← Quay lại trang sách

Chương 1 Sự hỗn loạn được kiểm soát

Việc thay đổi từ chính quyền này sang chính quyền khác trong tòa nhà đến đột ngột như cái chết. Ý tôi muốn nói là điều đó để lại cho ta sự trống rỗng khó hiểu. Mới buổi sáng ta còn phục vụ ăn sáng cho một gia đình ở sát cạnh ta suốt mấy năm trời, vậy mà đến trưa gia đình ấy đã ra khỏi cuộc đời ta và rồi xuất hiện những gương mặt mới, những tính khí mới, những yêu ghét mới

– Alonzo Field, nhân viên phục vụ và quản lý tổ phục vụ, 1931–1953. “21 năm của tôi trong Nhà Trắng, đây là lần duy nhất công việc bỏ tôi” – Walter Scheib, quản bếp, 1994–2005.

Cứ một hay hai lần mỗi thập niên, vào một ngày tháng Giêng lạnh buốt, người Mỹ lại bị cuốn vào sự chuyển giao quyền lực từ tổng thống này sang tổng thống khác. Hàng trăm ngàn người đổ về khu National Mall để xem vị tổng thống mới đắc cử tuyên thệ nhậm chức trong một nghi lễ thanh bình và tổ chức kỹ càng mà Phu nhân Bird Johnson gọi là “cuộc vui lớn bốn năm một lần của nước Mỹ”.

Tuy nhiên, bên trong hậu trường, cái nghi lễ yên bình này lại đi kèm một số lượng kinh hoàng những hoạt động cung ứng phức tạp. Bà Laura Bush gọi việc “chuyển giao gia đình” là “một kiệt tác nghệ thuật được thực hiện với một tốc độ khác thường”, và kiệt tác đó có thành công hay không là tùy thuộc vào kiến thức tổ chức và sự linh động của các nhân viên ở tư dinh. Vào ngày nhậm chức, Nhà Trắng bắt đầu hoạt động sớm hơn bình thường với các nhân viên đến làm việc từ tờ mờ sáng. Khi một ngày kết thúc thì cũng là lúc một kỷ nguyên mới trong lịch sử nước Mỹ bắt đầu.

Nhà Trắng thuộc về gia đình tổng thống sắp mãn nhiệm cho đến trưa, khi nhiệm kỳ của vị tổng thống mới bắt đầu. Buổi sáng ngày nhậm chức, tổng thống sắp mãn nhiệm mời đệ nhất gia đình mới uống cà phê. Ngay trước khi đệ nhất gia đình cũ rời Nhà Trắng, các nhân viên đến đứng chật cứng Phòng Quốc yến sang trọng, nơi họ từng phục vụ rất nhiều bữa tiệc, để nói lời từ biệt với gia đình tổng thống. Trong lòng họ trào dâng nhiều cảm xúc khác nhau khi phải thay một người chủ – với một số người thì đó là một người bạn – để đổi lấy một người khác trong quãng thời gian chỉ sáu tiếng đồng hồ. Nhiều người đã có tám năm gần gũi với cái gia đình sắp ra đi và chưa có thời gian để biết rõ về những cư dân mới. Ít ai cầm được nước mắt, mặc dù nhiều người có thể đang rất phấn khích với tương lai.

“Khi vợ chồng Tổng thống Clinton xuống dưới nhà cùng với con gái Chelsea, họ không nói lời nào,” Tổng quản lý bộ phận phòng Christine Limerick nhớ về ngày nhậm chức năm 2001. “Đến bây giờ, tôi vẫn thấy xúc động khi nhớ lại chuyện Tổng thống Clinton nhìn thẳng vào mặt từng người và nói ‘Cảm ơn’. Cả phòng vỡ òa.”

Giây phút từ biệt, các nhân viên Nhà Trắng thường tặng cho gia đình tổng thống một món quà – đôi khi đó là lá quốc kỳ tung bay trên Nhà Trắng vào ngày tổng thống nhậm chức – đặt trong một chiếc hộp chạm tay rất đẹp do cánh thợ mộc trong Nhà Trắng thiết kế. Năm 2001, bà Limerick cùng Tổ trưởng tổ trang trí hoa Nancy Clarke và Tổng Quản lý mỹ thuật Betty Monkman đã tặng cho bà Hillary Clinton một chiếc gối lớn làm từ các mẫu vải mà trước đây bà đã chọn để trang trí cho các căn phòng khác nhau trong Nhà Trắng.

Mọi người có rất ít thời gian để hồi tưởng quá khứ. Đến khoảng 11 giờ sáng thì hai đệ nhất gia đình rời Nhà Trắng để đến điện Capitol. Từ lúc đó cho đến khoảng 5 giờ chiều – khi tổng thống mới và gia đình ông trở về nghỉ và chuẩn bị cho các buổi dạ vũ nhậm chức – các nhân viên phải kết thúc công việc đưa một gia đình ra và đưa một gia đình khác vào. Trong cái khoảnh khắc hiếm hoi ấy, khi mọi ánh mắt ở Washington và thế giới chuyển từ Nhà Trắng sang Điện Capitol, các nhân viên trong dinh cảm thấy biết ơn khi công chúng tạm thời chuyển hướng chú ý của họ ra khỏi các hoạt động náo loạn bên trong các bức tường Nhà Trắng.

Do việc thuê đội ngũ nhân viên chuyển nhà chuyên nghiệp trong một ngày đòi hỏi hàng loạt quy trình kiểm tra an ninh vô cùng bất tiện, nên các nhân viên trong dinh đành phải tự mình đảm nhiệm việc chuyển hành lý của vị tổng thống mới đắc cử vào và chuyển hành lý của vị tổng thống mãn nhiệm cùng gia đình ông ta ra. Họ không được phép nhờ người bên ngoài giúp đỡ. Suốt ngày hôm đó, trong khi vẫn phải tiếp tục duy trì vai trò truyền thống của họ, các gia nhân còn phải đảm nhiệm thêm công việc của đội ngũ chuyển nhà chuyên nghiệp và chỉ có sáu tiếng đồng hồ để hoàn thành chuyện đó. Do có quá nhiều đồ đạc cần chuyển ra và đòi hỏi rất nhiều sức lao động nên tất cả mọi người đều được huy động đến giúp một tay: trong khi các nhân viên rửa nồi niêu trong bếp phụ sắp xếp đồ đạc bàn ghế thì cánh thợ mộc xếp các khung hình lên mấy chiếc bàn trà. Công việc chuyển nhà nặng nhọc đến mức ngay cái ngày gia đình Clinton chuyển đến, một nhân viên bị chấn thương nặng ở lưng trong lúc nhấc chiếc sofa, và vì thế không thể quay lại làm việc suốt mấy tháng trời.

Với Tony Savoy, người phụ trách giám sát công việc điều hành Nhà Trắng, ngày tổng thống nhậm chức là ngày trọng đại nhất trong sự nghiệp của ông. Ban Điều hành thường phụ trách chuyện tiệc tùng, chiêu đãi, các sự kiện ngoài trời, đồng thời sắp xếp lại đồ đạc để quay các cuộc phỏng vấn trên truyền hình, nhưng trong thời gian tổng thống nhậm chức, họ là đội quân “chuyển đồ ra và chuyển đồ vào”, Savoy cho biết. Khi các xe tải chở đồ đạc của gia đình mới đến, hàng chục nhân viên Nhà Trắng từ nhân viên điều hành, kỹ sư đến nhân viên xưởng mộc và xưởng điện đều đổ xô ra khuân đồ đạc từ trên xe xuống và chuyển chúng đến đúng vị trí mà nhà trang trí nội thất của đệ nhất gia đình mong muốn. “Việc chuyển đồ được gọi là thành công khi không có món đồ nào bị mất” và tiếp tục ở lại vị trí đó bốn năm nữa, Savoy pha trò để che giấu nỗi lo lắng trước nhiệm vụ lạ lùng này.

Trong vòng sáu tiếng đồng hồ, từ lúc gia đình tổng thống cũ đi ra cho đến khi gia đình tổng thống mới đắc cử dọn vào, các nhân viên phải trải thảm sạch ra, thay mới các tấm nệm và phần đầu giường, tháo tranh xuống và chủ yếu là trang hoàng lại các nơi theo phong cách ưa thích của gia đình sắp dọn vào. Họ dỡ hành lý của gia đình tổng thống ra, xếp quần áo thật phẳng phiu và cho vào các ngăn kéo tủ. Họ thậm chí còn xếp kem và bàn chải đánh răng lên kệ phòng tắm. Không một chi tiết nào bị bỏ sót.

Nhân viên cắm hoa Bob Scanlan từng phụ chuyển nhà khi Tổng thống Clinton dọn đi và Tổng thống George W. Bush dọn tới năm 2001. Việc sắp xếp đồ đạc cho gia đình Bush khá dễ dàng bởi họ biết rõ nơi này hơn phần lớn các tổng thống khác. Tổng thống George W. Bush vẫn thường đến Nhà Trắng chơi khi bố ông còn làm tổng thống. Gia đình Bush đã quen với việc có đông người giúp việc, và chính bà Laura Bush cũng công nhận rằng họ “có những thuận lợi rất lớn” so với các gia đình tổng thống khác vì có nhiều thời gian sống ở Nhà Trắng lúc Tổng thống Bush cha (người được các nhân viên gọi thân mật là “ông Bush già”) làm việc ở đây. “Chỉ có một gia đình khác có cha con đều làm tổng thống là John Quincy và Louisa Adams.”

Biết rõ Bush rất quen thuộc với Nhà Trắng và dàn nhân viên ở đây, Bill Clinton nói đùa rằng Bush thậm chí còn biết rõ các công tắc đèn nằm ở đâu. Trong khi đó Clinton chỉ mới đến Nhà Trắng vài lần trước khi nhậm chức: một lần khi ông là thành viên của tổ chức American Legion Boys Nation và được chụp hình bắt tay với Tổng thống Kennedy; một lần khi ông được gia đình Tổng thống Carter mời đến chơi năm 1977 (đây cũng là lần đầu bà Hillary Clinton đến thăm Nhà Trắng); và thêm vài lần khác khi ông đến dự các bữa tiệc tối chiêu đãi Hiệp hội Thống đốc Quốc gia (National Governors Association) trong thời gian ông làm thống đốc bang Arkansas. Trước khi chuyển vào Nhà Trắng, bà Hillary cho biết lần duy nhất bà lên tầng hai là khi được bà Barbara Bush dẫn đi tham quan một vòng các nơi sau khi chồng bà đắc cử. Bà thậm chí còn chưa nhìn thấy tầng ba. Khi chuyển vào đây sống, để hiểu rõ lịch sử Nhà Trắng, bà Hillary đã yêu cầu các nhân viên quản lý mỹ thuật sưu tầm hình ảnh Nhà Trắng từ thời kỳ đầu tiên để làm thành một quyển sách thể hiện rõ từng phòng trông ra sao trong suốt chiều dài lịch sử.

Tuy nhiên, Tổng thống Barack Obama mới là người thấy khó khăn nhất khi chuyển vào Nhà Trắng sinh sống, ông và gia đình đã phải chuyển từ nhà họ ở Hyde Park, Chicago vào thẳng Nhà Trắng. Gia đình Obama thậm chí còn ít quen với chuyện có người giúp việc hơn cả gia đình Clinton. Lúc ở Chicago, gia đình họ chỉ có mỗi một quản gia chứ không có bảo mẫu. Vì thế, trong suốt thời gian vận động tranh cử, họ phải giao hai cô con gái Sasha và Malia cho bà Marian, mẹ bà Michelle Obama, trông nom. Do không có lợi thế là con trai tổng thống, cũng chưa từng sống trong khung cảnh tương đối xa hoa của dinh thống đốc, nên Obama và gia đình ông phải mất một thời gian để cảm thấy thoải mái hơn với cuộc sống mới.

NGÀY 20 THÁNG 1 năm 2009, 1,8 triệu người tụ tập trong tiết trời –2°C để chứng kiến ông Barack Obama trở thành vị tổng thống Mỹ gốc Phi đầu tiên tuyên thệ nhậm chức. Đây không chỉ là đám đông lớn nhất tham dự lễ nhậm chức của một tổng thống, mà còn là lượng quần chúng lớn nhất chưa từng thấy ở bất kỳ sự kiện nào trong lịch sử của Washington D.C.

Hầu hết người Mỹ đều không biết đến Barack Obama cho đến năm 2004 khi ông đọc bài diễn văn then chốt đầy cuốn hút tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ với tư cách thượng nghị sĩ Bang Illinois. Sự nổi lên nhanh chóng của Obama khiến gia đình ông không có nhiều thời gian chuẩn bị cho cuộc sống ở Nhà Trắng. Vì biết điều đó nên các nhân viên ở dinh muốn giúp đỡ để việc chuyển nhà của họ được dễ dàng hơn. Ông Obama hẳn phải có cảm giác rất lạ khi nghe người tổng quản lý nói “Xin chào ngài tổng thống, chào mừng ngài đến với ngôi nhà mới” khi ông lần đầu bước qua các cánh cửa đồ sộ ở Cửa Bắc trên cương vị một tổng thống. Trong khoảnh khắc yên tĩnh và ngắn ngủi từ trưa đến chiều hôm ấy, tức từ sau khi xem diễu hành trên đại lộ Pennsylvania đến trước lúc tham gia bữa tiệc khiêu vũ nhậm chức đầu tiên của họ, gia đình Obama chỉ ăn sơ trong Phòng ăn Gia đình cũ, nơi không một chi tiết nào bị bỏ sót.

Ngày hôm đó là kết quả của nhiều tháng trời lên kế hoạch cẩn thận từ trước. Với những người giúp việc trong dinh thì thời kỳ chuyển tiếp sang chính quyền mới đã bắt đầu khoảng 18 tháng trước khi tổng thống nhậm chức. Ngay từ lúc đó, người tổng quản lý đã phải bắt đầu chuẩn bị một số tài liệu để đưa cho vị tổng thống và đệ nhất phu nhân sắp dọn đến (cộng thêm với khó khăn là không biết những người sắp đến như thế nào), trong đó có sơ đồ chi tiết của Nhà Trắng, danh sách các nhân viên làm việc ở tư dinh, và tổng quan những gì được phép thay đổi trong Phòng Bầu dục.

Ngay từ trước khi một ứng cử viên được chọn ra cho cuộc tổng tuyển cử, ông Gary Walters, tổng quản lý trong giai đoạn 1986–2007 đã phải bắt đầu thu thập thông tin về các ứng cử viên trong các cuộc bầu cử sơ bộ. Điều này đặc biệt khó khăn khi Tổng thống Ford, Tổng thống Carter và Tổng thống George H. W. Bush thất bại trong nỗ lực ở lại nhiệm kỳ hai. “Mặc dù dinh tổng thống vẫn đang thuộc quyền sở hữu của gia đình đang ở đó nhưng ta phải chú ý xem chuyện gì sẽ xảy ra,” Walters nói.

Vào tháng 12, sau cuộc bầu cử và trước ngày nhậm chức, Walters phải sắp xếp để gia đình tổng thống mới được đương kim đệ nhất phu nhân dẫn đi tham quan một vòng Nhà Trắng. Đó cũng là lúc vị đệ nhất phu nhân sắp dọn đến được trao một cuốn sách, bên trong có tên và hình của tất cả các nhân viên trong tư dinh. Cuốn sách này sẽ giúp đệ nhất gia đình biết tên từng người làm việc trong tòa nhà, đồng thời cũng là một phần của biện pháp an ninh giúp gia đình mới phát hiện ra người lạ mặt và báo cho Cơ quan Mật vụ.

Đệ nhất gia đình sắp dọn đi phải thanh toán mọi chi phí chuyển đồ đạc cá nhân của họ ra khỏi Nhà Trắng. Vị tổng thống mới đắc cử cũng phải thanh toán chi phí chuyển đồ đạc cá nhân của họ vào nhà, và khoản tiền này có thể lấy từ két sắt cá nhân, từ quỹ vận động tranh cử hay chuyển giao. Công việc của gia đình sắp dọn đến là phối hợp với Cơ quan Mật vụ để đưa vật dụng cá nhân của họ vào Nhà Trắng buổi sáng ngày nhậm chức.

Một trong những thách thức lớn về hậu cần diễn ra trong ngày nhậm chức là việc chuyển đồ đạc và những vật dụng lớn của gia đình tổng thống mới đắc cử vào Nhà Trắng. Sau cuộc bầu cử năm 1960, Letitia Baldrige, thư ký phụ trách sự kiện xã hội của gia đình Kennedy đã gởi thư cho bà Jackie để cho biết là cô đã hỏi Mary Jane McCaffree, thư ký xã hội của gia đình Eisenhower, là “có thể đưa lén nhiều thứ vào nhà mà không để gia đình Eisenhower biết được không và cô ấy (McCaffree) đã đồng ý, vì thế ông tổng quản lý có thể cất mấy thùng các–tông, vali, v.v. ở một nơi khuất tầm nhìn và đợi đến 12 giờ trưa thì lôi chúng ra. Tuyệt quá phải không? Cứ hệt như truyện của Alfred Hitchcock vậy.” Baldrige nhớ cô đã lái xe đến Nhà Trắng với Providencia Paredes, người hầu gái của Jackie Kennedy, và George Thomas, người hầu riêng của Jack Kennedy, chở theo chiếc áo dạ hội mà bà Jackie sẽ mặc trong tiệc khiêu vũ nhậm chức và tất cả hành lý của gia đình Kennedy. Họ đến nơi khi mọi người đang tụ tập ở điện Capitol để dự lễ nhậm chức. Khu đất phía nam đầy tuyết lúc này đang tắm trong ánh mặt trời chói lọi. “Chúng tôi đã tính trước quãng thời gian đi từ Georgetown đến Nhà Trắng để không đến đó trước 12 giờ trưa, bởi vì đến đúng 12 giờ trưa vị tổng thống mới sẽ chính thức trở thành người sở hữu Nhà Trắng.”

Gần nửa thế kỷ sau, chuyện này vẫn không có gì thay đổi. Không lâu sau cuộc bầu cử, các cố vấn của gia đình Obama bắt đầu gặp gỡ những người giúp việc ở tư dinh, và đến tuần trước lễ nhậm chức, phần lớn đồ đạc của gia đình Obama được vận chuyển bằng đường biển đến Nhà Trắng và đưa vào cất trong Phòng Gốm sứ (china Room) ở Tầng Trệt để sau đó có thể nhanh chóng chuyển lên trên lầu. Trước đó, vợ chồng Tổng thống Bush đã nói với Tổng Quản lý Stephen Rochon rằng họ muốn làm sao để việc chuyển nhà dễ dàng nhất cho tất cả mọi người, nhưng Rochon không muốn làm vợ chồng Tổng thống Bush thấy như họ đang bị đẩy ra ngoài, “chúng tôi muốn đặt mấy thứ này ở nơi gia đình hiện tại không nhìn thấy. Không phải là họ không biết chúng ở đó, mà vì chúng tôi không muốn họ cảm thấy như chúng tôi đang đẩy họ ra ngoài.”

Các cố vấn khác của Obama cũng liên hệ tương tự với những người giúp việc trong dinh. Hơn hai tháng trước ngày nhậm chức, Tổ trưởng Tổ Hoa Nancy Clarke đã phải gặp nhà trang trí nội thất của gia đình Obama, Michael Smith, để bàn về chuyện trang trí hoa như thế nào cho các căn phòng mà bạn bè và người nhà của tổng thống sẽ lưu lại qua đêm trong ngày nhậm chức.

“Có rất ít thời gian để chuẩn bị mọi thứ cho tòa nhà, vì thế cả nhóm chúng tôi phải đảm bảo rằng tất cả mọi thứ đều hoàn hảo nhất có thể trong thời gian quy định,” Desirée Rogers, nhân viên thân tín của vợ chồng Obama từ khi còn ở Chicago và thư ký xã hội đầu tiên của họ, cho biết. Ngày nhậm chức, “chúng tôi phải có mặt ở Nhà Trắng từ rất sớm để sắp xếp và chuẩn bị mọi thứ, đặt quần áo vào từng phòng,” cô nhớ lại.

Ngay từ mấy tuần lễ trước ngày nhậm chức, Rogers đã phải gặp các nhân viên cắm hoa để bàn xem sẽ đặt những loại hoa nào trên các bàn tròn nhỏ, và sẽ sử dụng loại nến và chân nến nào cho những khoảnh khắc quý giá của đệ nhất gia đình để họ có thể tận hưởng môi trường mới mẻ đầy phấn khích ở xung quanh trước khi đi đến với các buổi dạ vũ.

“Tất cả những thứ nhỏ nhặt đó có thể khiến mọi người thấy thoải mái và thấy mình được chào đón,” nhân viên cắm hoa Bob Scanlan nói.

Phần lớn khu Cánh Tây được vị tổng thống mới lấp đầy với những trợ lý trung thành đến từ chiến dịch tranh cử tổng thống và từ thời kỳ đầu sự nghiệp chính trị của ông, trong đó có Robert Gibbs, người phát ngôn lâu năm được ông bổ nhiệm làm thư ký báo chí đầu tiên của ông tại Nhà Trắng, cùng người bạn thân Valerie Jarret mà ông chỉ định làm cố vấn cấp cao. Bà Michelle Obama cũng đưa nhóm trợ lý của bà vào, trong đó có nhiều người quen biết lâu năm. Chỉ vài ngày sau khi vào Nhà Trắng, Michelle đã tập hợp các nhân viên của bà ở khu Cánh Đông cùng toàn thể các nhân viên tư dinh lại trong Phòng Tây. Katie McCormick Lelyveld, thư ký báo chí của đệ nhất phu nhân lúc đó, nhớ bà chủ của cô đã cho mọi người biết rõ ai là người phụ trách ở đó.

“Đây là đội ngũ cùng tôi bước qua cánh cửa này,” đệ nhất phu nhân phất tay về phía dàn trợ lý chính trị của mình và nói với các nhân viên làm việc lâu năm trong tòa nhà. “Còn các anh chị là một phần của đội ngũ mới của chúng tôi,” bà bảo họ trước khi quay sang nói với các nhân viên của mình, bao gồm cả Lelyveld: “Trách nhiệm của các bạn là phải đảm bảo biết hết mọi người ở đây. Họ có mặt ở đây trước các bạn và là những người giúp vận hành nơi này. Chúng ta hiện đang ở trong địa bàn của họ.” Sau đó, các nhân viên của đệ nhất phu nhân đi vòng vòng quanh phòng để tự giới thiệu với mọi người.

“Việc chúng tôi cần làm lúc đó là tìm hiểu vai trò của họ là gì và vị trí của họ trong bức tranh toàn cảnh ra sao,” Lelyveld nói. “Chúng tôi chỉ là những đứa trẻ mới vào.”

Từ hôm đó trở đi, Lelyveld luôn trông chờ vào các chỉ dẫn của những nhân viên trong tư dinh. Khi cô muốn nghĩ ra cách gì hay để duyệt thực đơn cho bữa quốc yến đầu tiên, cô xuống bếp hỏi Quản bếp Cristeta “Cris” Comerford xem bà nghĩ cô nên bố trí Phòng Quốc yến như thế nào để giới truyền thông có thể thấy cô đang chuẩn bị nhưng không làm cô phân tâm. Khi cô yêu cầu các nhân viên phòng kỹ thuật và phòng điều hành sắp xếp lại bàn ghế để tiến hành quay một cuộc phỏng vấn ở Tầng Khánh tiết trên truyền hình, cô được nhắc nhở rằng Nhà Trắng không phải là ngôi nhà bình thường. “Ta đang làm việc trong phòng bảo tàng,” cô nói. “Hai chiếc ghế mà ta cần dùng cho buổi phỏng vấn không phải chỉ là ghế,” mà còn là “hai món đồ cổ có tuổi đời lớn hơn ta hàng thế kỷ và phải mang từ Phòng Lam ra. Do đó ta cần phải hỏi ý kiến các nhân viên phụ trách nơi đó.” (Đồ đạc trong Nhà Trắng quý giá đến mức một nhân viên tạp vụ bị sếp của anh ta cảnh cáo rằng nếu anh ta lỡ tay làm vỡ một cái đồng hồ mạ đồng của Pháp chưng trong Nhà Trắng từ năm 1817 thì đừng có mà tính đến chuyện có thể quay trở lại làm việc. Anh ta có làm cả đời cũng sẽ chẳng đủ tiền mua một cái khác thay thế.)

Thứ Sáu đầu tiên sau ngày nhậm chức, Tổng thống Obama mặc đồ giản dị đi khắp tư dinh để tự giới thiệu với các nhân viên. Khi đến căn bếp ở tầng hai, ông thấy mấy nhân viên phục vụ đang xúm quanh chiếc tivi. Ông vui vẻ đến đấm vào vai James Jeffries.

“Các ông đang xem gì thế?” ông hỏi họ.

“Chúng tôi đang xem những gì diễn ra ở Đài tưởng niệm Lincoln trước ngày nhậm chức,” Jeffries trả lời. “Chúc mừng ngài trở thành tổng thống.”

“Cảm ơn ông,” Obama nói với nụ cười ngoác tận mang tai rất đặc trưng của ông và bước ra khỏi bếp.

Vài phút sau, khi ông quay trở lại bếp, Jeffries lấy hết can đảm nói thêm: “Tôi vừa mới chúc mừng ngài. Vậy ngày mai, nếu tôi được gọi đến làm, ngài có thể chúc mừng tôi đã làm việc ở đây được 50 năm không?”

“Tôi sẽ không đợi đến ngày mai,” Obama lập tức trả lời. “Tôi có thể làm điều đó ngay bây giờ. Xin chúc mừng ông.”

Mặc dù Desirée Rogers mô tả mối quan hệ giữa các tổng thống với các nhân viên đơn giản là “rất, rất thân thiện” nhưng so với các tổng thống tiền nhiệm thì vị tổng thống mới này dè dặt hơn nhiều, cũng ít nói chuyện phiếm hơn. Một số nhân viên cho biết họ thấy nhớ tình cảm thân thiết dễ dàng của họ với các tổng thống Bush cha, Clinton và Bush con. “Gia đình Bush muốn chúng tôi thấy mình gần gũi họ,” Tổng Quản lý Rochon nói. Còn với gia đình Obama thì “chúng tôi phải giữ thái độ hoàn toàn chuyên nghiệp”. Tuy nhiên gia đình Obama cũng thân thiết với một số người làm việc trong hậu trường. Nhân viên phục vụ James Jeffries nói rằng giữa gia đình Obama với phần lớn nhân viên phục vụ Mỹ gốc Phi có sự thông hiểu và tôn trọng ngầm lẫn nhau do họ đều là người Mỹ da đen. Tổng thống Obama cũng thừa nhận điều này khi nói rằng một phần sự nhiệt tình của các nhân viên phục vụ đối với gia đình ông đến từ việc “họ nhìn Malia và Sasha và thấy rằng ‘con bé trông chẳng khác cháu tôi hay con gái tôi.’”

Suốt từ năm 1988 đến năm 2009, ông gác cửa Vincent Contee, 84 tuổi, đều đặn đến Nhà Trắng làm việc mỗi thứ Hai và thứ Ba và cùng tổng thống đi thang máy lên xuống Phòng Bầu dục. “Chúng tôi rất hợp nhau,” ông nhớ lại. “Sáng nào tôi cũng gặp ông ấy và được ông ấy hỏi han xem công việc của tôi hôm ấy thế nào.” Trong suốt 20 năm làm việc ở Nhà Trắng, Contee không để mình bị mê hoặc bởi người nổi tiếng. Ngoài việc thường xuyên nói chuyện với các tổng thống, ông cũng hay đi cùng thang máy với những nhân vật được nhiều người thần tượng như Nelson Mandela và Elizabeth Taylor để đến gặp tổng thống tại khu nhà riêng của gia đình họ. Ông cho biết ngay cả các tổng thống cũng lắm lúc không giấu được vẻ mệt mỏi. Đến một lúc nào đó, vị tổng thống mà ông hầu hạ sẽ quay sang ông trong khoảnh khắc ngắn ngủi trong thang máy và thở dài: “Tôi chỉ ước sao có thể quay trở về giường và ngủ cả ngày.”

Trên đường đến Phòng Bầu dục, ông Obama thường tán chuyện thể thao với Contee. “Ông ấy biết tôi là một fan bóng bầu dục. Tôi là fan của đội Redskins. Cô biết không, mỗi khi họ thua, ông ấy sẽ giải thích là vì họ không chơi như thế này hoặc phải chơi như thế kia.” Thỉnh thoảng Obama còn nhờ ông Contee dắt con Bo, con chó săn nước Bồ Đào Nha (Portuguese water dog) của gia đình ông, đi ra ngoài dạo quanh khuôn viên. Sau khi đi dạo về thì Contee đưa con Bo lên phòng ông ở tầng ba.

Mặc dù vậy, vợ chồng Obama vẫn tỏ ra rất dè dặt kín đáo và Tổng Quản lý Rochon cảm nhận được khoảng cách giữa các nhân viên với vị tân tổng thống. Vợ chồng Obama có vẻ “không thoải mái”, ông nói, vì “được quá nhiều nhân viên phục vụ và nhân viên làm phòng hầu hạ từng li từng tí.” Với một cặp vợ chồng chỉ vừa mới trả xong tiền vay học đại học thì mức độ phục vụ cá nhân của các nhân viên Nhà Trắng chắc hẳn phải khiến họ rất căng thẳng. “Ta phải cho họ sự riêng tư,” Contee nói với tôi. “Ta chỉ nên nói chuyện với họ trong giây lát rồi để họ đi đường họ, ta đi đường ta.”

Vợ chồng Obama đặc biệt rất muốn nuôi dạy con cái trong môi trường bình thường nhất có thể cho dù họ đang sống trong một tòa nhà có đến hàng chục đầu bếp, phục vụ và hầu phòng. Năm 2011, bà Michelle Obama nói với người phỏng vấn bà là cô con gái lớn Malia, lúc đó 13 tuổi, sắp phải tự giặt đồ của nó và bà Marian Robinson mẹ bà, hiện sống trong một phòng suite ở tầng ba, sẽ dạy con bé làm chuyện đó. “Mẹ tôi vẫn tự giặt đồ. Bà ấy không muốn người lạ động đến đồ lót của bà ấy.” Nhà tạo mẫu trước đây của đệ nhất phu nhân, Michael “Rahni” Flowers, xác nhận “Michelle là mẫu người mẹ rất nghiêm túc – cả mẹ bà cũng thế. Chỉ cần họ nhìn một cái là ta sẽ hóa đá và ngưng ngay công việc đang làm.”

Katie McCormick Lelyveld nhớ chuyện đệ nhất phu nhân xác định rõ các nguyên tắc cơ bản với các cô con gái như thế nào. “Mặc dù bà ấy rất cảm kích là trong nhà có các gia nhân chuyên lo những việc đó, nhưng bà cho rằng họ không phải ở đó để hầu hạ tụi nhỏ.” Michelle nhắc mấy cô con gái của mình là “Đừng quen thói để người khác dọn giường cho mình, đây là việc các con phải làm.”

Dù vậy, sau hai năm mệt mỏi theo đuổi chiến dịch tranh cử và chạy theo lịch làm việc điên cuồng, vợ chồng Obama rất cảm kích sự giúp đỡ của các nhân viên trong tư dinh. “Có một số thuận lợi khiến cho những ngày dài đằng đẵng trở nên dễ dàng hơn, chẳng hạn như có ai đó phụ trách kế hoạch ăn tối giúp ta,” Lelyveld giải thích.

Những gì thuộc về truyền thống khó có thể mất trong tòa hành pháp. Khi vợ chồng Obama nói với các nhân viên phục vụ rằng cuối tuần họ có thể thay chiếc áo vét–tông đen hồ cứng bằng sơ–mi để mở ở cổ và quần tây bình thường, không phải ai cũng chịu nghe theo. “Với một số nhân viên phục vụ lớn tuổi, tức khoảng bảy tám mươi tuổi, họ đã có sẵn nhiều bộ tuxedo mà họ đã quen mặc, vì thế bất cứ thứ gì khác sẽ đồng nghĩa với việc họ phải sắm đồ mới. Họ cảm thấy thoải mái hơn trong những bộ tux này,” Lelyveld nói. Khi nhiều nhân viên phục vụ nhất định không chịu rời bỏ bộ y phục trang trọng của họ, cô nói cô thấy mình lúng túng mỗi khi mặc quần kaki hay quần jean đứng cạnh họ mặc dù cô đã quen với cách ăn mặc thoải mái này trong thời gian vận động tranh cử. “Tôi tôn trọng sự tôn trọng của họ đối với những gì họ làm.”

Vợ chồng ông Obama rõ ràng rất nuối tiếc cuộc sống ở Chicago, ông Obama nói rằng “mỗi tổng thống đều ý thức sâu sắc rằng chúng ta chỉ là cư dân tạm thời” của Nhà Trắng, và nói thêm rằng “chúng tôi chỉ là những người ở trọ nơi này”. Sau hai chiến dịch tranh cử mệt mỏi, tổng thống Obama giờ đây từ chối vắng mặt ở bữa ăn tối gia đình hơn hai lần một tuần. Đó là những bữa tối được chuẩn bị bởi Sam Kass, người đầu bếp riêng của họ đưa từ Chicago đến, cho đến khi Kass rời khỏi vị trí đó để chuyển sang làm việc ở New York tháng 12 năm 2014.

Theo những gì Reggie Love, cựu trợ lý cá nhân của Tổng thống Obama nhớ thì mỗi sáng, trong lúc đi bộ từ khu nhà ở đến khu Cánh Tây, ông Obama đều yêu cầu Tổng Quản lý Stephen Rochon cập nhật cho ông biết những chuyện đơn giản trong nhà mà ai cũng phải biết xử lý, dù là đang sống trong tòa hành pháp hay trong một ngõ cụt ở ngoại ô. “Anh đang sống trong một tòa nhà và có ai đó chịu trách nhiệm bảo trì tòa nhà này. Vậy nếu áp lực nước không đủ mạnh hay hệ thống Wi-fi không hoạt động thì anh phải nói chuyện này với người đó, đúng không?”

Một trong những thứ được tổng thống rất mực quan tâm trong những ngày đầu mới đến là sân bóng rổ ở Nhà Trắng. Trong thời gian diễn ra chiến dịch tranh cử năm 2008, ông Obama thường chơi bóng vào những ngày diễn ra bầu cử sơ bộ hay những ngày họp đảng ở địa phương để cử ra người đại diện cho chức ứng viên tổng thống, chỉ hai lần ông không chơi bóng rổ, đó là lúc ở New Hampshire và Nevada khi ông thất bại ở hai bang này. Không bao lâu sau ngày nhậm chức, ông nói với Rochon rằng ông muốn biến sân tennis bị rặng thông che khuất ở Bãi cỏ phía nam thành sân bóng rổ. Thế là các vòng rổ được nhanh chóng lắp đặt, các vạch sơn được kẻ mới, và những quả bóng rổ mang ký hiệu Nhà Trắng được đặt làm. Tất cả nỗ lực này ngốn hết 4.995 đô.

Dự án này mất nhiều tháng để hoàn thành. Cuối cùng ông Obama mất kiên nhẫn và nói với Rochon trong lúc cùng đi bên nhau buổi sáng: “Sao thế Đô đốc, chuyện này có gì to tát lắm đâu.”

Một buổi sáng, không nghe Rochon nhắc đến sự tiến triển của sân bóng, tổng thống hỏi các vòng rổ của ông ấy đã đến đâu rồi. Rochon trả lời: “Thưa tổng thống, tôi rất vui mừng báo cho ngài biết là hôm nay mọi việc sẽ hoàn thành lúc 11 giờ 30.”

Mắt Obama sáng lên. Đến 10 giờ 30, một tiếng trước thời gian quy định là sẽ xong, ông chạy ra sân để chơi bóng với Love, người từng một thời là tiền đạo của đội Duke Blue Devils.

MICHAEL “RAHNI” FLOWERS, nhà tạo mẫu tóc của Michelle Obama, bắt đầu làm tóc cho bà từ khi bà là một cô bé tuổi teen và sau đó trở thành sự lựa chọn của đệ nhất phu nhân tổng thống mới đắc cử cho ngày nhậm chức. Mặc dù các nhà tạo mẫu tóc không thuộc đội ngũ nhân viên làm việc chính thức ở tư dinh nhưng họ cho ta một cái nhìn độc nhất vô nhị về những sự kiện xảy ra trong cái ngày khó quên đó.

Ngày làm việc của Flowers bắt đầu từ 4 giờ sáng ở Blair House, căn nhà phố sang trọng phía bên kia đường Nhà Trắng, nơi mà theo truyền thống vị tổng thống đắc cử và gia đình ông phải ở lại trước khi chính thức dọn vào tòa hành pháp. Sáng hôm đó, sau khi Flowers làm tóc cho Michelle cùng hai con gái và mẹ bà xong, ông đi cùng gia đình họ đến Đồi Capitol và ở đó suốt cả ngày. Tối đến, ông lại tiếp tục theo họ đến mười địa điểm tổ chức tiệc khiêu vũ nhậm chức.

Flowers lập tức nhận ra sự phấn khích của các nhân viên phục vụ, phần lớn là người Mỹ gốc Phi, đối với vị tổng thống mới đắc cử. “Có một nỗi tự hào vượt lên trên cả sự tự hào, điều mà cả cuộc đời họ mơ không thấy nổi,” Flowers, cũng là một người Mỹ da đen, nói. “Tôi nhìn thấy điều đó qua cách họ nói, cách họ đi. Nhìn gương mặt tươi cười hớn hở của họ, ta có thể nói rằng chuyện này vượt ra ngoài những mơ ước ngông cuồng nhất của họ.”

Theo Flowers, sáng hôm đó tất cả mọi người đều tỏ ra trầm tĩnh trừ bà Marian Robinson, mẹ của đệ nhất phu nhân. Bà Robinson sắp phải trải qua một thay đổi lớn trong cuộc đời. Bà chỉ mới thành lập một câu lạc bộ điền kinh cho người cao tuổi ở Chicago và chiến thắng một cuộc thi điền kinh cách đây không lâu, nhưng Michelle lại nhờ bà đến sống chung với họ ở Nhà Trắng để giúp trông nom các cháu. Giờ đây bà phải rời xa quê để đến với cuộc sống mới, lại là một cuộc sống có tổ chức rất nghiêm ngặt.

“Bà ấy là một phụ nữ rất độc lập,” Flowers nói. Ông tin rằng bà không chọn thay đổi vì bản thân mà vì “bà ấy cho tôi biết là Michelle muốn thế, với lại bà ấy cũng nghĩ đến mấy cháu”. Lúc rời xa quê hương Chicago yêu dấu, bà Robinson nói, “Chúng nó kéo tôi theo và tôi không thấy thoải mái chút nào, nhưng tôi sẽ làm những gì cần phải làm.”

Tuy nhiên vị tổng thống đắc cử lại không có vẻ gì bối rối trước thay đổi lớn và đột ngột này. Sau khi đọc một bài diễn văn nhậm chức đầy tham vọng – liệt kê hàng loạt mục tiêu chính sách như cải cách chế độ chăm sóc y tế và lặp lại lời hứa thay đổi những lập luận gây chia rẽ ở Washington – ông đã hỏi “Sao, tôi làm tốt chứ?”

“Barack luôn rất trầm tĩnh, ông ấy luôn kiểm soát được tâm trạng,” Flowers nói. “Còn Michelle thì thuộc tuýp người bộc trực hơn.”

Do gặp một trục trặc nhỏ trong kế hoạch làm việc (ai đó đã quên không tính thời gian ăn trưa theo truyền thống ở điện Capitol sau lễ tuyên thệ nhậm chức) nên gia đình Obama chỉ có 45 phút để chuẩn bị cho các buổi khiêu vũ tối hôm đó. Trên đường hối hả để kịp đến với các buổi dạ vũ, tổng thống ghé qua phòng chăm sóc sắc đẹp nhỏ nằm trên tầng hai của Nhà Trắng và hỏi ý kiến vợ xem nên đeo chiếc nơ nào.

“Anh muốn mình trông đẹp nhất vì em,” ông nói với vợ.

Khi ông bước ra ngoài, Flowers để ý thấy một bên cổ tay áo của ông không được thẳng thớm.

“Barack, kiểm tra lại cổ tay áo,” Flowers lưu ý ông.

“Ồ, đẹp rồi, ai thèm quan tâm,” Obama vui vẻ nói.

Khi Ikram Goldman, chuyên viên phục trang của đệ nhất phu nhân đồng thời sở hữu cửa hàng thời trang cao cấp mà Michelle Obama thường xuyên lui tới trước khi vào Nhà Trắng, nghe Flowers gọi tổng thống là ‘Barack’, cô nạt ông ta. “Cô ấy nói tôi phải gọi ông ấy là ‘Ngài tổng thống’,” Flowers nhớ lại. “Khi tôi gọi ông ấy là ‘Barack’, ông ấy chỉ cười. Tôi đã từng dự đám cưới hai vợ chồng họ, cũng đã từng gặp ông cụ thân sinh của Michelle, ông ấy đối với tôi không hề thay đổi,” Flowers nói, vẫn còn băn khoăn vì lời quở trách. “Tôi thấy gọi thế không tự nhiên.” Việc chuyển từ gọi tên riêng sang gọi chức danh là điều mà nhiều người bạn của các tổng thống tương lai phải làm. Thư ký phụ trách sự kiện xã hội của gia đình Kennedy, Letitia Baldrige – sau này trở thành nhân viên phụ trách nghi thức – quen biết hai vợ chồng họ từ khi họ còn là “Jack và Jackie”, nhưng lập tức sau cuộc bầu cử tổng thống tháng 11 năm 1960, họ liền trở thành “Ngài Tổng thống và Phu nhân Kennedy”. “Tổng thống và Phu nhân Kennedy có thể từng là bạn bè thời trẻ của tôi, nhưng giờ đây họ được bao bọc trong ánh hào quang của người quyền tước.” Rất ít người giờ đây còn gọi Tổng thống Obama bằng tên riêng của ông.

NGÀY NHẬM CHỨC – một sự kiện vĩ đại đối với bất kỳ vị tổng thống mới nào – bắt đầu vài giờ trước khi tiến hành tuyên thệ lúc 12 giờ trưa ở Điện Capitol. Ngay từ sáng sớm, tổng thống đã được cố vấn an ninh quốc gia của vị tổng thống sắp mãn nhiệm và cố vấn an ninh quốc gia của ông thông báo tường tận về tình hình an ninh trong nước. Sau phần thông báo, một sĩ quan cao cấp của văn phòng quân đội ở Nhà Trắng cho ông biết mật mã khởi động tấn công hạt nhân. Ngay sau khi tổng thống tuyên thệ nhậm chức, một người trợ lý cầm theo “quả bóng” – một chiếc cặp chứa mật mã – sẽ luôn theo sát cạnh ông (Sau khi tuyên thệ, tổng thống sẽ được trao một chiếc thẻ cho phép ông khởi động các cuộc tấn công). Tất cả những việc này sẽ diễn ra trước lễ nhà thờ buổi sáng.

Vị tổng thống mới vừa phải tự điều chỉnh cho phù hợp với gánh nặng của công việc mới, vừa phải tập thích ứng với cuộc sống trong dinh. Sau khi nhậm chức, ngày hôm sau Tổng thống Obama đến Phòng Đông để ra mắt các nhân viên. “Ánh mắt tổng thống lộ rõ vẻ kinh ngạc,” nhân viên cắm hoa Bob Scanlan nhớ lại. “Giống như là ‘Wow’, ông ấy không ngờ số nhân viên giúp việc cho Nhà Trắng lại đông đến thế.” Những nhân viên mà ông Obama chào ngày hôm đó không chỉ chịu trách nhiệm phục vụ cho khu nhà riêng mà còn phụ trách cả Tầng Khánh tiết, và dòng người tham quan Nhà Trắng không dứt.

Các nhân viên ở Cánh Tây, trong đó nhiều người đã quen với lối sống phi thể thức ở chiến dịch tranh cử, đột nhiên bị đẩy vào những vai trò mới nhưng lại không biết nhiều về các công việc này. Với Katie Johnson, thư ký riêng của ông Obama, thì ngày nhậm chức là một ngày “hoàn toàn hỗn loạn”. Khi cô đến Nhà Trắng sáng hôm đó, cô được thông báo là mình chưa được duyệt để bước vào Nhà Trắng. “Tôi phải tự học cách lo liệu mọi thứ,” cô nói (Trợ lý cấp cao của ông Obama là Denis McDonough cuối cùng cũng duyệt cho cô vào). Nhưng các rắc rối của cô chưa dừng lại ở đó. “Bây giờ nhìn lại, tôi thấy khu Cánh Tây rất nhỏ,” cô nói, “nhưng lúc đó, trông nó như một mê cung.” Sau khi đã ổn định công việc trong “Phòng Bầu dục ngoài” (Outer Oval), một văn phòng nhỏ nằm ngay bên ngoài Phòng Bầu dục, cô dành phần lớn thời gian trong ngày để học một khóa cấp tốc về cách sử dụng hệ thống điện thoại “cực kỳ phức tạp”. Trong mấy tuần đầu làm việc cho chính quyền mới, cô nhớ mình đã không tài nào chuyển được cuộc gọi của một viên chức cấp cao cho tổng thống trên Air Force I. Cô không thể nối máy thành công và cuối cùng đích thân ông Obama phải gọi điện trực tiếp cho người đó từ trên máy bay. “Lúc đó tôi rất hoảng sợ,” cô Johnson nhớ lại.

Với các nhân viên làm việc trong dinh, tất nhiên đây không phải lần đầu họ nhìn thấy cảnh này nên họ dễ dàng giúp cô dẹp tan cơn hoảng loạn. Do các nhân viên ở khu Cánh Tây phải dựa vào sự giúp đỡ của Phòng Quản lý để có thể ổn định công việc, nên Johnson liên tục hỏi các quản lý hết câu này đến câu khác, kể cả chuyện Phòng Hoa nằm ở đâu để cô xuống dặn các nhân viên ở đó đưa thêm táo Gala vào Phòng Bầu dục. “Có chuyện gì thắc mắc, tôi cũng gọi cho Phòng Quản lý,” cô nhớ lại. “Nếu có người muốn uống một loại rượu vang nào đó trong Phòng Bầu dục, tôi sẽ gọi cho Phòng Quản lý và họ sẽ tìm ra thứ rượu ấy.”

Thỉnh thoảng cô cũng cần đến sự giúp đỡ của các nhân viên quản lý và người hầu riêng của tổng thống để tìm các tài liệu nội bộ quan trọng của tổng thống, nhất là khi đó lại là một tài liệu mà các nhân viên khu Cánh Tây cần đến nhưng không ai tìm ra. “Mỗi khi tôi hoảng sợ vì tìm mãi thứ gì đó không ra – tổng thống lúc đó lại đang đi xa nên tôi không thể hỏi ông ấy – và tờ giấy đó lại được nói là có ghi một quyết định quan trọng, và Tổng thống nói là đã đưa nó cho tôi nhưng tôi thề là mình không giữ nó, tôi sẽ nhờ họ kiểm tra lại,” cô nói không kịp thở. “Họ sẽ đi tìm tờ giấy đó và số lần họ tìm được lên đến 90%.”

Reggie Love nhớ lại chuyện các nhân viên quản lý kiên nhẫn thế nào khi giúp anh “lèo lái hậu trường Nhà Trắng”. “Sảnh nào và phòng nào cũng có nickname,” anh nói.

Một vài ngày sau, vợ chồng Obama bắt đầu “đi thăm dần dần từng nơi trong tòa nhà”, Scanlan nhớ lại, thường là sau khi khách tham quan và hầu hết các gia nhân đã ra về. “Đây cũng là một quy trình mà họ phải thực hiện để biết mặt gần một trăm nhân viên làm việc ở đây, bởi họ không thể nhìn thấy tất cả các nhân viên cùng một lúc. Có thể mỗi lần họ chỉ gặp được mỗi một cô hầu phòng hay một nhân viên cắm hoa. Còn trên lầu thì chỉ có mỗi một người đầu bếp lo chuyện nấu nướng. Họ không biết mặt tất cả những người khác đang làm việc trong các phòng ban dưới nhà. Cuối cùng họ cũng gặp được tất cả nhân viên nhưng phải mất một thời gian dài.”

Và cuối cùng thì họ cũng quen với việc được giúp đỡ, hoặc ít ra cũng là học cách sống chung với điều ấy. “Tôi nghĩ các nhân viên Nhà Trắng rất biết cách giúp các gia đình tổng thống thích nghi và cảm thấy bình thường nhất có thể với cả chục người xung quanh, kẻ thì đưa hoa đến, người thì hút bụi, kẻ sửa sang cái nọ cái kia,” bà Michelle Obama nói. “Ta bắt đầu xem họ như người nhà về nhiều mặt, và đó chính là nét đẹp của nơi này.”

MỖI MỘT ĐỆ nhất gia đình đều có cách hành xử khác nhau với các nhân viên xung quanh. Gia đình Tổng thống Herbert Hoover ở cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930 thường không thích nhìn thấy người giúp việc xung quanh. Mỗi khi nghe thấy ba tiếng chuông của ông, tất cả các hầu phòng, phục vụ và lao công đều phải chạy biến vào các căn phòng nhỏ. Tổng thống Roosevelt và Tổng thống Truman thì thoải mái hơn khi bảo các gia nhân cứ tiếp tục làm việc khi họ bước vào phòng.

Sau này, mối quan hệ giữa các đệ nhất gia đình và nhân viên trở nên thoải mái hơn rất nhiều. Cô hầu phòng Ivaniz Silva cho biết các đệ nhất phu nhân thường thuộc hết tên mọi nhân viên trong vòng một tuần, hay ít ra cũng là tên của khoảng một chục nhân viên làm phòng và nhân viên phục vụ túc trực trên tầng hai và tầng ba.

Có một ngày, Silva kể, cô đang quét dọn thì bà Barbara Bush bước vào ngăn cô lại.

“Ồ, tôi chưa từng thấy cô trước đây,” phu nhân Bush nói.

“Nhưng tôi có hình trong sách mà,” cô khăng khăng nói.

“Cô có chắc không?” đệ nhất phu nhân liền đi lấy cuốn sách liệt kê tên các gia nhân Nhà Trắng do người tổng quản lý chuẩn bị. Vài phút sau bà quay trở lại.

“À, tấm hình trông không đẹp lắm nên tôi không nhận ra cô,” bà trêu.

Cùng với những đồ đạc mới và lớp sơn mới, mỗi đệ nhất gia đình còn đưa một tinh thần mới vào Nhà Trắng. Việc chuyển từ gia đình Eisenhower sang gia đình Kennedy là cả một sự thay đổi lớn lao về ngoại hình – từ cặp vợ chồng lớn tuổi hiện thân cho mẫu hình ông bà nội ngoại ở thập niên 1950 đến cặp vợ chồng trẻ đẹp với hai con nhỏ – lẫn về lối sống. Các nhân viên phải làm quen với phong cách tiếp khách thoải mái của vợ chồng Kennedy, chẳng hạn như đeo nơ đen thay vì nơ trắng, phục vụ rượu cocktail trước khi ăn tối, và cho phép khách hút thuốc ở mọi nơi. Ở các bữa tiệc tối trang trọng, gia đình Eisenhower thường chiêu đãi khách sáu món và xếp họ ngồi quanh một chiếc bàn tiệc khổng lồ hình chữ E. Nhưng gia đình Kennedy đã nhanh chóng thay chiếc bàn này bằng mười lăm chiếc bàn tròn tám hay mười chỗ, đồng thời giảm số món ăn xuống còn bốn.

Vốn quen với cuộc sống giàu sang và có đông đảo người giúp việc vây quanh nên bà Jackie Kennedy rất hồ hởi với việc điều hành tòa dinh thự 132 phòng này. Buổi sáng ngay sau ngày chồng bà nhậm chức, bà đến gặp Tổng Quản lý J.B. West. “Tôi muốn gặp toàn thể các nhân viên trong hôm nay,” bà bảo ông. “Ông có thể đưa tôi đi một vòng Nhà Trắng để gặp họ ở nơi làm việc được không?”

Do không muốn đưa đệ nhất phu nhân đến các phòng ban mà không thông báo trước, West đề nghị gọi từng nhóm ba người một đến gặp bà. Mỗi nhóm, từ quản lý và nhân viên phục vụ đến nhân viên làm phòng và đầu bếp đều vô cùng lo lắng trước kiểu kiểm tra trang trọng này. Nhưng khi bước ra khỏi thang máy, họ giật mình khi nhìn thấy đệ nhất phu nhân mặc quần tây (một cảnh tượng gây sốc vào thời đó) mang ủng nâu đứng đó với mái tóc rối bù. Trong lúc các nhân viên từng người một tự giới thiệu mình với đệ nhất phu nhân, ông West nhớ lại, Jackie tìm đủ cách để nhớ tên họ. Bà chầm chậm lặp lại từng tên một, và mặc dù không ghi xuống giấy nhưng bà vẫn nhớ tất cả các tên. Lucinda Morman, một trong những cô hầu phòng gặp bà ngày hôm ấy, là một thợ may rất khéo, đệ nhất phu nhân sau đó đã nhờ cô may cho bà những chiếc váy dạ hội độc nhất vô nhị của nhà thiết kế Oleg Cassini.

Jackie Kennedy là người thích sự hoàn hảo và can thiệp rất sâu vào hoạt động hằng ngày của Nhà Trắng. Mỗi tối bà đều tự ghi ra cho mình từng hạng mục công việc để kiểm tra, việc nào làm xong sẽ được bà xóa đi. Ngày nào bà cũng viết cho ông West vài dòng trên tập giấy nhỏ màu vàng mà đi đâu bà cũng cầm theo.

“Bà ấy lúc nào cũng có cả một danh sách công việc cho tôi,” West hồi tưởng. “Ai phụ trách việc gì, bà ấy cũng đều nắm tên và bên dưới từng cái tên ấy, bà ấy ghi chú tất cả những gì cần bàn bạc với họ.”

Phu nhân Kennedy để ý thấy một số gia nhân rất bất an khi làm việc cạnh gia đình tổng thống. Bà viết về các nhân viên làm phòng như sau: “Họ sợ làm việc trong Nhà Trắng và cạnh gia đình tổng thống đến mức cứng đờ cả người và trở nên hoảng loạn. Ngay cả Lucinda, mặc dù đã biết tôi rất rõ nhưng cô ấy vẫn cứ xin lỗi tới xin lỗi lui đến 10 phút nếu như đánh rơi một cái kẹp.” Để giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi, bà gợi ý họ lên tầng hai và tầng ba làm việc thường xuyên hơn để quen với việc ở cạnh gia đình bà. “Tôi không thể chỉ bảo họ bất cứ điều gì – cũng không có thời gian – khi họ hoảng sợ đến vậy.”

ÔNG GÁC CỬA Preston Bruce đã quen với lối sinh hoạt có thể đoán trước của gia đình Eisenhower, như đi ngủ lúc 10 giờ chẳng hạn. Vì thế lúc vợ chồng Kennedy đi dự tiệc khiêu vũ nhậm chức về lúc 2 giờ sáng, ông chắc mẩm họ rất mệt mỏi. Thế nhưng ngược lại, họ còn đưa thêm bạn bè về Nhà Trắng và tiếp tục tiệc tùng thâu đêm trên tầng hai, không biết rằng các gia nhân phải ở lại chờ cho đến khi vợ chồng tổng thống lên giường an toàn mới có thể ra về. Mãi đến 3 giờ 15 phút sáng, Bruce mới tiễn vị khách cuối cùng ra khỏi cửa và tắt hết đèn ở Phòng khách Tây (West Sitting Hall). Nhưng khi ông đến phòng tổng thống thì không thấy ai ở đó.

“Phải ông đó không, Bruce? Tôi đang ở trong Phòng ngủ Lincoln,” vị tổng thống gọi với ra ngoài. Bruce không thể tin được. Các gia nhân đều nghĩ căn phòng này bị nguyền rủa. Kennedy gọi một lon Coca và nhờ ông Bruce mở cửa sổ để không khí lạnh tràn vào. Jackie gọi với ra từ Phòng Nữ hoàng phía bên kia hành lang để nhờ người gác cổng sốt sắng mang cho bà cốc rượu khai vị. Mãi đến sau 4 giờ sáng, Bruce mới được về nhà.

Mặc dù phải thức suốt đêm đầu tiên nhưng Bruce bắt đầu thấy yêu mến gia đình Kennedy, và vì ông làm việc ban đêm nên nhìn thấy được những cảnh riêng tư của gia đình này. Ông cười phá lên khi chứng kiến cảnh cặp vợ chồng trẻ đẹp chạy qua chạy lại phòng nhau trong đêm khuya lúc ông mang đồ uống lên cho họ sau bữa ăn tối. “Đừng lo, Bruce, chúng tôi biết ông cũng đã có gia đình rồi,” Jackie Kennedy nói, mắt long lanh.

Suốt từ năm 1953 đến năm 1977, ngày nào Bruce cũng đến Nhà Trắng từ lúc 3 giờ trưa, đón những nhân vật quyền quý ở cửa, trấn an những người khách lo lắng trước khi gặp tổng thống, hộ tống tổng thống từ Phòng Bầu dục về khu nhà ở mỗi buổi tối và chờ cho đến khi tổng thống lên giường mới về nhà mình, ông là một nhân viên xuất sắc của Nhà Trắng. Các nhân viên khác không tiếc lời khen ngợi vẻ lịch lãm của ông cùng khả năng giữ được sự điềm tĩnh dưới sức ép khổng lồ của công việc. Nhân viên phục vụ Lynwood Westray gọi ông là “nhà ngoại giao”.

“Đó là lý do ông được mọi người yêu mến. Có người có phong thái đó, có người không, ông có điều đó.”

Một ngày sau ngày Kennedy nhậm chức, Bruce hộ tống tổng thống và đệ nhất phu nhân lên lầu sau bữa ăn tối. Ông thở phào nhẹ nhõm khi nghĩ hôm nay mình có thể về nhà khá sớm. Nhưng “Bang! Cửa thang máy ở tiền sảnh phía bên kia Phòng Quản lý đột nhiên mở toang. Tổng thống nhào ra và chạy băng qua sảnh với các nhân viên mật vụ gấp rút đuổi theo sau lưng,” Bruce viết. Kennedy muốn ra ngoài dạo tối. Ông ấy ra ngoài cổng Tây Bắc và bước vào làn không khí lạnh giá, trên người không một chiếc áo khoác, “chỉ mới có 24 giờ ở Nhà Trắng mà ông ấy đã muốn trốn khỏi đó.”

Nhân viên mật vụ phải lôi Kennedy vào và bảo ông phải giới hạn việc đi dạo trong phạm vi 18 mẫu Anh bao quanh Nhà Trắng. Kể từ hôm đó, Bruce luôn chuẩn bị sẵn hai chiếc áo khoác, một cái để tổng thống mặc nếu muốn ra ngoài đi dạo bằng lối tầng một, còn cái kia để mặc khi chỉ loanh quanh ở Tầng Trệt. Lần nào ông đưa áo khoác và ủng đi mưa cho tổng thống cũng đều bị vị tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ phản đối. “Ông ấy như một cậu học trò nhỏ thích chạy vào làn không khí buốt giá mà không có áo ấm hộ thân.”

KHÔNG PHẢI GIA đình tổng thống nào cũng thích thú với việc đặt chân vào Nhà Trắng như gia đình Kennedy. Ngày thứ Hai sau cuộc bầu cử năm 1992, gia đình Clinton điện thoại cho nhà nội thất Kaki Hockersmith để nhờ cô thực hiện một nhiệm vụ khổng lồ: trang trí lại Nhà Trắng. Mặc dù đã từng giúp họ trang trí dinh thống đốc ở Arkansas nhưng bà không hề nghĩ sẽ có cuộc gọi này. Bà nhớ mình đã “rất, rất ngạc nhiên” nhưng cũng chấp nhận lời mời. Từ lúc diễn ra cuộc bầu cử đến lúc tổng thống nhậm chức, bà đến dinh thống đốc vài ba lần để đưa vợ chồng Clinton xem các mẫu vải khác nhau cùng những đồ đạc mà bà chọn cho dinh tổng thống.

“Lần đầu tôi đến, Tổng thống Clinton đang họp với đội ngũ chuyển giao quyền lực của ông nhưng bà Hillary gọi ông ra ngoài,” bà nói. Hockersmith bày các mẫu vải và mẫu thảm ra mặt bàn bếp cho ông xem (Clinton nằm trong số rất ít tổng thống quan tâm đến việc trang trí). Các tuần kế tiếp, bà đến Nhà Trắng vài lần để làm việc với các nhân viên quản lý mỹ thuật. Họ đưa bà đến một nhà kho khổng lồ có điều hòa nhiệt độ quanh năm ở Riverdale, Maryland, cách Washington khoảng 18 km, nơi cất giữ những đồ nội thất từng được trưng bày trong Nhà Trắng. Các gia đình tổng thống sắp dọn đến có thể chọn những món đồ họ thích trong kho để đưa trở về dinh.

Đồ nội thất ở Riverdale được cẩn thận phân thành từng loại một. Cạnh các dãy bàn làm việc và bàn viết là các tủ com–mốt cùng những tấm thảm từng nằm trong Phòng Bầu dục dưới nhiều chính quyền khác nhau. Mỗi một món đồ nội thất của từng thời đại khác nhau đều được mô tả và liệt kê trong danh bạ với nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các quản lý mỹ thuật biết rõ vị trí của từng cái chân nến và từng chiếc bàn trà trong cái không gian rộng lớn đó. Ở đó còn có cả một phòng bảo tồn, bên trong trang bị máy X–quang để chụp hình từng món đồ nội thất đưa vào sách hướng dẫn. Nhà kho này khác xa với nhà kho cũ nát ở Fort Washington dọc bờ sông Potomac ở Maryland, nơi bà Jackie Kennedy đã rất bất ngờ và sốc khi nhìn thấy những món đồ cổ quý giá nằm lây lất trên sàn đất.

Bà Hockersmith luôn mang theo một sơ đồ chi tiết của các tầng lầu để nắm rõ vị trí muốn đặt những món nội thất có sẵn trong dinh và những món lấy từ nhà kho về. “Chúng tôi có một kế hoạch rất tốn kém,” Hockersmith nói với giọng mệt mỏi khi nhớ lại chuyện này.

Gia đình Clinton bắt đầu ngày nhậm chức bằng việc đi lễ nhà thờ và sau đó dừng chân một lúc ở Blair House. Khi họ đến Nhà Trắng thì đã 10 giờ 27 phút sáng, trễ 27 phút. Gia đình Bush đã đứng chờ sẵn ở Cửa Bắc để đón họ.

“Chào mừng cháu đến nhà mới,” Tổng thống George H.W. Bush nói với cô bé Chelsea 12 tuổi đang vuốt ve chú chó Millie giống springer spaniel của ông. Vị tổng thống sắp mãn nhiệm chúc người kế nhiệm may mắn và theo truyền thống, ông để lại trong ngăn kéo bàn làm việc ở Phòng Bầu dục một một bức thư ngắn ghi các lời khuyên dành cho người kế nhiệm (Khi Clinton rời nhiệm sở 8 năm sau, ông cũng để lại cho Tổng thống George W. Bush một bức thư ngắn kèm theo bức thư mà ông Bush cha để lại cho ông), chi tiết của những bức thư này không được công bố.

Vào ngày trọng đại đó, bà Hillary Clinton nói với Hockersmith rằng bà không muốn bà ấy vắng mặt ở buổi lễ nhậm chức, tổ chức tại mặt tiền phía Tây của tòa nhà Quốc hội Mỹ, tuy nhiên bà cần bà ấy quay lại Nhà Trắng ngay sau khi buổi lễ kết thúc.

“Chúng tôi phải tìm cách đưa cô ra khỏi cái nơi lộn xộn đó để nhanh chóng quay về Nhà Trắng,” bà Hillary nói.

Sau khi buổi lễ kéo dài cả giờ đồng hồ kết thúc, Hillary nói Hockersmith đi tìm một viên đại tá đang ngồi đâu đó trên một chiếc xe van để ông ta giúp bà nhanh chóng trở về Nhà Trắng trông coi việc trang trí.

“Tôi nghĩ không biết họ làm cách nào để lo chuyện đó,” Hockersmith nói.

Giữa đám đông đang reo hò ở Điện Capitol ngày 20 tháng 1 năm 1993, Hockersmith ngạc nhiên khi nhìn thấy chiếc xe van đang chờ bà. Mỗi khi họ đến rào chắn an ninh nào, người