Chương 7 Chủng tộc và Nhà Trắng
Bất kỳ người Mỹ nào hiểu được lịch sử phức tạp của đất nước này cũng sẽ cảm nhận được điều đó. Nhất là khi ta nhìn vào những bức vẽ mô tả quá trình xây dựng tòa nhà và thấy rằng nhiều nô lệ đã không thể bước chân vào để tham gia xây dựng nên tòa nhà này. Trong số những nô lệ đó có thể có tổ tiên tôi, chính vì thế việc chúng tôi là gia đình Mỹ gốc Phi đầu tiên sống ở ngôi nhà này qua chừng ấy năm có ý nghĩa và sức mạnh đến thế nào
– Đệ nhất phu nhân Michelle Obama.
Cuộc bầu cử 2008 huyền thoại đưa ông Obama lên ngôi tổng thống đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử nước Mỹ và được nhiều người ca ngợi như là thành công của phong trào dân quyền. Không hơn 40 năm trước khi diễn ra cuộc bầu cử, việc kỳ thị người Mỹ gốc Phi ở miền Nam được xem là hợp pháp. Khoảng 100 năm trước đó nữa, các phòng đấu giá nô lệ được dựng lên ngay Quảng trường Lafayette nhìn thẳng ra Nhà Trắng. Nhưng bây giờ thì đệ nhất gia đình Mỹ gốc Phi của đất nước đang được phục vụ bởi một đội ngũ phục vụ có đa số là người Mỹ gốc Phi.
Lúc gia đình Obama mới dọn vào Nhà Trắng, họ rất thận trọng với các nhân viên. Một số quan sát viên tin rằng họ không hoàn toàn thoải mái khi có người phục vụ bữa ăn cho mình. Vợ chồng tổng thống đương nhiên ý thức rất sâu sắc về thân phận lịch sử có một không hai của họ. Ông Obama không chỉ là người Mỹ gốc Phi đầu tiên đắc cử tổng thống mà, như ông đã lưu ý trong bài phát biểu về vấn đề chủng tộc được đón chào nồng nhiệt trong mùa bầu cử sơ bộ năm 2008, mà vợ ông cũng là “một người Mỹ da đen mang trong mình dòng máu nửa nô lệ nửa chủ nô”. Jim Robinson, ông sơ của bà Michelle Obama là một nô lệ. Còn ông cố của bà, Fraser Robinson, lúc trẻ không biết chữ và mãi sau này mới học đọc. Một số thành viên của gia đình Phu nhân Obama làm công việc gần giống với những việc mà các gia nhân trong tư dinh đang làm, như ông ngoại Purnell Shields của bà chẳng hạn từng làm công việc vặt ở Chicago, còn dì của bà làm người giúp việc.
Từ lúc đắc cử, tổng thống cố tránh để không sa vào các mối quan hệ sắc tộc, thế nên các trợ lý của ông không có gì nhiều để nói về mối quan hệ giữa những người giúp việc với đệ nhất gia đình. Nhưng Tổng Quản lý Stephen Rochon, nghỉ hưu năm 2011 trên cương vị tổng quản lý da đen đầu tiên, nói rằng ông vẫn nhận thấy có sự đồng cảm đặc biệt giữa các gia nhân Mỹ gốc Phi và gia đình Obama vì “họ có cùng nền văn hóa”. Ông nói về “cảm giác tự hào” của các gia nhân vì “đất nước này đã tiến bộ đến mức có một tổng thống da đen”.
Với Desirée Rogers – nay là CEO của Nhà xuất bản Johnson, nơi phát hành các tạp chí Jet và Ebony – việc cô là thư ký xã hội Mỹ gốc Phi đầu tiên của đệ nhất gia đình này có ý nghĩa rất đặc biệt. “Vào ngày nhậm chức, điều lôi cuốn tôi nhất chính là chứng kiến tất cả những quý ông lịch lãm đó chuẩn bị cho sự chuyển đến của vị tổng thống Mỹ gốc Phi đầu tiên, và tôi không thể không chú ý đến vẻ mặt của họ. Họ thực sự làm tôi nhớ đến ông tôi, vốn cũng là một trụ cột gia đình”. Cô nói cô ước gì ông mình có mặt ở đó để chứng kiến chuyện này.
Rogers thường nghe các nhân viên phục vụ nói rằng họ chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày phục vụ vị tổng thống Mỹ gốc Phi đầu tiên. Họ thậm chí còn cố gắng làm việc nhiều hơn bình thường một chút. “Tôi có thể thấy họ tự hào thế nào khi chuẩn bị cho đệ nhất gia đình dọn đến. Với tôi, khoảnh khắc chuẩn bị nhà cửa để đón gia đình này vào thực sự rất xúc động khi tôi chứng kiến tất cả những quý ông lịch lãm đó làm việc thật chăm chỉ để đảm bảo mọi thứ thật hoàn hảo lúc gia đình tổng thống đến sau khi xem lễ diễu hành”.
Lonnie Bunch, giám đốc sáng lập Bảo tàng Lịch sử và Văn hóa Quốc gia về người Mỹ gốc phi thuộc Viện bảo tàng Smithsonian, đồng thời cũng là thành viên của ủy ban Bảo tồn Nhà Trắng, nói ông sẽ rất ngạc nhiên nếu như bà Michelle Obama không bao giờ nói với các nhân viên Mỹ gốc Phi ở Nhà Trắng về hoàn cảnh chung đặc biệt của họ. Nhưng ông nhanh chóng chỉ ra rằng nếu chỉ dựa vào một mình chủng tộc của gia đình Obama không thôi thì không thể nói là họ thân thiết với các nhân viên Mỹ gốc Phi hơn những người tiền nhiệm của họ. “Nhưng rõ ràng là họ có sự đồng cảm và tình cảm với những người đàn ông và phụ nữ đó”, ông nói. “Tôi nghĩ cái cảm giác đó chính là, giống như Michelle từng nói, ‘những người đó có thể là tôi hay những thành viên trong gia đình tôi’”.
Quản lý Điều hành Tony Savoy, đã về hưu năm 2013, dứt khoát nói rằng việc ông Obama bước vào Nhà Trắng không ảnh hưởng đến cách điều hành công việc của ông. “Tôi sẽ làm hết sức mình, cống hiến tất cả những gì có thể cho người đó, bất kể họ là ai”, ông nói. “Tôi sẽ không tận tụy với ông ta hơn là với một nữ tổng thống hay một tổng thống da trắng. Sẽ không có gì khác biệt. Tôi sẽ cống hiến một trăm mười phần trăm sức lực cho tất cả mọi tổng thống”.
HAI CHIẾN THẮNG mà Tổng thống Obama giành được để bước vào Nhà Trắng càng đặc biệt nổi trội hơn nếu xét mối quan hệ rắc rối giữa Nhà Trắng với chế độ chiếm hữu nô lệ. Việc buôn bán nô lệ ở Washington phát triển mạnh ở thế kỷ 19 mặc dù vẫn có nhiều người da màu tự do. Trong thời điểm xảy ra cuộc Nội chiến, hồ sơ điều tra dân số cho thấy có 9.029 người da đen và 1.774 nô lệ sống ở Washington, D.C. Trở ngược lại năm 1792, khi mới bắt đầu xây dựng tòa hành pháp, thủ đô mới này lúc đầu chỉ là một đầm lầy ở xa các khu trung tâm lớn phía đông, và được tách ra từ hai tiểu bang theo chế độ nô lệ là Maryland và Virginia.
Lúc ông John Adams chuyển đến Washington tháng 11 năm 1800, một phần ba dân số của thành phố này là người da đen và hầu hết là nô lệ. Những người Mỹ gốc Phi, cả người tự do lẫn người nô lệ, cũng đã góp công xây dựng phần lớn thủ đô nước Mỹ qua việc mài đá để làm cột và xây tường cho Nhà Trắng và Điện Capitol. Những người lao động này được chủ nhân của họ cho thuê để đến làm việc tại các mỏ đá chính phủ ở Aquia, Virginia, và chỉ được trả công bằng đồ ăn (thịt heo và bánh mì) và thức uống (khẩu phần hằng ngày là nửa lít rượu whisky mỗi người) Không ai biết nhiều về họ ngoài những cái tên như “Jerry”, “Charles”, “Bill” ghi trên hồ sơ chính phủ.
Thật khó để hình dung khu đất Nhà Trắng trông ra sao trong quá trình xây dựng. Một bãi đá được dựng lên ở phía đông bắc tòa nhà với hàng chục nhà xưởng lớn chứa đầy bàn cắt đá. Gần các bức tường mới xây của ngôi nhà là hai cần kéo ba mấu cao, dùng để nhấc các khối đá đưa đến nơi cần đặt. Những thiết bị này đỡ những chiếc ròng rọc khổng lồ và có cái cao đến 15 mét, vươn lên trên công trường xây dựng rộng lớn này. Bất chấp kiến trúc đồ sộ của nó – đây là tòa nhà rộng nhất nước Mỹ cho đến sau cuộc Nội chiến – Nhà Trắng vẫn là một nơi khá thô thiển trong suốt nhiều thập niên sau khi viên đá đầu tiên được đặt.
Đến khi tòa nhà có người đến cư ngụ, các nô lệ mới lần lượt được từng tổng thống miền Nam, bao gồm Thomas Jefferson, James Madison và Andrew Jackson, đưa vào Nhà Trắng cho đến năm 1860. Năm 1830, dưới thời Tổng thống Jackson, theo ghi chép của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, có 14 nô lệ sống trong tòa nhà này, trong đó có 5 trẻ em dưới 10 tuổi. “Về cơ bản thì dấu tay của người Mỹ gốc Phi đã hiện diện trên Nhà Trắng ngay từ lúc khởi đầu”, Lonnie Bunch lưu ý. Do các tổng thống đầu tiên phải tự bỏ tiền túi ra trả lương cho các gia nhân nên số gia nhân lúc đó ít hơn bây giờ nhiều. Tổng thống Jefferson chỉ có khoảng một chục người hầu, trong số đó chỉ có ba người là da trắng, còn lại toàn các nô lệ Mỹ gốc Phi đến từ Monticello, tức quê hương của Jefferson ở Virginia.
Nhiều tổng thống miền Nam ở thời kỳ đầu cố gắng cắt giảm chi phí bằng cách thay các gia nhân được trả lương – gồm người da trắng và người da đen tự do – bằng nô lệ riêng của họ. Tổng thống James Madison cũng trông cậy vào sự giúp đỡ của các nô lệ mà ông đưa từ quê nhà ông ở Montpelier lên. Người hầu riêng của ông, một nô lệ tên Paul Jennings, cuối cùng đã mua được sự tự do của mình và là người đầu tiên viết hồi ký kể về cuộc sống trong tòa hành pháp.
Khi chuyển đến Nhà Trắng, Tổng thống Andrew Jackson, một chủ nô ở Tennessee, quyết định tiết kiệm tiền bằng cách thay một số người hầu da trắng bằng các nô lệ đưa từ Tennessee lên. Các nô lệ xuất hiện trước mặt công chúng trong bộ y phục cầu kỳ, gồm áo khoác xanh dương đính nút đồng và quần ống túm màu vàng hoặc trắng. Hầu hết bọn họ đều sống trong những căn phòng đông đúc dưới tầng hầm hay trên gác mái, nơi có trần nhà dốc và ánh sáng lờ mờ. Lúc đó ở dưới tầng hầm chưa có căn bếp dài 12 mét với những chiếc lò sưởi khổng lồ. Ở nửa đầu thế kỷ 19, những gia nhân được trả lương cùng các nô lệ đều phải ngủ trên giường xếp hay những tấm nệm sờn cũ.
Thời điểm Tổng thống Zachary Taylor nhận nhiệm sở tháng 3 năm 1849 cũng là thời điểm những người miền Bắc bộc lộ sự bất bình dữ dội với chế độ chiếm hữu nô lệ. Để tiết kiệm tiền, ngoài 4 gia nhân trong tòa nhà, ông đưa thêm 15 nô lệ, trong đó có một số trẻ em, từ quê hương Louisiana của ông lên, nhưng không để họ thường xuyên lộ diện vì lo ngại phản ứng của công chúng. Cuối cùng thì chế độ nô lệ cũng được bãi bỏ ở thủ đô năm 1862.
Vai trò của các gia nhân Nhà Trắng dần dần được cải thiện. Nếu như năm 1835 người duy nhất được xếp vào vị trí quản lý trong sổ sách Liên bang là người làm vườn chính, thì đến năm 1866 Quốc hội đã lập ra chức vụ “quản gia” chính thức khi Tổng thống Andrew Johnson tuyển William Shade, một người Mỹ gốc Phi từng là người đưa tin riêng cho Tổng thống Abraham Lincoln, làm người quản lý chính thức đầu tiên của Nhà Trắng. Công việc của người này khá giống với công việc của người tổng quản lý hiện nay, tức là quản lý toàn bộ nhân viên trong tòa hành pháp và giám sát tất cả các sự kiện công và tư. Do Shade là người chịu trách nhiệm về toàn bộ tài sản của chính phủ trong tòa nhà nên ông được giao phụ trách nguồn ngân quỹ 30.000 đô la, một số tiền rất lớn ở thế kỷ 19. Văn phòng nhỏ của Shade nằm giữa hai khu bếp dưới tầng hầm, bên trong có những chiếc tủ chất đầy đồ bạc và đồ sứ, cùng những chiếc rương da lớn đựng bát đĩa sứ và muỗng nĩa từ thời Tổng thống James Monroe và Tổng thống Andrew Jackson (những món đồ này vẫn được sử dụng ở các bữa tiệc tối sau cuộc Nội chiến). Đích thân Shade giữ chìa khóa rương và kiểm tra từng món đồ một sau khi chúng được rửa và xếp cất sau các bữa tiệc tối long trọng. Nhà Trắng không có tổng quản lý Mỹ gốc Phi nào khác cho đến khi đô đốc Stephen Rochon tiếp nhận vị trí này năm 2007.
Một thế kỷ sau khi Tổng thống Jefferson cắt giảm chi tiêu bằng cách thay những người hầu da trắng bằng các nô lệ da đen, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đưa Henrietta Nesbitt, người quản gia của ông ở Hyde Park lên để giúp điều chỉnh các khoản chi tiêu bừa bãi của đệ nhất gia đình. Không bao lâu sau ngày Roosevelt nhậm chức, Nesbitt giúp đệ nhất phu nhân sắp xếp lại bộ phận gia nhân. Bà Eleanor Roosevelt quyết định sa thải toàn bộ người giúp việc da trắng (trừ Nesbitt) và chỉ giữ lại các gia nhân Mỹ gốc Phi. Là một người nổi tiếng ủng hộ dân quyền, lý do bà đưa ra khiến mọi người khá ngạc nhiên: “Phu nhân Roosevelt và tôi đồng ý với nhau là các gia nhân cùng màu da hiểu rõ nhau trong công việc hơn và giúp cho cơ ngơi này được vận hành trôi chảy hơn”, Nesbitt viết trong hồi ký của bà.
Trước khi các nhân viên da trắng bị sa thải, các gia nhân da trắng và gia nhân da đen ăn trong hai phòng ăn khác nhau. Theo Alonzo Fields, một nhân viên phục vụ Mỹ gốc Phi thời đó, mỗi khi các gia nhân Mỹ gốc Phi đi cùng tổng thống đến nhà riêng ông ấy ở Hyde Park, New York, họ không được phép ăn trong phòng ăn dành cho người giúp việc mà được bảo phải ăn trong bếp. Chính vì chuyện này mà “tôi không tin Nhà Trắng có thể nêu gương cho phần còn lại của nước Mỹ”, Fields viết trong hồi ký của ông.
NHIỀU THẬP NIÊN trôi qua, các gia nhân Mỹ gốc Phi giờ đây đã tận dụng vị trí uy tín này của họ để vươn lên. Mặc dù họ vẫn là người giúp việc nhưng là giúp việc cho ngôi nhà quan trọng nhất nước Mỹ. Lynwood Westray khởi đầu sự nghiệp 32 năm bằng công việc phục vụ bán thời gian ở Nhà Trắng từ năm 1962. Sinh ra và lớn lên ở Washington, D.C., ông nhớ năm 1939 ông chỉ kiếm được sáu đô một tuần với công việc bán hàng trong một tiệm tạp hóa. Giờ đây khi đã 93 tuổi, ông hồi tưởng lại thời gian làm việc ở Nhà Trắng trong căn nhà trệt ba phòng ngủ ở đông bắc Washington của mình. Đây là căn nhà ông mua với giá 13.900 đô la năm 1955, vài năm sau khi kết hôn với bà Kay vợ ông. Bên ngoài nhà là con đường bốn làn xe với những dòng xe lao vùn vụt. “Thời buổi bây giờ ai cũng điên, cứ thích hất tung các xe khác ra khỏi đường”, ông nói. Ở lối vào nhà ông có hai bức hình Tổng thống Abraham Lincoln và Tổng thống Barack Obama lồng khung treo cạnh nhau, còn trên chiếc bàn kê sát tường là con búp bê mô phỏng bà Michelle Obama. Ngoài ra còn có hai tấm thiệp chúc mừng Giáng Sinh của vợ chồng Johnson và vợ chồng Carter được lồng khung treo trong phòng ăn.
Westray từng là thành viên của Công ty cung cấp nhân viên phục vụ tư nhân. Công ty này do một nhóm phục vụ Mỹ gốc Phi ở Nhà Trắng lập ra để giúp nhau tìm việc làm thêm ở các tư gia vào những tối không bận việc trong Nhà Trắng. Họ lợi dụng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, Westray nói. Những người làm việc trong chính phủ thường gọi điện cho quản lý tổ phục vụ Nhà Trắng để xem có nhân viên phục vụ nào rảnh rỗi thì đến nhà họ phục vụ các bữa tiệc. Điều này giúp họ có cơ hội được hầu hạ bởi một đội ngũ phục vụ đẳng cấp thế giới (và có quyền khoe khoang khoác lác) tại các sự kiện tư nhân. Do đó, mỗi khi Westray không phải làm việc toàn thời gian ở bưu điện (nơi ông từ chức thư ký leo dần lên chức quản đốc) hay làm việc bán thời gian ở Nhà Trắng, ông lại đến phục vụ cho các thành viên Quốc Hội, các đại sứ hay những nhà môi giới có thế lực ở Washington trong các bữa tiệc tối ở Georgetown.
“Họ hết sức thích thú. Lúc giới thiệu ta với mọi người, họ gọi ta là ‘ông’ chứ không phải Sam, John hay Charles. Tôi là ông Westray!”
Westray nói rằng ngày xưa việc phục vụ bị xem là “một công việc hèn hạ”. Ông nói các bạn ông không nhận thức được vị trí này của ông ấn tượng đến mức nào “cho đến khi họ khám phá ra rằng chúng tôi kiếm được toàn bộ số tiền này nhờ làm thêm bên ngoài”. Nhờ mối quan hệ với Nhà Trắng mà “các nhân viên phục vụ ở thành phố này có cuộc sống dư dả!”, Westray nói.
Vào một trong những lần đầu tiên tôi phỏng vấn Westray, mắt ông sáng lên khi bà Kay vợ ông mặc quần tây xanh và tô son đỏ chót chầm chậm bước vào phòng với sự hỗ trợ của chiếc khung tập đi. Tình cảm của họ dành cho nhau rất dễ lan tỏa bởi họ không ngớt trêu chọc nhau. Khi được hỏi bí quyết duy trì cuộc hôn nhân lâu dài của họ, bà Kay nói “Chúng tôi yêu nhau một chút, cãi nhau một chút, rồi làm hòa và bắt đầu lại từ đầu”.
Ông Lynwood cười toét miệng xen vào: “Năm mươi năm đầu là khó khăn nhất”.
Bà Kay qua đời tháng 5 năm 2013 sau 65 năm kết hôn. Giờ đây Westray nói ông hầu như chẳng biết làm gì khi không có bà. Ông kể chuyện mình hôn lên trán vợ ngay trước khi bà qua đời không phải với sự buồn rầu mà là một cảm giác là lạ. “Cái chết là một phần của sự sống”, ông nói. Ông giữ một bản cáo phó ép nhựa trong túi áo và đặt bình hài cốt của vợ trên mặt lò sưởi, phía trên chiếc tất Giáng sinh mà ông vẫn treo y nguyên ở đó một năm sau ngày bà mất. Nhưng ông vẫn cố hết sức sống tiếp. “Tôi đang học cách sống một mình. Tôi nấu ăn, giặt đồ, quét dọn, những việc tôi chưa từng làm”, ông buồn bã nói. Mỗi lần tự nấu ăn cho mình, ông lại chọn những món vợ yêu thích nhất, như món táo chiên chẳng hạn, để chứng tỏ với gia đình là ông tự xoay sở được. Nhưng ông sẽ không nghĩ đến chuyện có bạn gái khác bởi “tôi đã quá già rồi”.
Mười năm đầu, Lynwood Westray chỉ làm việc bán thời gian ở Nhà Trắng để bổ sung cho nguồn thu nhập chính ở bưu điện. Sau khi nghỉ hưu ở bưu điện năm 1972, ông được ông tổng quản lý mời gia nhập đội ngũ làm việc thường xuyên ở Nhà Trắng. “Vợ tôi không muốn tôi làm ở đó vì giờ giấc không ổn định”. Nhưng Gloria, cô con gái độc nhất của vợ chồng Westray thì lại nói rằng công việc của cha cô “đã mở ra cho họ nhiều cánh cửa”. Cô thích kể với mọi người là cha minh làm việc trong Nhà Trắng và phát hiện ra rằng điều này giúp cô xem trọng bản thân hơn. “Tôi đặt tiêu chuẩn bản thân cao hơn”, cô thổ lộ. “Tôi không thể ra ngoài làm chuyện không hay”.
Lúc còn là một cô bé tuổi teen, Gloria kể, có một ngày khi đi học về, cô nhìn thấy một nhân viên FBI đang đợi mình. “Mẹ tôi sợ xanh cả mặt. Hóa ra là cái anh chàng hơi lớn tuổi mà tôi đang hẹn hò bị dính vào một chuyện không hay nên FBI đến hỏi tôi, và tôi làm như thể ‘cháu quả thật không biết gì hết’. Chắc cô cũng tưởng tượng được là chuyện gì xảy ra khi ba tôi về nhà”. Cô phải hứa với cha là không bao giờ gặp anh chàng đó nữa vì điều này ảnh hưởng đến danh tiếng của ông và cuộc sống gia đình họ.
Cô cho biết mình thường đã đi ngủ mất khi cha đi làm về, nhưng sáng hôm sau trong bữa ăn sáng cô hay ép ông kể về bữa tiệc tối mà ông phục vụ tối hôm trước. Thường thì phần lớn những gì cô có thể moi được từ ông chỉ là cái thực đơn.
Mặc dù Westray luôn giữ kín những gì xảy ra trong suốt sự nghiệp của mình, nhưng khi ông già đi, ông bắt đầu chia sẻ các câu chuyện. Trong một lần được tôi phỏng vấn, ông đến tủ lấy ra mấy món đồ lưu niệm, gồm mấy bức ảnh chụp ông đang phục vụ thức uống ở bữa tiệc dã ngoại năm 1970 trên Bãi cỏ phía nam, một bức ảnh khác chụp ông đang đứng cùng Đức cha Billy Graham sau lễ cầu nguyện ngày chủ nhật ở Nhà Trắng, và cả một hộp nữ trang đựng miếng bánh kem vani nhỏ đã khô cứng lấy về từ đám cưới Tricia Nixon.
Westray hạnh phúc nhớ lại cái đêm xảy ra một chuyện bất thường năm 1976 trong Phòng Đỏ, căn phòng có nhiều bàn ghế chạm trổ cùng những bức tường viền sa-tanh tím thêu hoa văn vàng nằm giữa Phòng Lam và Phòng Quốc yến trên Tầng Khánh tiết. Tối hôm đó, Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị và Hoàng thân Philip được Nhà Trắng mời đến dự kỷ niệm hai trăm năm Cách mạng Hoa Kỳ. Trong bộ đồng phục tuxedo, Westray cùng Sam Washington, một người bạn làm chung, bước đến chỗ Hoàng thân Philip, lúc đó đang ngồi một mình giữa đêm khuya trong Phòng Đỏ.
“Thưa Hoàng thân, ngài có muốn dùng một ly cocktail không?”, Westray đưa khay rượu cocktail ra mời khách.
“Tôi sẽ lấy một ly... nhưng chi khi nào các anh cho tôi hầu các anh ly đó”, Philip trả lời.
Westray liếc nhìn Washington. “Anh ta không tin được chuyện này. Chưa từng có ai yêu cầu chúng tôi chuyện tương tự”. Westray và Washington chấp nhận lời mời. Họ kéo ghế ra ngồi, trong lòng chưa hết bàng hoàng, và cho phép vị hoàng thân hầu họ một ly rượu, ông không nhớ họ nói chuyện gì với nhau hay uống rượu gì, chỉ nhớ là tối hôm đó Công tước Edinburgh muốn được làm một thường dân dù chỉ trong chốc lát.
“Ngài ấy muốn thử làm người phục vụ, thế thôi”. Westray ngưng lai một lúc. “Tôi được một người trong hoàng gia hầu rượu. Thật quá sốc!”
Năm 1994, hơn ba thập niên sau ngày ông bước qua cánh cổng sắt đồ sộ của tòa nhà lớn này lần đầu, Westray rời Nhà Trắng để nghỉ hưu. Ông có thể ở lại làm việc lâu hơn nhưng sau khi nghe tin mình cần phẫu thuật bắc cầu mạch vành, ông làm theo những gì ông nghĩ là tốt nhất cho tòa nhà hành pháp và cho những nhân viên giúp vận hành tòa nhà đó: “Tôi sẽ là nỗi sỉ nhục của những người hầu bàn trong Nhà Trắng nếu như lỡ tay làm đổ đĩa thức ăn lên người ai đó”, ông nói. “Tốt nhất tôi không nên ở lại”.
WESTRAY KHÔNG PHẢI là người phục vụ duy nhất nhìn thấy khía cạnh bình dân của Công tước Edinburgh. Alonzo Fields, một nhân viên kiêm quản lý tổ phục vụ từ năm 1931 đến 1953 cũng kể về một cuộc gặp gỡ tương tự cách đây một phần tư thế kỷ. Câu chuyện xảy ra khi ông đang phục vụ bữa sáng cho cặp vợ chồng hoàng gia cùng đoàn tùy tùng của họ tại tòa nhà Blair House, nơi qua đêm của phần lớn những người quyền cao chức trọng nước ngoài. Công chúa Elizabeth và đoàn tùy tùng của bà vừa ngồi vào bàn đã bắt đầu ăn ngay mà không đợi phu quân của Công chúa, chỉ đến khi các quý tộc “dùng gần xong món dưa” thì vị công tước mới chạy xộc vào và nói: “Tôi đến hơi trễ”.
“Ông ấy mặc một chiếc sơ–mi để mở ở cổ và vớ đại lấy một chiếc ghế trước khi có ai đó nhấc ghế cho ông ngồi”, Fields, qua đời năm 1994, viết trong hồi ký của mình. “Công chúa vẫn tiếp tục ăn món dưa của mình mặc dù những người khác đều đứng lên khi ngài công tước ngồi xuống. Nhìn thấy vị công tước trong chiếc sơ–mi không cài khuy cổ cho tôi cái cảm tưởng đây là cách ứng xử của một lê dân chứ không phải cái ta trông đợi ở một thành viên hoàng tộc. Tôi thật sự ngưỡng mộ sự táo bạo của ông bởi tôi biết rằng mình sẽ bị chỉ trích thậm tệ nếu có một ngày cùng vợ đến chơi nhà ai và bước ra ngoài với độc chiếc sơ–mi... Thật dễ chịu khi nhìn thấy vị công tước thoải mái trong chiếc sơ–mi của ông”.
Hoàng thân Philip không phải là thành viên duy nhất trong gia đình hoàng tộc khiến các nhân viên Nhà Trắng ngạc nhiên bởi khoảnh khắc thoải mái không câu nệ nghi thức của mình. Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị cũng đã một lần khiến các gia nhân bị sốc khi cởi áo khoác sau bữa tiệc tối, và vứt chiếc vương miện kim cương, cùng các món trang sức vô giá khác bừa bãi khắp phòng.
TRẺ HƠN FIELDS một thế hệ, số phận của Herman Thompson đã được định là làm việc trong Nhà Trắng. Mặc dù ông là một giám sát viên toàn thời gian tại Phòng in ấn của viện Smithsonian nhưng cha ông lại là nhân viên phục vụ bán thời gian ở Nhà Trắng (và là một trong những người sáng lập Công ty Phục vụ bàn tư nhân), còn chú ông là nhân viên quét dọn ở đó. Ông là bạn của Quản lý Tổ Phục vụ Charles Ficklin và của ông Eugene Allen sống ngay gần đó. Ông thậm chí còn được Preston Bruce cắt tóc cho (Bruce đảm nhận vai trò cắt tóc những lúc không phải hộ tống các quan chức cao cấp đến gặp tổng thống). “Tất cả bọn họ biết rõ tôi hơn cả tôi”, Thompson nói về nhóm nhân viên phục vụ Mỹ gốc Phi rất gắn bó với nhau.
Các nhân viên luôn chú ý giữ an toàn cho nhau, cả về mặt cá nhân lẫn nghề nghiệp, Thompson nhớ lại. “Tất cả mọi người đều muốn hỗ trợ Charles, sau đó đến John, rồi đến Eugene”, ông nói. “Mục đích chính là giúp đỡ người quản lý tổ phục vụ bởi vì các quản lý tổ phục vụ của chúng tôi đều là người da đen và chúng tôi muốn họ được tốt”. Còn người quản lý tổ phục vụ thì nắm một danh sách các nhân viên phục vụ bán thời gian đáng tin cậy biết làm mọi thứ, từ việc bày bàn ăn tươm tất đến việc pha chế những ly rượu martini đẳng cấp thế giới.
“Ta không cần dạy bảo họ, cũng chẳng cần nói họ phải làm gì”, Thompson nói. Ông bắt đầu đến làm cho Nhà Trắng năm 1960 và nghỉ làm vào cuối nhiệm kỳ của Tổng thống George H. W. Bush. Thompson hiện đã 74 tuổi nhưng vẫn phụ vợ bày bàn ăn gia đình mỗi tối suốt hơn 50 năm qua.
Thompson phụ trách phục vụ rượu ở các quốc yến – mỗi món ăn đi kèm một loại rượu khác nhau, ông phải đảm bảo mỗi chai rượu được khui sẵn để có thể rót ra ngay khi thức ăn được dọn lên. “Nghe thì có vẻ đơn giản”, ông nói, nhưng thực ra không đơn giản chút nào khi trên bàn có mười thực khách “và ta phải liên tục rót rượu suốt đêm”. Công việc của ông ở các bữa tiệc Giáng sinh đặc biệt rất khó khăn, ông hồi tưởng, một phần vì ông phải lạng cả tảng thịt nướng khổng lồ.
Nhưng Thompson luôn xem công việc của mình là một đặc ân, một điều có thể mất đi trong phút chốc. Nếu người phục vụ trò chuyện quá nhiều với khách – xét cho cùng, họ cũng chẳng bao giờ biết mình nói chuyện với ai – hoặc vét đĩa quá lớn trong phòng bếp kế bên, anh ta có thể sẽ không bao giờ được gọi trở lại làm việc. Khách của Nhà Trắng “phải nhận được sự phục vụ tốt nhất nước Mỹ”, Thompson nói. “Khắp nơi trên thế giới đều dõi theo họ”.
NGAY CẢ MARY Prince cũng không thể tin là số phận mình thay đổi đến mức nào. Chưa đầy một năm sau ngày bị tuyên án chung thân vì tội giết người ở thị trấn Lumpkin bang Georgia, nữ tù nhân Mỹ gốc Phi khoảng 24, 25 tuổi này đã được chuyển từ nhà tù Georgia đến dinh thống đốc, nơi cô sẽ phụ trách chăm sóc bé Amy, đứa con gái 3 tuổi của Thống đốc Jimmy Carter.
“Lần đầu nhận được cuộc gọi kêu tôi đến làm việc ở dinh thống đốc, tôi không biết mình có thể trông đợi điều gì”, Mary Prince nói với tôi.
“Sau khi đến đó, Amy và tôi lập tức kết nhau ngay ngày đầu tiên. Ý tôi muốn nói là chúng tôi thực sự mê nhau ngay ngày đầu tiên. Kể từ hôm đó, hai chúng tôi không rời nhau”.
Prince nằm trong một chương trình ủy thác của nhà tù, qua đó các tù nhân được phân công làm nhiều công việc khác nhau ở dinh thống đốc như làm vườn, nấu ăn, và thậm chí là chăm sóc con cái của gia đình thống đốc. Lúc đó, Prince không hề ngờ rằng mối quan hệ thân thiết giữa cô với Amy sẽ ném cô vào một thực tế còn kỳ lạ hơn: sống và làm việc bốn năm trong tòa nhà nổi tiếng nhất nước Mỹ.
Prince bắt đầu gặp rắc rối vào một tối tháng 4 năm 1970 khi người em họ của cô đánh nhau với một người nam và một người nữ khác bên ngoài một quán bar. Theo lời kể của Prince thì khi cô đang cố giật khẩu súng ra khỏi tay họ thì đột nhiên súng cướp cò. Tuy nhiên một nhân chứng khác lại khai rằng Prince đã giật lấy khẩu súng và cố tình giết chết ngươi đàn ông đó để bảo vệ em họ mình. Prince nhất quyết nói mình vô tội. “Tôi có mặt không đúng nơi đúng lúc”, cô khăng khăng nói. “Tôi bị dính vào một tình huống mà tôi không hiểu vì sao mình lại ở đó. Họ phải mất đến sáu năm mười tháng mới chứng minh được tôi vô tội”.
Lúc đó, Prince không hề được tòa án giúp đỡ. Lần đầu tiên cô gặp người luật sư được tòa chỉ định bào chữa cho cô là lúc đến phòng xử án. Ông ta nói nếu cô nhận tội, ông ta sẽ giúp cô giảm án, nhưng kế hoạch này thất bại và Mary Fitzpatrick, tên gọi của cô lúc đó, bị tòa tuyên án chung thân. (Mãi đến năm 1979, cô mới lấy lại tên họ thời con gái của mình sau khi chính thức ly dị chồng).
Tuy nhiên, chưa hết năm 1970, Prince đã được phu nhân Rosalynn Carter chọn làm người chăm sóc con gái bà ở dinh thống đốc. Bà Carter tin rằng người phụ nữ trẻ này bị oan. “Cô ta hoàn toàn vô tội”, Rosalynn Carter nói. Trung thành với bảo mẫu của con mình, vợ chồng Carter xem cô không khác người nhà. “Cô ấy không dính dáng đến chuyện đó”, bà Rosalynn kiên quyết nói, giọng vẫn còn kích động sau mấy chục năm.
Lúc ông Jimmy Carter đắc cử tổng thống năm 1976 cũng là lúc thời hạn phóng thích của Prince kết thúc và cô bị gởi trả về nhà tù. Vận may của cô tưởng như đã chấm dứt. Nhưng vì phu nhân Carter tin cô vô tội nên đã viết thư cho ban ân xá xin giảm tội cho cô để người bảo mẫu mà bé Amy rất mực yêu quý có thể tiếp tục làm việc cho họ ở Nhà Trắng. Đặc biệt hơn nữa, tổng thống còn được chỉ định làm người phụ trách theo dõi Prince trong thời gian tạm tha. Cuối cùng, trường hợp của Prince được xem xét lại và cô được xóa tội hoàn toàn.
Vị cựu đệ nhất phu nhân, người luôn sát cánh bên chồng trong nhiều dự án nhân đạo trong khoảng thời gian hậu tổng thống dài nhất nước Mỹ, nói rằng Prince sở dĩ bị kết án là vì màu da của cô. “Đó là quãng thời gian rất khó khăn, rất khó khăn ở quê nhà tôi”, bà nói. Khi Tổng thống Harry Truman xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong lực lượng vũ trang, bà nhớ lại, “chúng tôi quay về quê nhà ở miền Nam”, nhưng nạn kỳ thị chủng tộc không thể xóa sạch hoàn toàn. “Mọi người chỉ là không đề cập đến vấn đề chủng tộc, nhưng ai cũng dễ dàng thấy vì sao Mary bị bắt”. Tổng thống Carter, người bị chỉ trích vì quyết định đưa Prince tới Nhà Trắng, cũng đồng tình với nhận định của vợ. “Chuyện của cô ấy là chuyện rất thường xảy ra với người nghèo và người da đen trước khi đất nước chúng ta bị buộc phải tiến hành một số cải cách pháp lý”, tổng thống viết trong hồi ký của ông.
Trong suốt sáu tháng đầu tiên làm người bảo mẫu nổi tiếng nhất nước, Prince nói mỗi ngày cô nhận được khoảng năm mươi lá thư. Nhiều người viết thư tự nhận mình là họ hàng thất lạc từ lâu của cô và nhờ cô xin tổng thống giúp đỡ họ. “Tôi trở thành sự kiện nóng hổi trên toàn thế giới khi chuyển từ nhà tù đến Nhà Trắng”, cô nói, giọng vui vui khi đề cập đến sự nổi tiếng của mình lúc đó. Nhưng giới truyền thông không tin là gia đình Carter có thể để một kẻ bị kết tội sát nhân chăm sóc đứa con gái nhỏ của họ, và không phải sự quan tâm nào cũng tử tế: câu chuyện này thu hút nhiều sự quan tâm đến mức kênh truyền hình trực tiếp tối chủ nhật dành cả một vở hài kịch cho đề tài này, với nữ diễn viên Sissy Spacek vào vai bé Amy Carter còn nam diễn viên hài Garrett Morris cải trang thành Mary.
Cơn bão truyền thông tuy chẳng hề dễ chịu nhưng Prince tìm được nguồn an ủi trong đức tin của cô. “Tôi là một tín đồ Cơ đốc và tôi cầu nguyện mọi thứ”, cô nói với tôi. “Tôi luôn xin với Thiên chúa rằng nếu tôi làm điều gì sai thì Thiên chúa hãy cho tôi biết và tha thứ cho tôi. Tôi đoán có lẽ vì thế mà Đức Chúa lòng lành đã ban cho tôi cuộc sống tốt đẹp kể từ ngày đó. Việc một tù nhân có thể vào được dinh thống đốc và trở nên thân thiết với gia đình này quả thực là một phúc lành”.
Ngay cả trong Nhà Trắng, mọi việc không phải lúc nào cũng dễ dàng. Prince có quãng thời gian rất khó khăn để kết bạn với những người giúp việc trong dinh vì họ xem cô là người ngoài, lại là người có quá khứ gây tranh cãi. Một số nhân viên không ưa cô bởi cô được tổng thống đưa vào, lại còn có phòng riêng trên tầng ba. Một số khác thì ganh tị với quyền hạn của cô: nếu cô muốn nấu một bữa ăn tối kiểu miền Nam cho đệ nhất gia đình, cô có thể cho tất cả các đầu bếp ra về và chỉ cần thông báo trước cho họ một thời gian rất ngắn. Cô không cần nghe theo ai, miễn là làm gia đình Carter vui là được. Mà họ thì rất thương cô. Một buổi chiều, lúc cô đi ngang hồ bơi ở phía nam khu Cánh Tây thì tình cờ nhìn thấy đệ nhất phu nhân đang bơi ở đó. “Xuống đây!” đệ nhất phu nhân réo cô. Lúc đó Prince không mặc đồ tắm, nhưng đệ nhất phu nhân cười lớn và nói: “Cứ mặc nguyên đồng phục xuống đây!” Thế là cô đá văng đôi giày của mình đi và nhảy tùm xuống hồ trong bộ đồng phục bảo mẫu trắng hồ cứng để biểu diễn cho đệ nhất phu nhân xem mình học được gì ở lớp dạy bơi. (Amy rất thích bơi nên cô cũng phải đi học bơi). Tối hôm đó, “chỉ có mỗi tôi và đệ nhất phu nhân bơi chung ngoài đó”, Prince nói về kỷ niệm đẹp nhất của mình trong thời gian ở Nhà Trắng.
Nhưng tin đồn về quá khứ của cô nhanh chóng tới tai các nhân viên. Một số cựu nhân viên thậm chí còn tin cô thực sự giết người. “Đây đúng là một cách hay để tống khứ anh xã nhà cô”, một gia nhân nói đùa mà không biết rằng cô chưa bao giờ bị kết tội giết chồng.
Prince có một cái nhìn khác về quãng thời gian sống trong Nhà Trắng và nói rằng cuộc sống xa hoa trong Nhà Trắng chưa bao giờ làm cô thấy lúng túng. “Tôi không hứng thú với cuộc sống đó”. Thay vào đó, cô chỉ tập trung vào công việc và vào việc ổn định cuộc sống cho hai cậu con trai sau khi chuyển chúng từ Atlanta đến một căn hộ ở Suitland, Maryland, trong một khu dân cư của người lao động ở ngoại ô Washington. Tối đến, sau khi chăm sóc cho Amy xong, cô đón taxi đến chỗ hai con – ban ngày hai cậu bé được chị cô trông nom – để giúp chúng làm bài tập và chuẩn bị sẵn quần áo cho chúng mặc đi học ngày hôm sau. Đến khuya, cô lại đón taxi về Nhà Trắng để sáng hôm sau dậy sớm lo cho Amy. Cô chưa bao giờ xin vợ chồng Tổng thống Carter cho con mình chuyển vào sống chung mặc dù cô nhớ chúng khủng khiếp.
“Tôi không bao giờ nghĩ việc đưa gia đình mình vào Nhà Trắng sống cùng họ là một việc làm phù hợp. Đây là công việc của tôi. Tôi có thể bỏ tiền ra để chúng sống gần tôi và có chỗ ở riêng”. Cô rất xem trọng ranh giới giữa cuộc sống nghề nghiệp với cuộc sống gia đình cùng hai con trai. Sau khi xong việc, cô nói mình “luôn có thể về nhà với các con”.
Cô chưa bao giờ nghĩ chủng tộc là một vấn đề gì lớn trong Nhà Trắng cho đến khi một viên quản lý đến gặp cô và chuyển cho cô một tin nhắn làm cô tức điên người. “Con tôi lúc nào cũng ăn mặc đàng hoàng vì tôi luôn đảm bảo chúng ăn mặc đàng hoàng”, cô nói. Số là cô có một cậu con trai làm việc ở câu lạc bộ quần vợt Georgetown. Thỉnh thoảng khi ghé thăm mẹ ở Nhà Trắng, cậu vẫn mặc nguyên chiếc quần soóc tennis từ chỗ làm về. Có một ngày, một người quản lý đến gặp cô và nói: “Mary, có người gọi cho tôi và than phiền rằng mấy đứa con cô ăn mặc lôi thôi lếch thếch khi đến đây. Nhưng cô đừng lo, bọn họ chỉ nhiều chuyện thôi. Tôi chưa bao giờ thấy mấy đứa nhỏ đến đây mà không ăn mặc đàng hoàng”.
Nhưng với Prince thì đây là một sự sỉ nhục nhân đôi. Họ không chỉ nói mấy đứa con Mỹ gốc Phi của cô ăn mặc lôi thôi lếch thếch mà còn ám chỉ cô không làm tròn bổn phận người mẹ. “Tôi đoán họ nghĩ tôi là đứa chả ra gì”, cô nói. Cô không bao giờ tìm ra kẻ độc mồm độc miệng đó là ai. “Tôi nghĩ người đó thành kiến với tôi vì tôi được Tổng thống Carter giúp ra khỏi nhà giam và đưa vào làm trong Nhà Trắng”.
Nhưng Prince đã vượt lên tất cả những chuyện đó để kết thúc thời gian làm việc ở Nhà Trắng một cách đường hoàng, đồng thời vẫn duy trì mối quan hệ khăng khít với cái gia đình đã cứu cô thoát khỏi chốn lao tù. Hiện nay cô đang sống ở Plains, Georgia, cách gia đình Carter chỉ ba dãy nhà. Cô vẫn gặp họ hầu như mỗi ngày mỗi khi họ lên thành phố, và là người chăm nom các cháu ngoại của họ.
QUẢN LÝ NELSON Pierce biết mình có một vấn đề, và vấn đề này cần được giải quyết ngay lập tức.
Lúc mới đến làm việc ở Phòng Quản lý năm 1961, ông còn rất trẻ và chịu trách nhiệm cập nhật hồ sơ cá nhân của các nhân viên. Điều đó có nghĩa là ông thấy được mức lương của mỗi người. “Tôi sửng sốt khi nhìn thấy bảng lương”, ông nói. Bởi mức lương của các nhân viên Mỹ gốc Phi thấp hơn rất nhiều so với các đồng nghiệp da trắng của họ.
Thời điểm phát hiện chuyện này là một thời điểm rất tồi tệ. Trong Thông điệp Liên bang [**] thứ nhất của ông Johnson, tổng thống đã “tuyên chiến vô điều kiện với tình trạng nghèo khó” ở thời điểm mà mức thu nhập tối thiểu là khoảng 3.000 đô la hoặc ít hơn trong một năm (mức thu nhập tối thiểu hiện nay là khoảng 23.550 đô la một năm), “chính quyền liên bang và chính quyền địa phương phải chung tay dốc sức đánh đuổi cái nghèo ở mọi nơi – ở các khu ổ chuột trong thành phố và các thị trấn, trong các túp lều của dân lĩnh canh hay trong trại tị nạn, ở phần đất của người da đỏ, ở người da trắng lẫn người da đen, ở người trẻ lẫn người già, ở những thành phố phát triển lẫn những khu vực trì trệ”, đó là điều tổng thống phát biểu ngày 8 tháng 1 năm 1964 tại phiên họp chung của lưỡng viện.
[**](State of the Union address: bài diễn văn then chốt hàng năm mà Tổng thống Hoa Kỳ trình bày trước toàn thể thành viên hai viện của Quốc hội.)
Nhưng sự nghèo khó hóa ra lại tồn tại ngay trước mắt tổng thống. Những vị trí hưởng lương cao ở Nhà Trắng – như quản lý, thợ cắm hoa, quản bếp, tổng quản lý bộ phận phòng, thợ mộc, thợ ống nước – đều được xem là có chuyên môn cao hơn và được giao cho người lao động da trắng. Còn những công việc nhà truyền thống như phục vụ ăn uống và làm phòng thì được giao cho hầu hết người Mỹ gốc Phi với mức lương thấp hơn rất nhiều. (Là một quản lý trẻ, Pierce lãnh gần 6.000 đô la một năm, gấp đôi lương các nhân viên phục vụ, làm phòng mới vào). Tất cả mọi nhân viên đều hưởng mức lương thấp hơn mức lương trả cho một công việc tương tự ở lĩnh vực tư nhân, nhưng nhìn chung thì nhân viên da trắng vẫn được trả lương cao hơn rất nhiều.
Ngày 9 tháng 1, Pierce nói với Tổng Quản lý J. B. West rằng họ cần nói chuyện với nhau. Tổng thống đã tuyển hai người mới với mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu. “Trước khi báo chí phát hiện ra những trường hợp lãnh lương thấp hơn ngưỡng tối thiểu trong Nhà Trắng, tốt nhất ông nên tăng lương cho hai cô hầu phòng mới được tuyển vào với mức lương 2.900 đô một năm”, Pierce khẩn thiết nói.
West biết mức lương này bởi chính ông là người tuyển họ, nhưng ông không hề nghĩ đến việc giới truyền thông có thể lợi dụng thông tin này để gắn mác đạo đức giả cho tổng thống. Thế là West lập tức tăng lương cho họ.
Pierce đã rất khôn ngoan khi lấy cớ sợ dư luận quần chúng để ý để buộc West tăng lương cho các nhân viên mới. “Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy các gia nhân phục vụ các tổng thống tận tâm đến thế mà lại không được hưởng mức lương cao hơn mức lương họ đang hưởng”.
Quản lý Mỹ thuật Betty Monkman không mấy ngạc nhiên về mức lương chênh lệch giữa các nhân viên. Gần như ngay khi bà vào đây làm năm 1967, bà đã đánh hơi thấy mùi phân biệt chủng tộc ngầm, cái được bà gọi là “vấn đề miền Nam”, bên dưới bề mặt đầm ấm thân thiện của Nhà Trắng. Ví dụ, bà không thể tin nổi là tất cả mọi người đều gọi ông gác cửa Preston Bruce bằng họ của ông. “Ông ấy là một người rất thanh lịch và hết sức lôi cuốn”, bà nói. “Hồi tôi mới đến đó, tôi thấy mọi người đều gọi ông ấy là ‘Bruce’ nên tôi nghĩ ‘Bruce’ là tên ông ấy. Phải một thời gian sau tôi mới biết đó là họ của ông. Tôi điếng người vì mình đã gọi ông như thế”.
QUẢN LÝ KHO Bill Hamilton quả quyết mình là người dẫn đầu cuộc nổi loạn đòi trả lương đồng đều cho những người Mỹ gốc Phi lương thấp. Điều này đi ngược lại với cảm tưởng được tạo ra bởi bộ phim Người hầu bàn của Lee Daniel, một bộ phim mô phỏng một phần cuộc sống của nhân viên phục vụ Eugene Allen, trong đó nhân vật trong tựa phim đến thẳng Phòng Quản lý để xin tăng lương. Theo phần lớn ý kiến ngoài đời thì Allen quá rụt rè và quá tôn trọng hệ thống cấp bậc ở Nhà Trắng để có thể làm điều đó.
Tuy nhiên, Hamilton cũng chẳng phải người như vậy. Ông ra đời ở một nơi cách Nhà Trắng chỉ tám dãy nhà. Mẹ ông không đi làm để ở nhà nuôi dạy mười đứa con. Sau khi sống ở Đồi Capitol một thời gian, bà nói với Hamilton rằng bà không muốn sống ở khu da trắng nữa. Hamilton chỉ mới 20 tuổi khi ông bắt đầu làm chân quét dọn cho Nhà Trắng dưới thời chính quyền Eisenhower. Gia đình Eisenhower điều hành Nhà Trắng như điều hành quân đội. Sau khi kết thúc các chuyến tham quan Nhà Trắng, Hamilton nhớ mình đã phải cố dùng máy hút bụi xóa sạch mọi dấu chân trên thảm trước khi phu nhân Mamie Eisenhower nhìn thấy. Mỗi khi có khách đi ngang qua Tầng Trệt, ông lại phải tắt máy hút bụi và xoay mặt vào tường. (Sau này khi Tổng thống Kennedy thấy các gia nhân làm thế, ông đã hỏi một gia nhân khác là “Họ có điều gì không ổn à?”) Hamilton làm trong nhà kho từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều để lấy tiền lo cho bảy đứa con ăn học (có thời điểm nhà ông có bốn người con học đại học cùng một lúc), sau đó ông còn phải chạy thêm taxi đến tận 11 giờ khuya. “Tôi cày như trâu”, ông nói. “Nhưng tôi luôn đảm bảo là mình ở nhà vào các ngày cuối tuần”.
Mỗi khi có một tổng thống mới nhận nhiệm sở, Hamilton nói, các cố vấn chính trị của họ luôn tỏ vẻ khinh thường các gia nhân. “Các nhân viên khu Cánh Tây luôn nghĩ họ tài giỏi hơn chúng tôi. Nhưng sau khi đến đó rồi, họ mới biết là tất cả chúng tôi mới là người điều khiển mọi việc cho tổng thống”. Tuy nhiên Hamilton không thích bị ngược đãi và muốn tìm ra cách nào đó để thể hiện sự bất mãn của mình.
“Tôi không bao giờ quên lúc chúng tôi lên lầu gặp ông J.B. West”, Hamilton hồi tưởng lại trong căn nhà hưu trí yên tĩnh dành cho tầng lớp trung lưu của ông ở Ashburn, Virginia, cách Washington D.C khoảng một giờ đi xe. Thời điểm ông bắt đầu hành động là vào cuối thập niên 1960, quãng thời gian Martin Luther King Jr. bị ám sát, và sau đó là những ngày náo loạn. Washington bị những kẻ phản đối giận dữ ném bom xăng và cướp bóc các cửa hàng do tức giận chuyện Luther King bị ám sát và trước tình trạng bất bình đẳng xảy ra chung quanh họ. Một số người tiến sát Nhà Trắng, cách đó chỉ hai dãy nhà.
Bên trong các cánh cửa Nhà Trắng, Hamilton lúc này đang rất giận dữ khi thấy mọi người khác đều được tăng lương, chỉ trừ nhóm nhân viên Mỹ gốc Phi ra. Được truyền cảm hứng bởi những kẻ chống đối đòi dân quyền bên ngoài, ông tập hợp một số ít nhân viên quét dọn lại và tuyên bố: “Tối nay họ có quốc yến nhưng chúng ta sẽ không làm việc”.
Các đồng nghiệp của ông lặng im suy nghĩ lúc lâu. Họ đã lỡ nhận lời giúp cho buổi tối đó rồi. (Các nhân viên ở nhiều phòng ban khác nhau thường được yêu cầu giúp đỡ mỗi khi có sự kiện bởi họ đã được thông qua khâu kiểm tra an ninh).
“Anh nói chúng ta không làm là sao? Chúng ta sẽ mất việc đó”, một người nói.
“Đó là điều tôi đang muốn nói với tất cả các anh đây. Nếu tất cả chúng ta đoàn kết lại, họ sẽ không thể làm gì chúng ta”.
“Họ không thể đưa người ngoài vào đây” để phụ cho bữa tiệc, ông lý luận, bởi những người đó sẽ không được bên an ninh cho vào.
Hamilton cuối cùng cũng thuyết phục được những người làm chung với ông và bọn họ cùng nhau đến gặp Tổng Quản lý J. B. West.
West vô cùng tức giận. “Anh là người đại diện cả nhóm hả?”, ông hỏi Hamilton.
“Đúng thế”, Hamilton trả lời.
Mặt West “tím ngắt”, Hamilton cười phá lên. Chưa khi nào ông khiến sếp mình lâm vào hoàn cảnh khó khăn như lần này.
“Bộ các anh muốn tôi phải mặc sơ mi trắng với nơ đen và bộ com–lê đó sao? Và nếu ai làm rơi cái gì thì tôi sẽ phải đến nhặt cho họ sao?”, West hỏi cả nhóm.
Hamilton không nao núng: “Tôi không quan tâm ông sẽ làm gì khi tôi rời khỏi đây”.
Trái với những gì mô tả trong phim Người hầu bàn, những người hầu bàn không phải là người thắc mắc về mức lương chênh lệch. Theo Hamilton, họ “không phải là người gây náo động”. Hamilton quả thực rất thất vọng khi họ không theo phe ông bởi các nhân viên phục vụ mới chính là những người có quyền lực thực sự trong số các nhân viên Nhà Trắng vì họ làm việc gần gũi nhất với gia đình tổng thống. Nếu họ có can đảm nói với tổng thống và đệ nhất phu nhân là họ bị trả lương thấp, Hamilton chắc chắn tổng thống và phu nhân sẽ làm gì đó để chấn chỉnh lại chuyện này. Tuy nhiên, các nhân viên phục vụ không chỉ từ chối theo ông kháng nghị chuyện này, một số người còn tức giận ông vì ông khiến họ có nguy cơ mất việc.
“Chúng tôi không tham gia phong trào dân quyền. Vai trò của chúng tôi chỉ là phục vụ tổng thống và gia đình ông ấy, chấm hết”, cựu phục vụ kiêm quản lý tổ phục vụ George Hannie nói. Năm 1963, Hamilton cho biết ông là nhân viên duy nhất ở dinh tổng thống đến nghe Martin Luther King Jr. đọc bài diễn văn nổi tiếng Tôi có một ước mơ tại đài tưởng niệm Lincoln trong cuộc tuần hành đến Washington, ông nói đây là một trải nghiệm “rất xúc động”. Nhưng giờ đây, sau nhiều năm, khi ông làm theo những gì lương tâm mách bảo và yêu cầu mọi người hành động thì lại khiến các đồng nghiệp giận dữ. ông nói: “Tôi bị chính đồng bào tôi nổi giận với tôi” chỉ vì tôi muốn đòi tăng lương cho họ. “Nhưng tôi cần phải nuôi con. Tôi muốn các con tôi có cuộc sống tốt đẹp hơn tôi. Tôi không cần biết hậu quả ra sao nhưng tôi sẽ làm chuyện này. Có một ngày, tôi về nhà và nói với vợ tôi rằng ‘Anh chán bọn này (những quản lý da trắng trả lương thấp cho người da đen) lắm rồi. Anh có thể sẽ thất nghiệp nhưng kể từ bây giờ trở đi, anh sẽ không nghe theo lệnh bất kỳ ai ở đó nữa’”.
Tuy nhiên, khi Hamilton và các nhân viên làm công việc giống ông đứng lên, lẽ phải đã chiến thắng. Sau hai ngày ngồi ngoài các bữa tiệc tối, các nhân viên da đen đã được tăng lương. Hamilton nghĩ đó là vì J.B. West nhìn thấy những dòng chữ trên tường bên ngoài Nhà Trắng. “Ông ta biết rằng với tất cả những gì đang xảy ra bên ngoài, ông ta sẽ không thoát khỏi chuyện này. Tôi biết mình đã nắm được thóp ông ta. Chắc chắn như thế”.
Mặc dù vẫn còn tức giận về tình trạng kỳ thị chủng tộc rõ ràng trong Nhà Trắng, Hamilton vẫn nói về quãng thời gian 55 năm phục vụ dưới mười một đời tổng thống bằng giọng ngưỡng mộ. “Khi tôi bước vào Nhà Trắng để phỏng vấn xin việc, tôi có cảm tưởng như đó là ngày đầu tiên trong đời tôi”, ông nói. Trước đó, ông chưa từng đến Nhà Trắng, dù là để tham quan. “Tôi không thể tin được, bố mẹ tôi cũng không tin được. Đây là điều không dễ xảy ra!”
EUGENE ALLEN CHẮC chắn là thận trọng hơn Bill Hamilton khi không muốn làm mọi chuyện rối beng lên.
Thời gian Charles, con trai độc nhất của Allen, tham chiến ở Việt Nam, anh rất sợ giao tranh trên bộ. “Lần duy nhất trong đời tôi xin cha tôi nhờ Nhà Trắng chiếu cố là khi tôi nhờ ông ấy nói với Tổng thống Johnson rút tôi ra khỏi chuyện này”, anh nhớ lại.
Trong thư gởi cho cha, anh van xin ông với tâm trạng hoàn toàn tuyệt vọng: “Ba hãy đến gặp ông ấy, xin ông ấy giúp con ra khỏi bộ binh. Tụi con ngày nào cũng phải lội bộ từ 15 đến 30 cây số. Con đói đến chết mất”. Charles viết thêm: “Ba, con không phải là đứa hèn nhát, nhưng ba có thể xem thử ông Johnson có thể chuyển con sang không quân được không?”
Khi Charles nhận được thư cha, đó không phải là câu trả lời anh mong đợi. “Ông ấy hồi âm cho tôi và nói rằng nếu gia đình Kennedy vẫn còn cầm quyền, ông nghĩ mình có thể làm gì đó. Nếu như Bobby vẫn còn ở đó”. Nhưng với Johnson làm chủ Nhà Trắng thì lại là chuyện khác. “Ba không thân họ lắm”, ông nói. “Vì thế con phải chịu đựng thôi”.
NGHỀ PHỤC VỤ, làm phòng, rửa chén đĩa và quét dọn ở Nhà Trắng được xem là những việc làm tốt và ổn định trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi ở Washington ở thập niên 1960 và 1970. “Mọi người luôn ý thức về sự cao quý của công việc này và công nhận đây là một nghề đặc biệt”, Lonnie Bunch nói. Ông cho rằng sở dĩ các công việc này đáng tự hào và mang tính chuyên nghiệp cao là do được truyền từ đời này sang đời khác: “Cha dạy lại cho con rồi đến lượt con dạy lại cho cháu”.
Đối với nhiều thế hệ người Mỹ da đen, công việc ở Nhà Trắng còn hơn cả một công việc. “Họ nhận ra rằng công việc của họ không đơn thuần là một công việc. Họ thấy như mình đang mang gánh nặng gấp đôi. Một mặt, họ phải làm việc chăm chỉ để không bị mất việc. Mặt khác, họ cũng kỳ vọng vào chủng tộc của mình. Họ muốn đảm bảo những gì họ làm phải là tốt nhất”.
Việc phần lớn các nhân viên phục vụ ở Nhà Trắng là người Mỹ gốc Phi đôi khi cũng làm mọi người thắc mắc. Quản lý Chris Emery nhớ lại việc lãnh tụ Xô viết Mikhail Gorbachev thực hiện chuyến viếng thăm lịch sử đến Nhà Trắng năm 1987 và các nhân viên phải thay đổi vào phút chót để bảo vệ cho hai nhà lãnh đạo hàng đầu thế giới không bị ướt trong cơn mưa bất chợt ở Bãi cỏ phía nam.
“Khi Tổng Quản lý Gary Walters nhìn thấy tất cả các nhân viên phục vụ cầm ô đứng ở đó, ông nói: ‘Tôi không thể để tất cả những người Mỹ gốc Phi đó cầm ô che cho các lãnh tụ thế giới được. Trông sẽ rất kinh khủng”. Thế là Walters nhờ Emery và một quản lý da trắng khác cầm ô ra che cho Reagan và Gorbachev để Nhà Trắng trông không giống như đồn điền cuối cùng” [**], Emery nói.
[**](Đồn điền ở đây đồng nghĩa với chế độ chiếm hữu nô lệ ở Nam Mỹ, nơi các nô lệ da đen làm việc cho các chủ nô da trắng.)
Phục vụ Herman Thompson, một thành viên của lớp học đa chủng tộc đầu tiên của hệ thống trường công lập ở Washington, là người đi đầu trong việc xóa bỏ nạn kỳ thị chủng tộc. Sự phân biệt đối xử và ghét bỏ ra mặt của những bạn đồng học da trắng đối với người da đen đã biến ông thành “một kẻ nổi loạn”, ông nói tại một bữa cơm trưa ở một nhà hàng dưới phố tại Washington, không xa nơi ông trưởng thành. “Chuyện này rất khó chịu”.
Thompson nhận thấy tình trạng phân biệt chủng tộc ở Nhà Trắng không khác với những nơi khác trong thành phố và cố gắng chống lại nó nhưng một cách ngấm ngầm hơn Bill Hamilton. “Nhiều lần, mỗi khi có người Mỹ da đen nào đến đó với tư cách khách mời, chúng tôi luôn đảm bảo họ được chăm sóc cẩn thận và được quan tâm như tất cả mọi người khác”, ông nói.
Cho đến thời Nixon, các nhân viên phục vụ vẫn còn mặc áo đuôi tôm để phục vụ các yến tiệc. Tuy nhiên, khi ngày càng có nhiều nhạc sĩ da đen như Duke Ellington và nhóm nhạc The Temptations đến biểu diễn ở Nhà Trắng và ngày càng xuất hiện nhiều khách mời Mỹ gốc Phi, các nhân viên phục vụ được dặn phải ngưng mặc áo đuôi tôm để tránh lộ rõ sự cách biệt xã hội giữa gia nhân và khách mời.
“Chúng tôi vẫn thường đùa rằng họ thay áo đuôi tôm bởi thế giới đang thay đổi. Nhiều lúc những người đến dự tiệc cũng không biết ai là khách, ai là nhân viên phục vụ”, ông cười tủm tỉm. “Các quý ông làm việc ở đó trông lịch sự đến mức mọi người phải nhìn kỹ mới biết ai là ai”. Thompson cho biết mình đã vài lần bị tưởng lầm là khách.
Mặc dù chứng kiến mọi thứ đang dần trở nên tốt hơn nhưng Thompson vẫn không khỏi sửng sốt khi lần đầu gặp đô đốc Stephen Rochon, vị tổng quản lý mới