LỜI KẾT
Chúa ơi, bà ấy hẳn sẽ rất tự hào về tôi
– Nhân viên phục vụ James Ramsey nghĩ về phản ứng của mẹ ông với sự nghiệp ở Nhà Trắng của ông nếu như bà còn sống để chứng kiến đều ấy.
Lúc này đang là 37°C, một ngày hè nhớp nháp khác ở Washington. Một toán thợ làm cửa sổ đang làm ngoài giờ trong căn nhà ba phòng ngủ bằng gạch đỏ ở đông bắc Washington. Phục vụ James Jeffries đã mua nó năm 1979. Ông vội vàng xin lỗi tôi về các bức tường sơn dở trong phòng khách. “Tất cả lẽ ra phải sơn xong trước Lễ Phục sinh, nhưng vì tôi đã 72 tuổi nên rất chóng mệt”.
Mặc cho chiếc tivi ầm ĩ phát kênh lịch sử ở phía sau và cậu cháu trai tuổi teen gầy nhẳng và cao lêu khêu hết đi ra rồi lại đi vào (“lúc nhỏ, tôi trông giống hệt nó”), chúng tôi ngồi xuống chiếc bàn chưng đầy hình ảnh con cháu ông Jeffries, và ông kể cho tôi nghe là làm thế nào Nhà Trắng cho nhiều thế hệ trong gia đình ông làm việc nơi ấy. Bằng một giọng chậm rãi và thận trọng, ông giải thích mình có quan hệ hay quen biết thế nào với phần lớn những người điều hành tư dinh tổng thống trong 50 năm qua. Tên của ông có thể là Jeffries nhưng ông thuộc dòng họ Ficklin, một dòng họ có chín người làm việc ở đó.
Ngay cả những nhân viên không thực sự liên quan đến Jeffries cũng trở thành gia đình ông. Ông xem Eugene Allen, người đảm nhiệm vị trí quản lý tổ phục vụ sau khi cậu John Ficklin của ông về hưu, “không khác cậu của mình”. Ông cũng xem bác gác cửa Preston Bruce, sống cùng khu nhà với dì ông, như một người cha.
“Ông West và ông Scouten chỉ đứng phía sau chỉ đạo, còn cậu tôi (John) mới là người điều hành Nhà Trắng”, Jeffries nói, tự hào về nhóm nhân viên Mỹ gốc Phi đầy gắn bó đã giúp Nhà Trắng vận hành. Gia đình ông truyền tai nhau rằng chính bác Charles của ông là người đã giúp cả gia đình có chỗ đứng trong Nhà Trắng bằng cách gây ấn tượng cho Tổng thống Franklin Roosevelt trong thời gian ông ấy làm việc trên một tàu chiến hải quân. Khi ông Roosevelt nhờ bác Charles lên sơ đồ bố trí bàn ăn, ông ấy đã ngồi xuống và vẽ thật thành thạo. Vài năm sau, bác Charles được yêu cầu đến Nhà Trắng phỏng vấn.
Jeffries nối tiếp truyền thống gia đình và bắt đầu làm việc ở Nhà Trắng năm 1959, khi ông mới 17 tuổi, ông nhớ chính xác ngày ông đặt chân vào Nhà Trắng là ngày 25 tháng 1. Hiện con trai ông cũng đang làm nhân viên phục vụ ở đó, và mặc dù bản thân ông cũng đã bước qua tuổi nghỉ hưu nhưng ông vẫn làm việc bán thời gian ở “ngôi nhà” đó với số tiền thù lao 25 đô một giờ. “Mọi người ở đó giúp tôi rất nhiều. Họ không để tôi mang vác đồ nặng”.
Jeffries là một chứng nhân của lịch sử Mỹ. Ông là một trong số rất ít người còn sống và nhớ mình từng làm việc ra sao trong Nhà Trắng dưới thời Kennedy, khi một thế hệ mới và một nền công nghệ mới đưa tư dinh tổng thống vào các phòng khách nước Mỹ. Ông cũng nhớ đến một nét tính cách của vị đệ nhất phu nhân mà ít người nhìn thấy.
“Tôi nhớ thỉnh thoảng phu nhân Kennedy lại xuống dưới nhà nhờ chúng tôi đem một cái ghế lên trên lầu hoặc đưa một cái ghế ra khỏi phòng, nhưng chỉ 15, 20 phút sau, bà ấy lại muốn chúng tôi đưa nó trở về chỗ cũ”. Ông cười phá lên. “Chỉ có tôi và một người khác chịu làm chuyện ấy vì lúc đó chúng tôi còn trẻ, còn mấy người lớn tuổi thì trốn mất dạng. Tôi không bao giờ trốn, chỉ muốn ở đó với bà ấy. Tôi đến đứng cạnh bà ấy và làm mọi việc bà nhờ. Nếu tôi có thể một mình khiêng cái món đồ đó thì tôi sẽ làm”.
Nhiều năm sau, vào một buổi tối, Jeffries được lệnh ngưng rửa chén đĩa để lên tầng hai phụ Phu nhân Betty Ford làm gì đó. Khi ông lên lầu thì nghe bà Ford hỏi “Mấy anh phục vụ đâu?”. Hóa ra bà ấy đang tìm các nhân viên phục vụ toàn thời gian.
“Họ mới vừa xuống nhà. Tôi có thể đi gọi họ đến cho bà”, ông vừa nói vừa bấm nút thang máy để đi xuống dưới nhà.
“Cái tôi cần là một người đàn ông”, bà nôn nóng gọi với theo từ Phòng ăn Gia đình.
Ông nháy mắt cười với tôi. “Lúc đó tôi tự hỏi mình là ‘Đợi đã, vị phu nhân này đang tính lôi mình vào chuyện gì thế nhỉ?’ Thế là tôi tò mò đi xem bà ấy muốn gì, và điều mà bà ấy muốn là đưa cái tivi 19 inch vào phòng ngủ!”
Như nhiều đồng nghiệp khác, Jeffries nhớ rất rõ về sự tử tế của Tổng thống George H. W. Bush: “Ông Bush già cho tôi cái cảm giác mình là một con người, giống như ông ấy. Tôi rất mừng là mình đã xem bóng đá, bởi ngay vào ngày hôm sau hoặc một ngày nào đó trong tuần sau trận bóng, lúc tôi lên tầng hai hỏi ông ấy và các vị khách khác uống gì thì ông ấy chợt hỏi tôi nghĩ gì về trận bóng. Tôi cho ông ấy biết ý kiến của tôi. Sau đó tôi nhận lệnh đặt nước và quay trở xuống lầu. Khi tôi trở lên, ông ấy lại tiếp tục nói với tôi một chuyện khác về trận bóng”.
Jeffries cũng nhớ đến lần ông phục vụ nước cho vợ chồng nhà Clinton và bạn bè họ vào tối hôm trước ngày diễn ra bữa tiệc tối. Trên đường đến phòng Solarium, ông gặp Tổng thống Clinton. Trông ông ấy rất mệt mỏi. Clinton tâm sự với ông rằng “nếu vị khách này không phải là Robert Mitchum thì tối nay tôi đã chẳng thèm xuống nhà tiếp ông ta”.
Jeffries thấy thương cho vị tổng thống mệt mỏi. “Ngài cần nghỉ một chút”, ông nói với Clinton.
Những người trân trọng ký ức cá nhân về gia đình Kennedy, gia đình Johnson, gia đình Nixon, Ford, Carter và Reagan, đang dần dần biến mất khỏi cuộc sống. Những hồi ức của họ cho ta cái nhìn hiếm hoi và riêng tư về những nhân vật đặc trưng cho nước Mỹ. Trong những khoảnh khắc rất ngắn ngủi của cuộc sống, những người giúp việc ấy đã thoáng thấy được những khía cạnh rất người ở các tổng thống và đệ nhất phu nhân, những tính cách thực mà không dễ có ai bên ngoài các bức tường Nhà Trắng hay biết. Giống như bất kỳ ai khác, các lãnh tụ Hoa Kỳ cũng có giây phút lưỡng lự, mệt mỏi, thất vọng, hân hoan.
Bây giờ, các cựu nhân viên Nhà Trắng chỉ còn gặp nhau ở các buổi tiệc chia tay để về nghỉ hưu hay trong tang lễ. Họ cố giữ liên lạc với nhau qua Facebook và e-mail, tuy nhiên vì những người lớn tuổi không thường xuyên vào mạng nên nhiều khi các đồng nghiệp của họ qua đời đã lâu, họ mới biết tin.
Trong lúc trò chuyện, tôi ghét phải nhìn thấy vẻ đau đớn thoảng qua trên gương mặt họ khi nghe tôi vô tình nhắc đến sự ra đi của một người đồng nghiệp mà không biết rằng họ chưa biết chuyện ấy.
Nhưng cũng có những lúc rất vui. Trong quá trình đi tìm thông tin cho cuốn sách này, thỉnh thoảng tôi lại có dịp giúp những người mất liên lạc lâu năm kết nối lại với nhau. Tôi cho Quản lý Chris Emery địa chỉ e-mail của Tổng Quản lý bộ phận phòng Christine Limerick, còn Nelson Pierce thì xin tôi số điện thoại của Bill Hamilton.
“Tôi phải gọi cho thằng cha gà tây đó mới được”, James nói, mắt lấp lánh, khi hỏi xin tôi số điện thoại của ông bạn già đầu bếp Mesnier.
Những người giúp việc trong dinh kiên nhẫn đứng nhìn từng đệ nhất gia đình mới đến học cách sống bên trong Nhà Trắng. Họ biết rằng không trước thì sau lòng trung thành và sự kín đáo của họ cũng sẽ trở thành cứu cánh giúp tổng thống và đệ nhất phu nhân vượt qua mọi khó khăn. Dù gì thì họ cũng là những người duy nhất ở Nhà Trắng không có một động cơ nào khác ngoài việc hầu hạ gia đình tổng thống và giúp họ thấy thoải mái.
Đệ nhất gia đình và các trợ lý của họ sở dĩ trông cậy vào những người giúp việc trong dinh, một phần vì những người này biết rất rõ cuộc sống các đệ nhất gia đình. “Nói về chuyện này – không chỉ với tôi mà còn với phần lớn những người giúp việc ở đó – thì không có một thành tích nào trong quá khứ, không một kiến thức hay kỹ năng nào học được nơi làm việc” có thể giúp ta làm được việc này, cựu trợ lý Reggie Love của ông Obama nói. “Ta đơn giản là bắt đầu mọi thứ lại từ đầu mà không có bất kỳ sách vở nào có thể hướng dẫn”.
Mặc dù đã nghiên cứu kỹ các tài liệu lưu trữ trước khi tiến hành phỏng vấn, tôi vẫn không biết mình có thể trông đợi điều gì khi bắt đầu ngồi xuống nói chuyện với những người giúp việc trong Nhà Trắng, mặc dù rất nhiều người trong số họ mở rộng cửa đón chào tôi. Tôi vui mừng phát hiện ra rằng thứ ta thấy cũng là thứ ta nhận được. Phần lớn bọn họ không chỉ trích hay cạnh tranh nhau như những người hoạt động chính trị ở Washington. Việc họ mong muốn đóng góp một vai trò nhỏ nhưng cần thiết cho hoạt động của nền dân chủ Mỹ là chân thật. Họ có thể không tác động đến chính sách nhà nước, nhưng những công việc họ làm có thể nói là quan trọng chẳng kém công việc của những viên chức do tổng thống bổ nhiệm. Không có họ, Nhà Trắng sẽ là một nơi không thể sống.
Từ việc chuẩn bị những bữa ăn yên tĩnh cho đệ nhất gia đình cho đến việc phục vụ các nhân vật nổi tiếng cùng các nghị sĩ Quốc hội và những nhà lãnh đạo thế giới, họ luôn thể hiện đẳng cấp phục vụ hàng đầu nước Mỹ đi cùng phong cách ngoại giao của riêng họ. Và những nỗ lực đó của họ, dù âm thầm hay lộ liễu, cũng đều được những người đàn ông và những phụ nữ quyền lực nhất trái đất đền đáp lại bằng tất cả tấm lòng biết ơn.
ĐÔ ĐỐC STEPHEN Rochon trở thành tổng quản lý năm 2007, chỉ vài tháng trước khi Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị thực hiện một trong số rất nhiều chuyến viếng thăm cấp quốc gia của bà. “Chúng tôi khiến Nữ hoàng ấn tượng đến mức bà mời tôi cùng một vài nhân viên của tôi đến Điện Buckingham để xem người Anh phục vụ ra sao”.
Khi Rochon đến điện Buckingham, ông ngạc nhiên khi nhìn thấy Nữ hoàng băng qua ‘Tầng Khánh tiết của họ’ để đến thẳng chỗ ông đứng. “Anh là ai thế, cậu thanh niên?”, bà hỏi ông.
“Thưa Nữ hoàng, tôi là Đô đốc Rochon, tổng quản lý của Nhà Trắng”, ông nói với bà. “Chúng tôi đã tiếp đãi bà trong chuyến viếng thăm cấp nhà nước của bà”.
Gương mặt Nữ hoàng bừng sáng. Bà vẫy tay gọi chồng, “Ồ, Philip, Philip, ông lại đây nhanh lên”.
Một trong những nguyên nhân khiến các nhân viên Nhà Trắng để lại ấn tượng khó phai với Nữ hoàng là vì họ khiến mọi thứ trông thật dễ dàng tự nhiên. “Cách họ thoăn thoắt đi lại để phục vụ món ăn vừa nhẹ nhàng vừa uyển chuyển. Ta cầm món ăn trên tay mà không biết đã lấy nó từ lúc nào”, Sheila Rabb Weidenfeld, thư ký báo chí của bà Betty Ford nhớ lần đầu bà dự quốc yến. “Mọi thứ đều hoàn hảo và mọi người đều ăn mặc đẹp đẽ lịch sự, bởi họ là một phần của cái khung cảnh sang trọng đẹp đẽ nhất thế giới đó”.
Mỗi khi có khủng hoảng hay bi kịch xảy ra, họ luôn cư xử đúng đắn. Trong cuộc khủng hoảng con tin ở Iran, “họ đặc biệt rất ân cần chu đáo trong quãng thời gian đó vì họ quan tâm đến chúng tôi”, đệ nhất phu nhân Rosalynn Carter nói với tôi.
Những người giúp việc trong dinh hoàn toàn hòa mình vào cái gia đình mà họ hầu hạ. Họ làm hầu hết mọi chuyện cho gia đình đó, dù có phải thường xuyên hy sinh đời sống hôn nhân, thời gian bên cạnh con cái và như trường hợp đau buồn của Freddie Mayfield, cả cuộc sống của mình. “Họ là những kẻ lừa đảo tài ba nhất thế giới vì đã khiến chính quyền nào cũng cảm thấy như họ thương yêu mình nhất”, Luci Baines Johnson pha trò.
Mà đúng vậy thật. Nhân viên phục vụ James Ramsey biết lúc nào Tổng thống George W. Bush cần được cười thoải mái. Tổng Quản lý Bộ phận Phòng Christine Limerick biết kềm lại khi bị bà Nancy Reagan nhiếc móc. Còn đầu bếp bánh ngọt Roland Mesnier biết chính xác khi nào bà Hillary Clinton cần ăn một lát bánh kem moka bà ưa thích nhất.
Ramsey trông không có vẻ gì là cận kề cái chết lúc tôi phỏng vấn ông. Ông biết mình đang bệnh – căn bệnh ung thư ruột kết đã di căn đến gan – và liên tục thoái thác lời mời gặp nhau ăn trưa dai dẳng của tôi: “Cô rất dễ thương, con gái à. Chúng ta sẽ gặp mà. Tôi sẽ gọi cho cô”.
Ông luôn tỏ ra vui tính và không bao giờ để lộ ra là mình đang rất đau. Ông luôn lạc quan trước cuộc sống và tương lai khi sôi nổi mô tả các buổi hẹn hò ăn tối cùng cô bạn gái mới và khi nói về chuyến đi Las Vegas mà ông hy vọng sẽ thực hiện với Quản lý Kho Bill Hamilton.
Sau này tôi được con gái ông cho biết là ông đã chuyển sang điều trị bằng thảo dược để chống lại căn bệnh ung thư đang tàn phá cơ thể.
Khi ông qua đời ngày 19 tháng 2 năm 2014, những gia đình tổng thống mà ông rất mực yêu thương đã đáp trả tấm chân tình của ông: bà Laura Bush đọc điếu văn tại lễ tang ông trước sự chứng kiến của hàng chục đồng nghiệp của ông ở Nhà Trắng, thư của Tổng thống Obama và Tổng thống Clinton cũng được đọc lớn ở đám tang ông. Những người khiêng quan tài ông đều là bạn bè làm phục vụ ở Nhà Trắng.
“Ông ấy luôn biết khi nào chúng tôi cần ông ấy pha trò để giúp chúng tôi lên tinh thần, một điều rất thường xảy ra ở Nhà Trắng”, Tổng thống Clinton viết. “Cả Hillary, Chelsea và tôi đều giữ những ký ức về Ramsey. Những câu chuyện ông ấy kể và những ý kiến của ông ấy về các sự kiện từ chính trị đến thể thao đều rất hài hước”. Vợ chồng nhà Obama thì khen ngợi “lòng yêu nước kiên định” của ông.
“James đã chứng kiến những thời khắc vĩ đại của lịch sử dân tộc”, họ nói.
Bà Laura Bush dẫn cả con gái Jenna đến dự lễ tang ông Ramsey, tổ chức tại Nhà thờ Baptist Trinidad ở đông bắc Washington, D.C. Tại đây, cựu đệ nhất phu nhân đã đọc điếu văn ca ngợi người nhân viên phục vụ đã nhiều lần giúp chồng bà cảm thấy nhẹ nhàng hơn vào những lúc thế giới xung quanh ông tưởng như đang đổ sụp. (“Bà ấy làm tôi muốn khóc”, cô con gái Valerie của Ramsey nói). Ramsey không chỉ là một nhân viên, Phu nhân Bush nói, mà còn là một người bạn tận tụy. Và như mọi đồng nghiệp khác, ông sở hữu đức tính trung thành cùng tấm lòng tận tụy và sự kín đáo, những phẩm chất không thể có từ sự học hỏi.
Bà nói với giáo đoàn rằng Ramsey đã làm nhiều việc hơn là nuông chiều các tổng thống, “ông ấy làm họ cười, khích lệ họ, giúp cuộc sống của họ vui vẻ hơn”. Thay mặt toàn thể gia đình Bush, bà nói, “chúng tôi cảm ơn Thượng đế đã cho James Ramsey hiện diện trong cuộc đời chúng tôi”.
Với Ramsey, việc phục vụ các đệ nhất gia đình nước Mỹ giúp cuộc sống của ông có ý nghĩa và có mục đích hơn. Khi tôi hỏi ông cảm thấy thế nào khi lần đầu tiên đặt chân vào dinh tổng thống nhiều thập niên trước, ông nói bằng giọng nuối tiếc: “Ôi trời, tôi vui lắm”.