩ da đen.)
“Tôi cá là ông chưa bao giờ nhìn thấy điều gì giống vậy trong ngôi nhà này, phải không?” Obama hỏi khi vẫn đang khiêu vũ cùng vợ.
“Tôi thành thực thưa với ông rằng tôi chưa nghe ai chơi nhạc Mary J. Blige trên tầng này bao giờ,” White trả lời.
Ông không biết vợ chồng nhà Obama còn tiếp tục khiêu vũ ở đó bao lâu, nhưng rõ ràng là họ mong muốn tận hưởng giây phút này.
NHIỀU ĐỆ NHẤT gia đình nói rằng họ xem những người giúp việc ở tư dinh như những chủ nhân thực sự của Nhà Trắng. Tổng thống Carter gọi họ là “chất keo gắn kết ngôi nhà”. Một nhân viên gọi các đồng nghiệp của mình là “một nhóm người ăn uống ngủ nghỉ trong Nhà Trắng”.
Trong Nhà Trắng có khoảng 96 nhân viên làm việc toàn thời gian và 250 nhân viên bán thời gian, bao gồm các quản lý, bếp trưởng, nhân viên cắm hoa, nhân viên làm phòng, nhân viên phục vụ, nhân viên gác cửa, thợ sơn, thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, kỹ sư và nhân viên thư pháp. Ngoài ra còn có khoảng 24 nhân viên khác của Cục Quản lý Vườn Quốc gia (National Park Service) phụ trách chăm sóc khuôn viên Nhà Trắng. Những người làm việc trong tư dinh đều là công chức liên bang được tuyển dụng để phục vụ tổng thống.
Trung tâm hoạt động của các nhân viên trong Nhà Trắng là Phòng Quản lý nằm ở tầng Khánh tiết, gần lối vào Cửa Bắc (North Portico). Tổng Quản lý là người phụ trách nguồn ngân quỹ do Quốc hội cấp để vận hành tòa nhà, bao gồm tiền sưởi, tiền chiếu sáng, tiền máy lạnh và lương nhân viên. Năm 1941, khi số nhân viên phục vụ tòa nhà là 62 người thì ngân sách hằng năm chỉ có 152.000 đô la. Sau gần 75 năm, cùng với sự tăng vọt của số lượng nhân viên, chi phí điều hành, lạm phát và nhiều thứ khác, ngân sách hằng năm giờ đây đã là khoảng 13 triệu đô la (Đó là chưa tính số 750.000 đô la dành cho việc sửa chữa và trùng tu Nhà Trắng hằng năm).
Công việc của người tổng quản lý cũng giống như của một tổng giám đốc khách sạn, chỉ khác ở chỗ là phục vụ duy nhất một người. Vị tổng quản lý này kết hợp chặt chẽ với đệ nhất phu nhân để điều hành toàn bộ nhân viên trong tòa nhà. Dưới tổng quản lý là một phó quản lý cùng đội ngũ quản lý chịu trách nhiệm giám sát nhiều phòng ban khác nhau như Phòng Buồng hay Phòng Hoa. Các quản lý là những người mà khách tham quan Nhà Trắng, bao gồm cả khách mời riêng của gia đình tổng thống, liên hệ. Họ cũng là người ghi chép lại mọi hoạt động của tổng thống trong Nhà Trắng và những tư liệu này sẽ được chuyển vào các Thư viện Tổng thống để các thế hệ sau tham khảo.
Công việc của người tổng quản lý Nhà Trắng hiện nay phức tạp đến mức đòi hỏi ở người đảm trách vị trí này tính nghiêm khắc và kỷ luật của quân đội. Trước khi chuẩn Đô đốc Tuần duyên Hoa Kỳ Stephen Rochon được Tổng thống George W. Bush bổ nhiệm làm Tổng Quản lý năm 2007 – và trở thành người thứ tám, cũng là người Mỹ gốc Phi đầu tiên, chính thức đảm nhiệm vai trò này – ông phải trải qua tám đợt phỏng vấn và liên tục đi đi về về giữa trạm tuần duyên ở Norfolk, Virginia, và Nhà Trắng. Đợt phỏng vấn cuối cùng của ông là với tổng thống ở Phòng Bầu dục. Tổng thống Bush tự hỏi không biết ông Rochon có hài lòng với danh hiệu mới tưởng như khiêm tốn của ông không.
“Ông nghĩ gì về công việc tổng quản lý?” Ông Bush hỏi.
Rochon trả lời: “Thưa ngài tổng thống, có gì hay trong chức danh này?”
Rõ ràng là có rất nhiều thứ: Khi Rochon được tuyển vào làm, vị trí này được đặt tên lại là Tổng Quản lý Nhà Trắng và Giám đốc Dinh Hành chính, với một bản mô tả công việc rõ ràng ấn tượng hơn hẳn trước. Từ tháng 10 năm 2011, công việc này được đảm nhiệm bởi Angella Reid, cựu tổng giám đốc hệ thống khách sạn Ritz–Carlton ở Arlington, Virginia – người phụ nữ đầu tiên và người Mỹ gốc Phi thứ hai nắm giữ vị trí này.
Nhưng dù danh hiệu này có oai đến mấy thì mục đích của nó cũng chỉ đơn giản là cung cấp bất cứ thứ gì gia đình tổng thống cần. Với Tổng Quản lý J.B. West thì điều này bao gồm cả việc xới tung tòa nhà để tìm mấy con hamster thất lạc của cô bé Caroline Kennedy và huy động hàng chục chuyên gia chỉ để buộc họ đáp ứng yêu cầu cung cấp áp lực nước mạnh cho chiếc vòi sen của tổng thống. Bà Jacqueline Kennedy gọi West là “người đàn ông quyền lực nhất Washington sau tổng thống”.
Từ người giữ vị trí cao nhất cho đến người mới vào, để được tuyển vào Nhà Trắng không chỉ đơn giản là viết thư trả lời thông báo tuyển dụng hay xin việc qua mạng. “Công việc trong Nhà Trắng không được thông báo rộng rãi ra ngoài,” Tony Savoy, Trưởng phòng Điều hành Nhà Trắng cho đến năm 2013 cho biết. “Hầu như tất cả những người được tôi phỏng vấn đều do người thân trong gia đình hay bạn bè giới thiệu. Những người này phải chịu trách nhiệm về người họ đưa vào.” Hầu hết các nhân viên đều tiếp tục làm việc ở đó hàng chục năm, thậm chí hàng thế hệ. Gia đình Ficklin chẳng hạn, có đến chín người làm việc trong Nhà Trắng.
Mỗi chính quyền đều bổ nhiệm một thư ký phụ trách sự kiện xã hội riêng. Vị trí này trước đây vẫn rơi vào tay một người phụ nữ cho đến khi Jeremy Bernard được gia đình Obama bổ nhiệm năm 2011 để trở thành người đàn ông đầu tiên, cũng là người đồng tính công khai đầu tiên, giữ chức vụ thư ký phụ trách sự kiện xã hội. Thư ký xã hội hoạt động như một cầu nối giữa đệ nhất gia đình với những người giúp việc, và giữa khu Cánh Tây với khu Cánh Đông. Đây là vị trí liên quan đến việc giám sát việc sắp xếp chỗ ngồi cho khách dự tiệc và khách tham dự các sự kiện chính thức ở Nhà Trắng. Người thư ký phụ trách sự kiện xã hội sẽ phát bảng công tác cho các nhân viên trong tư dinh để họ biết có bao nhiêu người tham dự sự kiện và những phòng nào sẽ được sử dụng cho sự kiện này.
Người thư ký xã hội thường bị giằng co giữa hai phe bất đồng ý kiến. Letitia Baldridge, người phụ trách vị trí này dưới thời chính quyền Kennedy, từng viết cho tổng thống nhiều thư phản đối mái tóc dài của John John mà đệ nhất phu nhân rất thích. Khi tổng thống nhất định bắt con đi cắt tóc, bà Jackie Kennedy không thèm nói chuyện với Baldrige suốt ba ngày liền.
Các nhân viên làm việc trong dinh có thể giúp cho việc lèo lái vô số các bữa tiệc và việc tuân thủ các truyền thống lâu đời của người thư ký xã hội dễ dàng hơn rất nhiều. Julianna Smoot, thư ký xã hội của gia đình Obama từ năm 2010 đến năm 2011, tin rằng nhóm thư pháp viên Nhà Trắng làm việc trong căn phòng nhỏ dưới sảnh đối diện Phòng Xã hội ở Cánh Đông đã cứu cô thoát khỏi một trường hợp sơ suất trong thời gian cô làm việc ở đó. Vào một ngày cuối hè năm 2010, một trong ba thư pháp viên phụ trách phát hành một lượng lớn thiệp mời cho khách đến dự các sự kiện ở Nhà Trắng đến gặp cô và hỏi: “Cô đã nghĩ đến Giáng Sinh chưa?”
“Giáng sinh tháng 12 cơ mà. chúng ta có thể nói chuyện này sau khi gần đến đó được không?” Smoot nói. Cô nghĩ là còn lâu mới đến Giáng Sinh và từ đây đến đó có quá nhiều sự kiện cần tổ chức trước.
“Chúng ta hiện đã trễ so với kế hoạch,” nhân viên thư pháp lo lắng nói.
Smoot bàng hoàng. “Đúng là tôi không biết chuyện này,” sau này cô nhớ lại. “Lúc đó tôi rất hoảng sợ. Chúng tôi phải tìm chủ đề cho Giáng Sinh và viết thiệp Giáng Sinh. Tôi nghĩ sở dĩ chúng tôi có Giáng Sinh năm 2010 cũng là nhờ các nhân viên thư pháp.”
Người thư ký phụ trách sự kiện xã hội đôi khi còn phải đưa tin dữ đến các nhân viên thay cho đệ nhất phu nhân, vốn không muốn dính dáng đến chuyện này. Khi bà Laura Bush tuyển Lea Berman vào làm thư ký xã hội mới cho bà, Berman được giao nhiệm vụ kéo Quản bếp Walter Scheib ra riêng để nói ông ngưng phục vụ “món bình dân đó” cho gia đình tổng thống. Scheib nói ông chỉ làm đúng theo yêu cầu tổng thống, ngoài ra phần lớn những món ăn ông chuẩn bị không thể bị gọi là “món bình dân”. Mặc dù nó chẳng phải là món được tầng lớp trí thức ưa chuộng nhưng “Nếu tổng thống muốn ăn bánh mì phết bơ đậu phộng với mật ong thì chúng tôi sẽ làm món bánh mì bơ đậu phộng mật ong ngon nhất có thể,” Scheib nói. “Đó là món tổng thống muốn ăn, cô cẩn thận lời nói.” Khi Berman bắt đầu chìa cho ông xem những trang sách nấu ăn được nhiều người yêu thích của Martha Stewart, ông đã nổi điên lên.
Christine Limerick quản lý khoảng 20 nhân viên Phòng buồng từ năm 1979 đến năm 2008 (bà tạm ngưng công việc từ năm 1986 đến năm 1991), trong đó 6 người làm việc ở tầng hai và tầng ba, nơi gia đình tổng thống sinh sống (các cô hầu phòng cùng một người phụ trách hút bụi và di chuyển đồ vật nặng), 2 người chuyên việc giặt giũ, số còn lại phụ trách khu vực khách tham quan và Phòng Bầu dục (Đội ngũ này được bổ sung thêm nhân sự khi trong dinh có khách và có các sự kiện lớn như dạ tiệc ở cấp quốc gia).
Nhà Trắng cũng tuyển dụng một đội ngũ cắm hoa, dẫn đầu là một tổ trưởng tổ hoa. Nhiệm vụ của họ là mỗi ngày cắm sẵn các bình hoa trong Phòng Hoa. Căn phòng này nằm trong một không gian nhỏ ở Tầng Trệt, phía dưới con đường lái xe ra vào ở Cửa Bắc. Đội ngũ cắm hoa có trách nhiệm thiết kế những bình hoa độc nhất vô nhị phù hợp với sở thích của đệ nhất gia đình. Vào dịp lễ lạt và mỗi khi tổ chức yến tiệc, các nhân viên cắm hoa đều phải gọi thêm tình nguyện viên đến giúp. Nhà Obama thường nhờ các công ty tổ chức sự kiện ở Chicago đến giúp chuẩn bị quốc yến và trang trí lễ Giáng Sinh. Tổ trưởng tổ hoa chú trọng những nơi công chúng qua lại và giúp kiểm tra tất cả những bình hoa đã cắm. Các nhân viên Phòng Hoa cũng chia sẻ trách nhiệm trang trí toàn bộ tòa nhà phức hợp, từ khu nhà riêng ở tầng hai và tầng ba đến khu Cánh Tây, Cánh Đông và các phòng công cộng. Không một góc nào trong Nhà Trắng bị bỏ sót.
Reid Cherlin, phát ngôn viên của Tổng thống Obama, nhớ mình đã ngưỡng mộ công việc này đến thế nào. “Điều khiến tôi luôn ấn tượng chính là hoa. Buổi sáng khi bước vào khu Cánh Tây, nếu đến đúng lúc, ta sẽ được chứng kiến cảnh các nhân viên cắm hoa đang đưa các bình mẫu đơn tươi rói ra bài trí các nơi,” ông nói. “Có gì đó thật tuyệt vời trong việc đặt hoa tươi ở một nơi không nhất thiết có người qua lại. Trang trí hoa tươi trên bàn cà phê ở Phòng Bầu dục là một chuyện, nhưng đặt chúng ở những nơi chẳng ai tụ tập lại là chuyện khác.”
Bob Scanlan, làm việc ở Phòng Hoa từ năm 1998 đến năm 2010, cho biết tất cả mọi người đều chung tay làm việc để dinh tổng thống trông hoàn mỹ nhất có thể. “Nếu có một bông hoa rơi khỏi bình, chắc chắn người quản lý bộ phận phòng sẽ đến Phòng Hoa và nói: ‘Các anh hãy vào Phòng Đỏ (Red Room) mà xem, các cánh hoa rụng đầy trên bàn. Tôi đã nhặt nhưng có vẻ như chúng vẫn tiếp tục rơi rụng.’ Chúng tôi phải luôn xem chừng nhau bởi mỗi một chuyện xảy ra đều ảnh hưởng đến uy tín tất cả mọi người.”
Tòa nhà có 6 nhân viên phục vụ cố định, ngoài ra còn có hàng chục nhân viên phục vụ bán thời gian thường xuyên lui tới để giúp chuẩn bị quốc yến và tiệc chiêu đãi. Trong số 6 nhân viên phục vụ toàn thời gian, một người được chỉ định làm quản lý tổ phục vụ. Còn công việc chăm sóc nhu cầu riêng của tổng thống thì do những người hầu riêng của ông đảm nhiệm. Những người này lúc nào cũng túc trực cạnh tổng thống. Thường thì có hai người hầu riêng làm việc theo ca. Họ là người trong quân đội và phụ trách vấn đề y phục, chạy việc, đánh giày cho tổng thống, đồng thời cũng phải phối hợp làm việc với các cô hầu phòng. Ví dụ, nếu thấy giày của tổng thống cần đóng lại đế, người hầu riêng này phải thông báo cho một thành viên của tổ phòng buồng biết. Buổi sáng khi tổng thống đến Phòng Bầu dục, anh ta phải đứng ngay gần đó để phòng khi tổng thống cần thứ gì, cho dù đó là tách cà phê, bữa ăn sáng hay chỉ một viên kẹo ho. Khi tổng thống đi xa, anh ta phải sắp hành lý cho ông và ngồi vào đoàn xe hộ tống, trên tay cầm sẵn chiếc sơ mi hay chiếc cà vạt dự phòng để phòng khi vị tổng tư lệnh bị đổ thứ gì lên đó cần thay gấp.
Ngay ngày đầu tiên sau lễ nhậm chức, Tổng thống George W. Bush đã sốc khi gặp những người hầu riêng của ông. Bà Laura Bush cho biết: “Có hai thanh niên đến gặp George và tự giới thiệu họ là người hầu của ông ấy. Ông ấy vội vã đến gặp ba mình và nói: ‘Có hai cậu vừa đến gặp con và tự giới thiệu là người hầu riêng của con, nhưng con đâu cần người hầu. Con không muốn có người hầu.’” Tổng thống George H.W. Bush nói: ‘Rồi con sẽ quen thôi.’” Và đúng như thế thật. Sớm muộn gì, bất cứ tổng thống nào cũng sẽ biết ơn chuyện mình không phải lo lắng đến chuyện xếp dù chỉ là một chiếc sơ mi vào vali.
CÁC GIA NHÂN ở đó để giảm bớt gánh nặng cuộc sống hằng ngày cho gia đình tổng thống, vốn thường xuyên không có thời gian nấu nướng, mua sắm hay quét dọn. Họ cũng phục vụ trong điều kiện an ninh cao nhất có thể – có tòa nhà nào được cả một đội quân bắn tỉa liên tục canh chừng trên mái như tòa nhà này không? – và phải làm quen với một công việc rất ít sự riêng tư. Nhiều người nhận xét rằng sống trong Nhà Trắng không khác gì ở tù – mặc dù, như bà Michelle Obama ghi nhận, thì “đó là một nhà tù rất dễ chịu”.
Betty Finney (có biệt danh “Betty bé nhỏ” bởi dáng người nhỏ nhắn của bà), một người làm phòng lâu năm ở Nhà Trắng, nói rằng mức độ an ninh cao giúp những người làm việc ở đây và gia đình tổng thống thấy an toàn. “Ta biết các tay súng bắn tỉa đang ở trên đó bảo vệ cho ta, vậy cớ gì ta không thoải mái làm việc?” Bà nói. “Ta sẽ thắc mắc không biết họ ở đâu nếu không nhìn thấy bóng dáng họ.”
Tuy nhiên những sơ suất an ninh gần đây cho thấy tính dễ tổn thương của biểu tượng hùng mạnh của nền dân chủ Hoa Kỳ và của gia đình gọi nơi đó là nhà. Chúng cũng cho thấy công việc của một gia nhân đa dạng ra sao và mang tính quyết định thế nào. Là tổng thống da đen đầu tiên của Hoa Kỳ, ông Obama phải đương đầu với các mối đe dọa nhiều hơn gấp ba lần những người tiền nhiệm. Năm 2014, những người giúp việc đã hoảng kinh khi một người đàn ông mang dao trèo qua hàng rào Nhà Trắng, băng qua Bãi cỏ phía bắc (North Lawn) rồi tiến sâu vào tầng chính của dinh tổng thống, vượt qua mặt nhiều nhân viên mật vụ trước khi bị một nhân viên ngoài ca trực chặn lại. Trong một vụ đột nhập kinh hoàng khác xảy ra năm 2011, một cô hầu phòng đã vô tình trở thành một dạng thám tử tư khi là người đầu tiên nhìn thấy kính cửa sổ bị vỡ và một mảng bê tông trắng nằm trên sàn ban công Truman (Truman Balcony). Phát hiện của cô cho thấy có người đã bắn ít nhất bảy viên đạn vào tư dinh tổng thống vài ngày trước (Cơ quan mật vụ cũng biết về vụ nổ súng này nhưng lại nghĩ rằng các băng đảng đối nghịch bắn nhau chứ không nhắm vào tòa hành pháp). Các cô hầu phòng ở Nhà Trắng đều được huấn luyện để “biết cách quan sát” và báo cáo lại khi thấy có gì bất thường, Limerick nói, nhất là khi điều đó có thể gây nguy hiểm cho gia đình tổng thống.
Cuộc sống trong dinh tổng thống hẳn nhiên là chẳng thể bình thường cho dù các nhân viên có cố gắng cách mấy để tổng thống cùng gia đình được tự nhiên thoải mái. Ngoài những mối bận tâm về mặt an ninh, Nhà Trắng cũng không hề giống một căn hộ bình thường ở Mỹ. Ron, con trai của vợ chồng Reagan, kể cho tôi nghe chuyện hai vợ chồng anh đến thăm cha mẹ ở Nhà Trắng. Họ đến quá trễ để có thể ăn tối cùng gia đình nên quyết định sục sạo trong căn bếp trên khu nhà riêng để tìm ít trứng và cái chảo. Nghe tiếng sục sạo giữa khuya, một nhân viên phục vụ chạy vào với thái độ quan tâm.
“Tôi giúp gì được cho anh? Anh có muốn tôi gọi ai đó giúp anh không?”, anh ta sốt sắng hỏi.
“Không, cảm ơn,” Ron trả lời. “Nhưng anh có thể cho tôi biết trứng để ở đâu không? Với lại anh cất chảo ở đâu?”
Người nhân viên phục vụ tỏ vẻ không vui. Không một nhân viên nào ở đây mong muốn thấy mình vô dụng. Cuối cùng, Ron đành phải nhờ anh ta mang ít trứng ở căn bếp dưới Tầng Trệt lên vì trong bếp nhà Reagan không có trứng.
“Họ thực sự, thực sự rất muốn làm công việc họ đang làm. Họ không muốn trơ mắt đứng nhìn.”
Bà Hillary Clinton là một thành viên khác trong gia đình tổng thống muốn thỉnh thoảng có thể tự lo cho bản thân. Bà thiết kế một chỗ ăn trong căn bếp tầng hai để gia đình bà có thể cùng nhau dùng bữa một cách thoải mái.
“Tôi biết mình làm đúng khi Chelsea bị ốm tối hôm đó,” bà nói. Tối hôm đó, bà nhớ lại, người phục vụ đã như “phát cuồng” khi bà đích thân vào bếp khuấy trứng cho con.
“Ồ, chúng tôi sẽ đem trứng tráng dưới nhà lên cho bà,” người phục vụ nói.
“Không, tôi chỉ muốn làm ít trứng khuấy với sốt táo cho con tôi thôi. Đây là món mà tôi sẽ cho nó ăn nếu như chúng tôi đang sống ở bất cứ nơi nào khác trên đất Mỹ.”
Mặc dù gia đình tổng thống đôi khi cũng mong muốn quên đi sự uy nghi của tòa dinh thự, nhưng nhiều gia nhân nói họ tìm thấy sự khuây khỏa trong công việc của mình. “Nếu ta có một ngày không mấy vui với một thành viên gia đình tổng thống hay với nhân viên của họ, ta hãy bước ra khỏi đó và ngắm nhìn tòa nhà,” Limerick nói. “Nếu tôi nhìn thấy Nhà Trắng sáng đèn buổi tối, tôi sẽ nghĩ rằng Mình đang làm việc trong tòa nhà này và có phúc lắm mới được làm ở đây. Suy nghĩ này giúp tâm trí tôi thông thoáng hơn và tôi lại có thể tiếp tục đối phó với ngày hôm sau.”
NHÀ TRẮNG LÀ hiện thân vật chất của nền dân chủ Hoa Kỳ. Tòa nhà này tọa lạc trên một mảnh đất 18 mẫu Anh ở ngay trung tâm Washington D.C, nơi khuôn viên được Cục Quản lý vườn Quốc gia quanh năm chăm sóc. Tòa nhà chính, được biết đến dưới tên gọi chính thức là tòa hành pháp (executive mansion) được phân thành hai khu vực công và tư. Bề ngoài tòa nhà trông như chỉ ba tầng nhưng thiết kế của nó đánh lừa mọi người bởi nó thực sự có đến sáu tầng, tức thêm hai tầng lửng nhỏ nữa. Ngoài hai tầng dưới mặt đất ra thì có Tầng Trệt (Ground Floor), nơi đặt nhà bếp chính, Phòng Hoa và Phòng Mộc. Kế đến là Tầng Khánh tiết (State Floor), còn được gọi là tầng một. Rồi đến hai tầng lửng, nơi đặt văn phòng Tổng Quản lý và Bếp bánh ngọt. Còn tầng hai và tầng ba là khu nhà riêng của gia đình tổng thống. Bếp nhân viên và nhà kho nằm ở dưới tầng hầm. Ở Cánh Đông và Cánh Tây có những tầng bí mật, trong đó căn phòng nổi tiếng nhất là Phòng Tình huống (Situation Room) nằm bên dưới khu Cánh Tây. Căn phòng này đã trở thành biểu tượng quyền lực của tổng thống, nơi vị tổng tư lệnh tập hợp các cố vấn để giải quyết những khủng hoảng lớn và thực hiện những cuộc điện đàm không bị nghe lén với các lãnh đạo nước ngoài.
Các gia nhân có quán ăn tự phục vụ, phòng ăn, phòng khách và khu cất giữ đồ dùng riêng ở tầng lửng (thật ra là trọn cả một tầng) dưới tầng hầm bên dưới lối vào Cửa Bắc. Quán ăn tự phục vụ của họ nằm cách xa khu bếp chính Tầng Trệt, nơi chuẩn bị các bữa ăn cho đệ nhất gia đình và cho các sự kiện chính thức, bao gồm các bữa tiệc cấp quốc gia (Ngoài ra còn có một căn bếp nhỏ khác ở tầng hai của tòa nhà dành riêng cho các bữa ăn thân mật trong gia đình). Trước đây, những người giúp việc ở tư dinh vẫn thường tụ tập ở quán ăn tự phục vụ dưới tầng hầm để ăn uống, nói chuyện và nghỉ ngơi thư giãn. Suốt nhiều năm trời, họ đến đây để thưởng thức các món ăn truyền thống miền Nam nấu tại nhà, gồm gà chiên, bánh mì ngô với đậu tây, do một nhóm đầu bếp Mỹ gốc Phi phụ trách. Trong nhóm đầu bếp này có Miss Sally, một cô gái hay đội những chiếc nón cầu kỳ khi không phải làm việc và rất thích trêu chọc các đồng nghiệp và nhiều lúc còn chửi thề trong lúc phục vụ ăn uống cho họ. Mặc dù mới đây quán phải ngừng hoạt động để tiết kiệm chi phí – trước sự thất vọng của nhiều nhân viên – nhưng đây vẫn là nơi mọi người tụ tập, mang đồ ăn ở nhà đến ăn và tán gẫu.
Thỉnh thoảng các trợ lý chính trị hàng đầu cũng xuống đây ăn tối cùng những người giúp việc. Reggie Love, cựu trợ lý cá nhân của ông Obama – người được gọi là “tay chân” của Obama – thân với một số nhân viên phục vụ đến mức cuối tuần nào anh cũng vào bếp ăn chung với họ khi quán Navy Mess dành cho nhân viên khu Cánh Tây đóng cửa. Love rời Nhà Trắng năm 2011 nhưng mỗi khi lên thành phố, anh vẫn đến Nhà Trắng chơi bài với các nhân viên phục vụ.
CÁNH TÂY LÀ nơi đặt Phòng Bầu dục và văn phòng của các viên chức cao cấp của tổng thống. Cánh Đông là nơi đặt văn phòng của đệ nhất phu nhân và văn phòng của các nhân viên của bà. Thời gian đi bộ từ khu này sang khu kia bằng với thời gian băng ngang một sân bóng.
Mỗi sáng, các nhân viên phải trái thảm ra và đưa dây, cột đến khu vực khách tham quan ở Tầng Trệt và Tầng Khánh tiết. Mỗi chiều, sau khi hàng ngàn người ra về, họ phải quét dọn, mang các cây cột đi và cuộn thảm lại để nếu như gia đình tổng thống muốn xuống Tầng Khánh tiết thì nơi này sẽ trông không quá hào nhoáng như nơi dành cho khách tham quan.
“Cho đến khi tôi làm việc ở đó, tôi không thích việc tổng thống và đệ nhất phu nhân sống quá gần nơi du khách đến tham quan. Họ chỉ sống cách đó mỗi một tầng,” Katie Johnson, thư ký riêng của Tổng thống Obama từ năm 2009 đến 2011 nói. Trách nhiệm của cô là giúp tổng thống theo đúng lịch trình làm việc và phối hợp với đệ nhất phu nhân cùng các gia nhân. Cô cũng được chỉ định làm một công việc chẳng ai muốn làm là thông báo cho các nhân viên Cánh Đông biết hôm đó tổng thống có kịp về ăn tối với gia đình không.
Dinh thự này cho ta cảm giác “giống như một căn hộ rất rất cao cấp ở New York,” cô thẳng thắn nói. “Biết bao nhiêu chuyện xảy ra bên ngoài và xung quanh, nhưng một khi ta vào đến bên trong thì đó chính là nhà.”
Katie McCormick Lelyveld, thư ký báo chí thứ nhất của bà Michelle Obama thỉnh thoảng cũng đến làm việc trong văn phòng sát cạnh phòng chăm sóc sắc đẹp ở tầng hai. Trong trí nhớ của cô, các tầng đó yên tĩnh biết bao so với không gian ồn ào náo nhiệt bên dưới. “Có chưa đến mười hai người qua lại trong cái không gian riêng tư đó. Họ cố xem nơi đó như nhà riêng, ở đó, các đặc vụ không được đứng trong phòng mà phải đứng bên ngoài.”
“Nhà Trắng được xây theo quy mô con người,” Tricia Nixon Cox nói. Có một ngày, sau lễ tiếp đón quan khách ở Bãi cỏ phía nam, một hoàng thân Âu châu quay sang cô và nói: “Nơi này đúng thực là một ngôi nhà.” Ông ngạc nhiên trước quy mô nhỏ bé của tòa hành pháp khi so sánh nó với những lâu đài ông từng biết. “Với ông ấy thì tòa nhà này rất nhỏ!”
Tòa nhà này có thể không đồ sộ như một số lâu đài vua chúa nhưng không hề nhỏ. Sảnh vào rộng lớn ở phía bắc mở ra một bên là Phòng Đông (East Room) dài 24 mét, còn bên kia là Phòng Quốc yến, thường được sử dụng để tổ chức yến tiệc thiết đãi các nguyên thủ nước ngoài. Giữa hai phòng này còn có thêm ba phòng nữa là Phòng Lục (Green Room), Phòng Lam (Blue Room) và Phòng Đỏ (Red Room).
Các phòng riêng của gia đình tổng thống trên tầng hai và tầng ba được nối với một hành lang chính ở mỗi tầng, gồm 16 phòng và 6 phòng tắm ở tầng hai, 20 phòng và 9 phòng tắm ở tầng ba. Các cô hầu phòng và người hầu riêng của tổng thống nhiều khi cũng sống ở trên các tầng đó như con cái tổng thống. Phòng dành cho khách đến ngủ qua đêm không được đánh số trên cửa, nhưng vẫn được các nhân viên trong dinh gọi bằng số phòng như trong khách sạn. Hằng tuần, mỗi cô hầu phòng lại được phân công vệ sinh một số phòng. Tất cả bọn họ đều ghét phòng số 328.
Theo nhân viên phòng Betty Finney thì “Đây là căn phòng khó vệ sinh nhất!” Chiếc giường trong phòng 328 là loại giường có đầu giường và đuôi giường cao. “Rất khó làm. Mỗi khi làm giường, ta đều muốn nó trông gọn gàng ngăn nắp, nhưng với loại giường này thì rất khó làm gọn gàng. Tất cả chúng tôi đều biết mình phải làm chiếc giường đó, chỉ là chúng tôi sợ phải làm chiếc giường đó mà thôi.”
Ở mỗi tầng chính đều có một phòng hình bầu dục. Ở Tầng Trệt có Phòng Tiếp đón Phái đoàn Ngoại giao (Diplomatic Reception Room), nơi Tổng thống Roosevelt thường ngồi trò chuyện bên lò sưởi, cũng là nơi đệ nhất gia đình từ đó bước ra để đến khu nhà ở. Ở Tầng Khánh tiết có Phòng Lam nhìn xuống Bãi cỏ phía nam. Căn phòng này được đặc trưng bởi chùm đèn pha lê kiểu Pháp cùng những chiếc rèm xa-tanh xanh rực rỡ. Còn ở tầng hai thì có Phòng Bầu dục Vàng (Yellow Oval Room) dẫn ra Ban công Truman. Ban công này trước đây là một thư viện có lối đi riêng dẫn đến phòng làm việc của Tổng thống Lincoln, nay là Phòng ngủ Lincoln (Lincoln Bedroom). Phòng này được tạo ra để giúp Tổng thống Lincoln lẩn tránh đám đông đang chờ gặp ông ở phòng Hiệp ước (Treaty Room). Hiện nay, phòng này là phòng đọc sách của tổng thống. Mãi đến cả chục năm sau, khu Cánh Tây, nơi có Phòng Bầu dục, mới được xây lên. Cho tới lúc đó, dinh thự này được sử dụng làm nhà ở và văn phòng làm việc của tổng thống.
Tòa hành pháp có bốn cầu thang: cầu thang thứ nhất là cầu thang lớn (Grand Staircase) dẫn từ tầng Khánh tiết lên tầng hai. Cầu thang thứ hai nằm cạnh thang máy dành cho tổng thống và dẫn từ tầng hầm lên tầng ba. Cầu thang thứ ba là cầu thang xoắn ốc nằm cạnh thang máy nhân viên và dẫn từ tầng lửng ở tầng một, nơi có Bếp bánh ngọt, đến tầng hầm. Và cầu thang thứ tư, một “cầu thang sau” thực sự, dẫn từ tầng hai cạnh Phòng Nữ hoàng – Queen’s Bedroom (một căn phòng sang trọng màu hồng được đặt tên Nữ hoàng do đón tiếp nhiều vị khách hoàng gia) đến tận cuối tầng ba ở phía đông. Các cô hầu phòng thỉnh thoảng lại sử dụng cầu thang này khi cần lên dọn dẹp các phòng ở tầng hai nhưng không muốn xen ngang sinh hoạt của đệ nhất gia đình. Chiếc cầu thang này cho phép họ đi thẳng lên tầng ba rồi vòng xuống phía dưới.
Nhà Trắng được thiết kế bởi kiến trúc sư gốc Ireland James Hoban, người chiến thắng cuộc thi do Tổng thống George Washington và Ngoại trưởng Thomas Jefferson đặt ra. Thiết kế của tòa nhà được lấy ý tưởng từ Leinster House, một dinh cơ lớn mang phong cách Georgean ở Dublin được sử dụng làm tòa nhà Quốc hội Ireland. Các cư dân đầu tiên của Nhà Trắng than phiền tòa nhà quá lớn, điều mà ngày nay ta ít còn nghe thấy khi thỉnh thoảng căn bếp chật chội lại phải chuẩn bị đại tiệc cho hàng trăm khách mời, và khi hầu hết các phòng dành cho khách đều chật cứng bạn bè và gia đình tổng thống vào khoảng thời gian nhậm chức.
Tổng thống George Washington từng tiên đoán rằng Washington D.C. sẽ cạnh tranh với Paris và London về vẻ đẹp và sự vĩ đại. Tuy nhiên lúc đầu thành phố này vẫn bị các thủ đô châu Âu xinh đẹp bỏ xa. Năm 1800, khi Tổng thống John Adams và phu nhân Abigail trở thành cư dân đầu tiên của Nhà Trắng, tòa nhà chỉ có sáu phòng là ở được, và gia đình Adams cũng chỉ mang theo bốn người giúp việc. Ngôi nhà mới của họ còn lâu mới hoàn thành, còn thành phố Washington lại xa xôi, lầy lội và biệt lập đến mức gia đình tổng thống bị lạc suốt nhiều giờ trên đường từ Baltimore đến thủ đô. Khi cuối cùng đến được tòa nhà, họ phải bước qua mấy tấm ván gỗ mới vào được bên trong bởi các bậc thang trước nhà vẫn chưa được xây. Nằm lác đác ở nơi bây giờ là khu Cánh Tây là một phòng giặt cùng các chuồng ngựa, và chính quyền thành phố thậm chí còn phải đóng cửa một nhà thổ hoạt động ngay giữa các ngôi nhà tạm của các công nhân xây dựng Nhà Trắng. (Do các anh thợ mộc và thợ khắc đá rất bực bội chuyện này nên sau đó nhà thổ đã được chuyển đến một nơi khác kín đáo hơn trong thành phố).
Trong thư viết cho con gái, bà Abigail nói: “Tòa nhà không có hàng rào, sân vườn hay bất cứ một tiện nghi nào khác. Cầu thang chính chưa xây xong, và cũng sẽ chưa xong trong mùa đông này.”
Khi chuyển vào sống trong Nhà Trắng, bà Abigail Adams ước tính sẽ phải cần ít nhất ba mươi người giúp việc để vận hành tòa nhà một cách đàng hoàng (Hiện nay có gần một trăm người làm việc ở đây). Các đệ nhất gia đình thời đầu thường mang theo người giúp việc, đầu bếp và người hầu riêng của họ đến, đồng thời bỏ tiền túi ra để trả lương nhân viên. Những th?