← Quay lại trang sách

Chương 6 Hy sinh

Ngày đầu tiên đến Phòng Quản lý, tôi nghĩ nó trông chẳng khác gì một cái nhà thương điên rộng 4m x 4m. Mọi người không ngớt chạy ra chạy vào cả ngày, chuông điện thoại reo vang không dứt và tiếng máy kêu o o liên tục

– J.B. West, Quản lý và Tổng Quản lý, 1941–1969, Trên lầu Nhà trắng: Sống cạnh các đệ nhất phu nhân.

Quản lý Nelson Pierce sống cùng bà Caroline vợ ông trong một ngôi nhà trắng xây theo lối kiến trúc thuộc địa rất đẹp ở Arlington, Virginia, cách Nhà Trắng khoảng 6 km. Trước khi ông qua đời ngày 27 tháng 11 năm 2014, hai vợ chồng ông rất thích ngồi xích đu trước hiên nhà trong những ngày hè. Trong một lần phỏng vấn, khi tôi hỏi vợ chồng ông đã kết hôn bao nhiêu lâu, ông liếc nhìn sang vợ và nhờ bà nhắc mình. Bà như không để tâm đến phút đãng trí nhất thời của chồng. Bà dường như đã quen giữ vai trò chính trong mối quan hệ vợ chồng. Do thời gian làm việc của chồng bà luôn dày đặc nên trong suốt 36 năm kết hôn, bà gần như một mình chăm sóc bốn con, hai trai và hai gái.

Chỉ có một ngày là ông Pierce nhớ rõ, đó là ngày 16 tháng 10 năm 1961, tức ngày ông bắt đầu vào làm trong dinh tổng thống. Trong hơn hai thập niên ở Nhà Trắng, thời gian làm việc của ông dài và thất thường đến mức vợ ông cảm thấy “kỳ lạ” mỗi khi ông có mặt ở nhà. Ca trực của các nhân viên quản lý thay đổi thường xuyên đến mức hai vợ chồng Pierce phải đặt một cuốn lịch trên bàn, ngay cạnh chiếc điện thoại để bà Caroline nắm giờ giấc làm việc của chồng. Bà nói rằng các con bà “sống theo cuộc sống của Nhà Trắng”. Không biết bao nhiêu lần, bà phải luôn miệng lặp đi lặp lại với chúng rằng “‘Chúng ta không thể làm chuyện đó vì bố phải đi làm. Chúng ta không thể đi ngày hôm nay vì bố phải đi làm’. Cuộc sống của chúng tôi xoay quanh Nhà Trắng”. Có lần bà đã trêu chồng khi nói rằng bạn bè của mấy đứa nhỏ không biết ông làm gì. Nhìn vào chức vị của ông, tất cả bọn chúng đều nghĩ ông làm nghề dẫn chỗ trong nhà hát [**]. “Điều này làm ông ấy mất giá”, bà đùa.

[**](Theo từ điển thì “usher” là người dẫn chỗ ngồi trong rạp hát, chỉ duy nhất trong Nhà Trắng “usher” mới có nghĩa là quản lý.)

Nhưng Pierce chưa bao giờ quên là mình có đặc ân làm việc trong Nhà Trắng. Có một ngày, Steve Bull, một trợ lý của ông Richard Nixon đang ra khỏi khu Cánh Tây thì gặp Pierce từ dưới cầu thang đi lên để bắt đầu ca trực. Bull chọc quê ông là chưa chi đã đeo thẻ Nhà Trắng khi chưa vào đến bên trong. Pierce nghiêm túc nói: “Trong 210 triệu người trên đất nước này, có bao nhiêu người trong chúng ta được đặc ân đeo chiếc thẻ này?”

Bull khựng lại rồi trả lời: “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều đó”.

Trong suốt thời gian ông làm việc ở Nhà Trắng, chỉ có mỗi việc cố sức theo kịp các yêu cầu của Tổng thống Lyndon B. Johnson là ảnh hưởng nhiều nhất đến cuộc hôn nhân của ông. Giống như một con thú ăn đêm, Johnson thường ăn tối sau 10 giờ, sau đó ngủ vài tiếng và thức dậy lúc 4 giờ sáng. Thợ mộc Isaac Avery, người bắt đầu làm việc ở Nhà Trắng năm 1930, nói rằng anh chưa bao giờ thấy ai giống vậy: “Vợ chồng nhà Kennedy chỉ là sống vội, chứ còn Tổng thống Johnson thì sống ngay trên đường đua”.

Lynda, con gái của Johnson nhớ là mỗi ca làm việc của cha cô kéo dài hai ngày. Cô nói “buổi sáng ông ấy thức dậy làm việc”, đến khoảng 2 hay 3 giờ trưa hoặc bất cứ lúc nào có thể nghỉ giải lao thì ông ấy về nhà để ăn trưa hay ăn xế (nhiều lúc khá trễ, tận 3, 4 giờ trưa). Sau đó ông về phòng mình thay đồ ngủ và đánh một giấc khoảng nửa tiếng hay một tiếng. Và thế là ngày thứ hai của ông bắt đầu”.

Các nhân viên phải điều chỉnh thời gian làm việc của họ cho phù hợp với yêu cầu của Tổng thống Johnson. Họ làm theo ca. Một nhóm quản lý, hầu phòng, phục vụ và đầu bếp đến từ 7, 8 giờ sáng và làm đến 4, 5 giờ chiều. Một nhóm khác đến sau giờ ăn trưa và làm đến đêm hoặc đầu giờ sáng.

Mỗi tối, viên chỉ huy trưởng lực lượng hải quân đều đến mát–xa cho Tổng thống Johnson tại khu nhà ở của tổng thống. Mỗi khi Pierce trực đêm, ông phải đứng đợi ở dưới nhà cho đến khi người chỉ huy trưởng xuống bảo là tổng thống đã lên giường, lúc đó ông mới được tự do ra về. Thỉnh thoảng, Pierce nhớ lại, tổng thống ngủ gục trên bàn và người chỉ huy trưởng phải ngồi đợi cho đến khi ông ấy tỉnh dậy để có thể hoàn tất công việc mát–xa của mình.

“Đến 3, 4 giờ, có khi đến 5 giờ sáng chúng tôi mới ra về”, Pierce nói, không chút oán trách.

Johnson không phải là vị tổng thống duy nhất có cuộc sống cú đêm. Pierce nhớ vợ chồng Kennedy cũng từng tổ chức vài bữa tiệc tối kéo dài đến tận khuya, làm ông phải gọi điện về nhà cho vợ để nhờ bà nói với cậu con trai đầu của họ là đừng đi làm vội mà chờ ông về. Sau đó ông vội vã về nhà để kịp chở con đến tòa soạn báo Washington Post ở cách nhà 10 km. Có đôi khi, đó là lần duy nhất ông gặp mặt con trong ngày.

Khối lượng công việc của các nhân viên quản lý khiến các nhân viên khu Cánh Tây cũng phải bất ngờ. Katie Johnson, cựu thư ký riêng của Tổng thống Obama, đã vô cùng kinh ngạc trước tính hiệu quả của việc họ phối hợp tổ chức một bữa tiệc ăn mừng vào phút cuối dành cho các nhân viên đã giúp đạo luật chăm sóc sức khỏe lịch sử của Tổng thống Obama được thông qua tối ngày 21 tháng 3 năm 2010.

“Mãi đến 4 giờ chiều, chúng tôi mới biết biết đạo luật được thông qua, và dĩ nhiên là danh sách những người làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe lớn hơn nhiều so với dự tính ban đầu. Đến 4 giờ rưỡi, tôi gọi điện cho bên tư dinh và nói với họ rằng chúng tôi cần đồ ăn và thức uống cho một trăm người lúc 8 giờ”, cô nhớ lại. Cô nghĩ họ sẽ thoái thác, thế nhưng “họ lại nói ‘chẳng có gì to tát, chúng tôi hiểu rồi’”. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, họ đã tạo ra một đêm đáng nhớ cho các nhân viên Cánh Tây với bữa tiệc rượu champagne trên ban công Truman.

Cựu phát ngôn viên Nhà Trắng Reid Cherlin nói đó là lần đầu tiên ông đặt chân đến khu nhà ở của tổng thống (vợ chồng Obama đặc biệt rất kín đáo, chỉ có vài người bạn thân của họ, trong đó có Valerie Jarret là được thường xuyên nhìn thấy tầng trên). Cherlin nói đây là một hồi ức “sâu đậm bởi tôi biết mình sẽ không bao giờ đến được nơi đó nữa”.

Trong lúc họ đang thưởng thức champagne, người viết diễn văn Adam Frankel buột miệng xin Reggie Love cho vào xem Phòng ngủ Lincoln, chẳng mấy chốc, tất cả mọi người đều muốn được tham gia chuyến tham quan ngẫu hứng đó.

“Ta làm một vòng nhé”, tổng thống nói với đám người đến dự tiệc.

Chỉ cần có thế. “Tất cả mọi người, từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất đều đi rảo quanh các phòng ngủ ở tầng hai. Ai cũng cười rạng rỡ”, Cherlin nhớ lại. “Tâm trạng tổng thống hôm ấy rất vui vẻ”.

“Tôi chỉ có thể đưa các bạn lên đây khi Michelle đã ra khỏi thành phố thôi”, Obama nói với họ. Chỉ vào một phiên bản của bài diễn văn Gettysburg chưng trong Phòng ngủ Lincoln, vị tổng thống – vốn vẫn tự hào về chữ viết của mình – nói với các nhân viên trẻ là ông rất ngưỡng mộ nét chữ tuyệt đẹp của Lincoln.

Với một chính trị gia thỉnh thoảng vẫn bị xem là cách biệt, Obama thường nói về Nhà Trắng với vẻ thích thú rất trẻ con. Không lâu sau ngày nhậm chức, Frankel đưa một người viết diễn văn mới đến Phòng Bầu dục.

“Lần đầu tiên anh đến đây phải không?”, Obama hỏi.

“Dạ phải, thưa ngài”, cậu đồng nghiệp của Frankel trả lời.

“Anh thấy sao, tuyệt chứ hả?”

QUẢN BẾP WALTER Scheib lập tức nói rằng ông cảm thấy rất vinh dự và biết ơn vì được làm cho Nhà Trắng – mặc dù ông nói làm việc nơi đây không khác ở tù.

“Mỗi ngày chúng tôi đều phục vụ cho cùng một số người đó. Không còn cuộc sống riêng tư, gia đình, đời sống xã hội. Chúng tôi sống theo cái mà chúng tôi gọi là “giờ làm việc linh hoạt ở Nhà Trắng”, có nghĩa là ta chọn bất kỳ 85 giờ làm việc nào ta muốn mỗi tuần. Ta mất gia đình, mất đời sống xã hội, mất đời sống cá nhân, và trong nhiều trường hợp còn mất luôn cả đời sống nghề nghiệp bởi ta làm việc với cùng một nhóm người mỗi ngày, hết ngày này đến ngày khác. Vì thế ta phải luôn tìm cách gì mới để giữ mãi sự vui tươi”.

Nhiều nhân viên phục vụ mà tôi phỏng vấn đã ly hôn, một phần cũng tại công việc của họ. Phục vụ James Ramsey quả quyết rằng ông chưa bao giờ vui hơn kể từ lúc ly dị vợ năm 1995, mặc dù chuyện này làm ông mất đứt căn nhà và chiếc xe. “Bây giờ tôi muốn đến muốn đi lúc nào cũng được. Tôi làm mọi thứ tôi muốn, chẳng còn ai nói tôi phải làm gì. Tôi yêu cuộc sống của tôi”. Không có ai để đáp trả cũng là chuyện tốt khi ta phải làm việc trong điều kiện giờ giấc thất thường. Đôi lúc Ramsey ra khỏi nhà từ 5, 6 giờ sáng và chỉ quay về vào 2 giờ sáng hôm sau nếu trong dinh có tiệc tối.

Phục vụ James Hall, người được Nancy Reagan đặt biệt danh là “Big Man”, bắt đầu công việc ở Nhà Trắng năm 1963. Chín năm sau thì ông ly hôn. Hall được gọi đến phục vụ cho các quốc yến và phụ giúp các nhân viên phục vụ toàn thời gian mỗi khi thiếu người, ông thường nhận được cuộc gọi vào phút chót sau khi đã làm việc toàn thời gian ở Khu lưu trữ văn kiện quốc gia với tư cách kỹ thuật viên thư viện.

Hall qua đời cùng quãng thời gian với James Ramsey bạn ông. Trước lúc Hall ra đi, tôi đã phỏng vấn ông tại căn hộ gọn gàng ngăn nắp của ông tại khu nhà hưu trí ở Suitland, Maryland, nơi căn phòng ngủ thứ hai được ông dành trọn để trưng bày những gì liên quan đến sự nghiệp của mình. Trong số các kỷ vật đó, có hai lá thư của Quản bếp Rex Scouten viết cảm ơn ông đã giúp đỡ cho bữa dạ tiệc vinh danh các tù binh Mỹ tại Việt Nam, và cho bữa tiệc cưới của Tricia Nixon. Những lá thư này được treo cạnh thư chia buồn của Tổng thống Clinton khi cha ông mất năm 1995.

Hall không hề oán giận chuyện mình ly hôn hay những lần về khuya vì phải ở lại làm việc ở Nhà Trắng. Nhớ đến thời gian làm việc dưới thời Nixon, lúc các nhân viên phục vụ còn mặc áo đuôi tôm và áo gi-lê trắng, ông nói: “Họ buộc chúng tôi phải thay gi-lê trắng bằng gi-lê đen vì cho rằng chúng tôi ‘còn chải chuốt hơn cả khách mời’”.

Dĩ nhiên là không phải cứ làm việc ở Nhà Trắng là có nguy cơ vướng vào chuyên ly hôn. Một số cặp vợ chồng thậm chí đã quen biết nhau lúc làm chung trong Nhà Trắng. Sau một thời gian tán tỉnh nhau, cuối cùng đến năm 1980 Tổng quản lý Bộ phận Phòng Christine Crans cũng yêu anh kỹ sư Robert Limerick. Cả hai gặp nhau khi Crans lấy số đo của Limerick để may đồng phục cho anh. Ông kỹ sư trưởng, sếp của Limerick, lúc nào cũng chọc ghẹo họ cho đến khi cả hai quyết định “công khai chuyện này để làm ông ấy vui”, Christine nhớ lại. Chưa đầy một năm sau, họ kết hôn.

Khi Christine cho Nancy Reagan biết mình đã đính hôn, đệ nhất phu nhân rất phấn khởi, và cả nhẹ nhõm nữa. “Tôi nghĩ bà ấy lo tôi sẽ trở thành gái già”, Limerick phá lên cười. Do người quản lý Bộ phận Phòng trước bà cũng từng kết hôn với một bếp trưởng bánh ngọt nên từ đó “mọi người đùa rằng các quản lý Bộ phận Phòng đến Nhà Trắng là để kiếm chồng”. Tại bữa tiệc cưới nho nhỏ của họ ở Deale, Maryland, có khoảng 40 trong số 65 khách mời là nhân viên Nhà Trắng cùng với vợ chồng họ, trong số đó có Gary Walters và Rex Scouten.

Tuy nhiên, lịch làm việc bận rộn cũng gây cho họ không ít thách thức. Lúc gia đình Clinton ở Nhà Trắng, Giáng sinh năm nào Limerick cũng phải đi làm, vì thế hai vợ chồng bà cuối cùng quyết định là Robert sẽ nghỉ công việc kỹ sư ở Nhà Trắng vì lịch làm việc quá căng. Ngoài chuyện bực bội vì khó phối hợp lịch làm việc của hai người với nhau, vợ chồng Limerick còn không thể kể cho nhau nghe những điều khác thường mà họ nghe được trong công việc, dù cả hai đều làm trong Nhà Trắng. “Chúng tôi không phải lúc nào cũng có thể kể hết mọi chuyện cho nhau nghe khi về nhà”.

QUẢN LÝ SKIP Allen, làm việc ở tư dinh từ năm 1979 đến năm 2004, biết một nhân viên đã hy sinh đời mình cho công việc. Frederick “Freddie” Mayfield bắt đầu làm việc ở Nhà Trắng năm 1962. Công việc của ông là quét dọn và di dời các đồ đạc nặng. Khi lên được chức gác cửa thì ông cũng đã trở thành một nhân viên lão làng với mái tóc bạch kim, chiếc cà vạt trắng cùng chiếc áo đuôi tôm đen (ông cũng có thái độ điềm tĩnh đáng kính giống người đồng nghiệp Preston Bruce của mình). Là nhân viên gác cửa, tối đến ông có nhiệm vụ đứng cạnh thang máy để đưa tổng thống về nhà. “Ông ấy có nụ cười rất tươi”, Luci Baines Johnson nói. “Đối với Freddie Mayfield, mỗi ngày đều là Giáng sinh”.

Có một ngày, Mayfield kể với Allen rằng bác sĩ nói ông cần phẫu thuật bắc cầu động mạch vành gấp. Mayfield nói: “Tôi biết mình phải làm chuyện này, bác sĩ nói tôi phải phẫu thuật ngay lập tức nhưng tôi sẽ đợi cho đến khi tổng thống thực hiện chuyến công du sắp tới cái đã”. Nhưng khi chuyến đi kế tiếp của tổng thống đến thì đã quá trễ. Mayfield lên cơn đau tim trên đường đến nơi làm việc và qua đời khi chỉ mới 58 tuổi, “ông ấy chưa bao giờ điều trị bệnh tim vì liên tục nói rằng ‘Tổng thống hiện đang cần tôi, tôi sẽ đợi đến khi ông ấy đi xa mới vào bệnh viện’. Ông ấy không bao giờ làm được chuyện đó”. Không phải vì Mayfield nghĩ rằng chỉ có ông mới làm được việc này, Allen nói. “Đây là niềm tự hào công việc, là ‘tôi muốn làm hết sức mình cho tổng thống’, và họ đã cố gắng hết sức làm điều đó”.

Ngày 17 tháng 5 năm 1984, bà Nancy Reagan đến dự đám tang Mayfield. Bà xúc động trước sự ra đi của ông đến mức thốt lên rằng “không có ông ấy, nơi này dường như không còn như cũ”. Phục vụ Herman Thompson nhớ mình đã rất xúc động khi nhìn thấy bà trong đám tang. “Tôi nghĩ bà ấy rất kính trọng người đã khuất”. Nhiều thập niên sau, bà nói bà nhớ mình đã “sốc và đau buồn” đến nhường nào khi nhận được điện thoại báo tin ông mất. Bà lập tức biết rằng “mọi thứ sẽ không còn như trước khi thiếu đi gương mặt tươi cười của ông ấy ở cửa thang máy”.

Tất cả các nhân viên đều xem nhau như người nhà. Thời Freddie Mayfield còn sống, nhiều người thường chơi golf với nhau. Cứ mỗi tối thứ Sáu, một nhóm nhân viên lại tụ tập ở đường băng bowling trong tòa nhà văn phòng điều hành Eisenhower để đấu với các nhân viên mật vụ và sĩ quan cảnh sát. Khi bà Caroline vợ ông Nelson Pierce nghe đến tên người bạn già Freddie, gương mặt bà tươi hẳn lên. “Freddie rất thích ăn cổ gà tây. Lễ Tạ ơn nào tôi cũng để dành cổ gà tây gởi cho ông ấy”.

Tình bằng hữu giữa các nhân viên vẫn tiếp tục tồn tại cho đến hôm nay. Mỗi khi một nhân viên có người nhà qua đời hay gặp khó khăn chi trả phí khám chữa bệnh, các đồng nghiệp của người đó sẽ bỏ tiền vào một cái hũ đặt trong phòng để đồ ăn ở tầng một để phụ vào chi phí khám chữa bệnh.

“Mỗi khi ta có một ngày không vui, một nhân viên phục vụ sẽ bước vào chào ta buổi sáng và làm ta cười”, Quản lý Nancy Mitchell hồi tưởng. “Lúc nào cũng có người vào phòng và giúp ta lấy lại tinh thần”.

Phục vụ James Jeffries đến từ một gia đình có nhiều người làm việc trong Nhà Trắng. Gia đình ông có đến chín thành viên làm việc ở đây. Cậu của ông, Charles Ficklin, là quản lý tổ phục vụ của Nhà Trắng. Một người cậu khác, John Ficklin, lúc đầu làm nhân viên phục vụ nhưng sau đó cũng trở thành quản lý tổ phục vụ.

Khi mẹ Jeffries mất năm 2012, ông đau buồn nhớ lại, “ngoại trừ tổng thống ra, còn thì hầu hết mọi người đều đến đưa tang mẹ tôi”. Tuy mẹ ông chưa bao giờ làm việc cho Nhà Trắng nhưng các nhân viên phục vụ Buddy Carter và James Ramsey cùng Quản lý kho Bill Hamilton cũng đến bày tỏ sự ủng hộ của họ với gia đình Ficklin. Các đồng nghiệp của ông góp gần 400 đô la tiền phúng mặc dù chẳng ai giàu có. Jeffries càng kinh ngạc hơn khi mọi chuyện lại diễn ra tương tự khi một người cậu của ông mất. “Cậu tôi không làm việc trong Nhà Trắng nhưng ông ấy là một người thuộc dòng họ Ficklin. Ông ấy qua đời ở Amissville, Virginia. Khi chúng tôi đang tiến hành tang lễ thì đột nhiên tôi nghe tiếng cửa nhà thờ bật mở và ông West, các quản lý cùng một vài người khác ở Nhà Trắng bước vào tiễn đưa cậu tôi. Tôi nhớ ai đó đã đọc to lá thư chia buồn tổng thống gởi tới”, ông ngưng lại một lúc. “Tôi bật khóc vì hạnh phúc khi thấy mọi người nghĩ đến chúng tôi”.

Jeffries hiện vẫn tiếp tục phục vụ ở Nhà Trắng mỗi tuần vài ngày. Ông nói mình sẽ nghỉ hưu “khi chân tôi không còn trụ vững”. Mỗi khi đến Nhà Trắng, việc đầu tiên ông làm là lấy bảng phân công đặt trên mặt tủ bếp ra xem. Công việc của ông ngày hôm ấy có thể là túc trực ở căn bếp tầng một để pha chế rượu hay mang khay thu dọn ly tách bẩn. Ông nói ông thích pha chế rượu hay rửa bát đĩa trong bếp hơn vì việc cầm khay chất đầy ly tách là quá nặng với một người ở độ tuổi thất tuần lại viêm khớp như ông. Ông cho biết là vừa rồi, quản lý của ông đã hỏi thăm ông có sao không sau khi ông thở không ra hơi do liên tục chạy tới chạy lui giữa nhà bếp với Phòng Đông, mỗi lần bưng hai đĩa thức ăn cùng một lúc. Nhưng ông luôn gạt phắt đi. “Tôi không muốn than thở”, ông nói. Những ngày như thế, các đồng nghiệp luôn đỡ đần để ông không phải làm nhiều việc nặng, giống như ông từng giúp đỡ các nhân viên phục vụ lớn tuổi khác hồi ông mới vào đây, năm 1959.

“Tôi nhớ có một lần, các nhân viên phục vụ vì quá già yếu nên khi bưng chiếc khay chất đầy thức uống, tôi nghe tiếng thủy tinh va vào nhau nghe leng keng vì lực tay họ không đủ mạnh”, ông nói. “Tôi liền chạy ra ngoài đỡ chiếc khay và thế chỗ cho ông ấy để ông ấy có thể quay trở vào trong”.

Các nhân viên phục vụ thường để lại ấn tượng lâu dài cho đệ nhất gia đình cùng các trợ lý của họ. Desirée Rogers vẫn nhớ về sự mất mát của Nhà Trắng khi nhân viên phục vụ lâu năm Smile “Smiley” Saint–Aubin qua đời đột ngột năm 2009. Cô gọi cái chết của ông là “một trong những điều đau lòng nhất trong thời gian tôi và nhóm chúng tôi làm việc ở đó”. Như thể đang nói về sự mất mát của một người thân trong chính gia đình mình, Rogers cho biết gia đình Obama đã tổ chức một buổi lễ vinh danh Smile ở Nhà Trắng có mặt gia đình ông.

“Ông ấy là một người rất tử tế và làm việc rất giỏi, chính vì thế chúng tôi gọi ông ấy là ‘Smiley’ tức luôn vui vẻ tươi cười, lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ, sẵn sàng giúp đỡ, dù đó là việc văn phòng cần hay việc các đồng nghiệp nhờ”, cô nói. “Tất cả chúng tôi đều nghĩ đây là một mất mát quá sớm, ngay tại thời điểm chúng tôi đang học cách làm quen với công việc ở đây. Thời điểm đó quả thật khó khăn”.

Tuy nhiên, sự hy sinh của các nhân viên không phải là không được biết đến. Charles Allen, con trai người phục vụ kiêm quản lý tổ phục vụ Eugene Allen, nhớ có lần ba anh đã kể cho anh nghe một câu chuyện cho thấy sự hết lòng của đệ nhất gia đình với các nhân viên của họ. Lo lắng cho người vợ bị ung thư của một người phục vụ, phu nhân Lady Bird Johnson liên tục hỏi thăm anh ta xem vợ anh ta được điều trị ra sao. Khi không vừa ý với cách anh trả lời, bà đã gọi điện cho hai bác sĩ điều trị ung thư được đánh giá cao nhất nước. Ngay trưa hôm đó, họ bay từ New York đến sân bay quốc gia Washington để gặp vợ người phục vụ.

Tương tự, thợ điện Bill Cliber cũng bày tỏ sự thương yêu và kính trọng đối với phu nhân Bird khi nhớ lại việc các nhân viên mật vụ đến gặp ông không lâu sau ngày con trai ông ra đời.

“Vợ anh nằm ở bệnh viện nào?” Họ hỏi.

“Cô ấy ở bệnh viện Washington Adventist ở Takoma Park”, ông trả lời. “Sao vậy?”

Họ nói phu nhân Lady Bird tính tặng hoa cho vợ ông. Ông ngưng lại, mắt rưng rưng dù đã nhiều năm trôi qua. “Ồ không”, ông không tin vào tai mình. “Đệ nhất phu nhân đi lấy hoa và đem đến bệnh viện tặng vợ tôi”. Bà Bea vợ ông ngồi cạnh đó trong lúc ông kể chuyện, nhưng khi tôi yêu cầu bà ấy kể chi tiết hơn thì bà lắc đầu từ chối. Hồi ức đó, bà chỉ muốn cất giữ cho riêng mình.

Ngày hôm sau khi Cliber đến cảm ơn phu nhân Lady Bird, bà nói đây là việc dễ làm nhất trên cương vị một đệ nhất phu nhân.