Chương 3 Tháng chín
11
Mùa hè đi qua. Loáng một cái đã đến giữa tháng Chín. Không ngờ tôi tình cờ gặp lại một người.
Hoàng hôn cuối chiều Chủ nhật, ngày 20 tháng Chín. Như thường lệ, tôi ra ngoài tản bộ, rồi đến quán cà phê Lai Mộng. Lúc này, một sự việc xảy ra.
Ở góc gần quầy pha chế, một người đàn ông đang ngồi cong lưng trò chuyện với chủ quán. Ban đầu tôi không chú ý đến anh ta, anh ta cũng thế, chỉ thỉnh thoảng ngoái nhìn qua chỗ tôi bên cửa sổ rồi lại quay đi.
Người khách ấy mặc áo phông dài tay màu be nhạt, quần âu đen, đung đưa đôi chân bắt tréo dưới gầm bàn theo tiết tấu R&B đang mở trong quán.
Tôi hút thuốc, nhâm nhi tách cà phê đắng ngắt, ngẩn ngơ nhìn ra phố. Người khách đó tiếp tục nói chuyện với chủ quán. Họ chỉ lầm rầm nên không ai nghe thấy tôi cũng chẳng bận tâm làm gì.
Nhưng độ hai mươi phút sau, cảnh vật bên ngoài đã chìm dần trong bóng tối, ô cửa kính hiện lên khuôn mặt ngăm đen của tôi, lúc này tôi bỗng phát hiện người ấy đang nhìn mình.
Thoạt đầu, tôi tưởng anh ta chỉ ngó qua cửa sổ ra phố, nhưng không phải. Đôi mắt ấy nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tôi phản chiếu trên kính cửa sổ.
Thế là sao nhi?
Tôi thấp thỏm bất an.
Tuy nhiên, tôi có cảm giác, hình như mình đã nhìn thấy người này ở đâu đó, ngoại hình và vẻ mặt anh ta…
Tôi vừa định ngoảnh lại để nhìn cho rõ thì…
“Anh là Hiryu phải không?” Một giọng nói cất lên ngay sau lưng tôi. “Đúng là Hiryu rồi!”
Tôi ngoảnh lại, người ấy đã đứng dậy bước về phía tôi.
“Đúng là cậu thật!” Anh ta nhìn thẳng vào tôi và nói. “Lúc nãy tôi chưa nhận ra cậu, không ngờ lại gặp cậu ở đây, thật khéo quá! Cậu đến vùng này từ khi nào vậy?”
“Xin hỏi…” Tôi lúng túng, cố nhìn kỹ đối phương. “Xin… xin hỏi, anh là…”
“Tôi đây mà!” Anh ta đưa tay trái vuốt mớ tóc ở trán lên. “Cậu không nhận ra tôi à? Tôi là Kakeba đây, Kakeba Hisashige!”
“A, thì ra là cậu!” Tôi đã ghép được khuôn mặt này với ký ức ngày xưa. “Cậu là Kakeba Hisashige à?”
“Chứ còn gì! Lâu quá không gặp nhau rồi.”
Cậu ta ngoảnh về phía quầy có anh chủ quán đang nheo mắt tươi cười nhìn chúng tôi, gọi thêm một tách cà phê, rồi ngồi xuống ghế đối diện.
“Chúng ta không gặp nhau bao lâu rồi nhỉ? Mười sáu, mười bảy năm thì phải? Trông cậu gầy hơn xưa nhiều.”
Tóc mái cậu ta chải hất ra sau một cách cẩu thả, khá dài, như thể sẽ chạm tới cằm nếu cứ xõa ra. Đôi mắt nhỏ sáng rực. Sống mũi rất thẳng. Miệng rộng cùng cặp môi mỏng…
Tuy những hình ảnh còn sót lại trong ký ức tôi là một cậu bé với cái đầu nhẵn thín tròn xoe, nhưng anh chàng này đúng là Kakeba Hisashige không sai.
“Cậu ở Shizuoka đến năm nào? Chuyển tới Kyoto từ bao giờ thế?” Cậu ta hỏi tôi, cặp mắt chớp chớp đầy hoài niệm.
“Tôi chuyển tới Kyoto từ đầu tháng Bảy.”
“Cậu ở gần đây à?”
“Ừ.”
“Có phải… cậu ở ngay Lục Ảnh Trang không?”
“Cậu biết chỗ đó à?”
“Ừ, biết!” Kakeba Hisashige gật đầu. “Tôi có người bạn ở gần Lục Ảnh Trang nên thỉnh thoảng đi qua chỗ ấy. Đó là một tòa nhà kiểu Tây cổ xưa, dù không hợp gu nhưng vẫn khiến tôi phải chú ý. Huống chi, trên cùng khu đất đó còn có một kiến trúc Nhật Bản treo tấm biển đề ‘Hiryu’. Họ này đâu phải chỗ nào cũng thấy, nên tôi có chút ấn tượng.”
Thế thì… lẽ nào…
Tôi nhớ lại quãng đâu tháng Bảy, hồi mới dọn về.
Hôm đó mẹ tôi quay lại nhà chính trước. Tôi lững thững ra ban công tầng hai nhà trọ, và bắt gặp một người mặc đồ sẫm màu đứng nhìn lên tòa nhà. Có lẽ cái bóng đen đen ấy là Rakeba Hisashige cũng nên. Bởi vậy, lúc nãy tôi mới thấy cậu ta quen quen…
“Cậu đang ở đâu?” Tôi hỏi.
“Khu Shugakuin.” Kakeba đáp. Khu vực đó ở phía Bắc. “Chủ quán này là đàn anh của tôi hồi đại học nên tôi hay qua đây chơi, nhưng thường đến hơi muộn.”
Rakeba Hisashige là bạn tôi quen từ hồi tiểu học, có thể nói là bạn từ thời ‘chơi bi đánh đáo’.
Chúng tôi học cùng trường cấp hai rồi cấp ba ở Shizuoka, nhưng khi lên cấp ba và học cùng một lớp thì chúng tôi mới thân nhau. Mùa đông lớp Mười một, Kakeba Hisashige bỗng chuyển trường. Tôi nhớ hình như cậu ta chuyển đến vùng Kansai.
“Hiện giờ, tôi làm trợ giảng khoa Văn Đại học K, thực ra là chân sai vặt. Còn cậu, cậu làm gì?”
Nghe hỏi, tôi lúng túng không biết nên nói sao. “À…tôi, tôi không đi làm. Vẽ vời vài bức tranh để lấy tiền độ nhật thôi.”
“Thế à?” Kakeba không mấy ngạc nhiên. “Chắc lúc trước cậu học Đại học Mỹ thuật? Từ nhỏ cậu đã rất mê hội họa rồi. Tôi còn nhớ rõ, tranh của cậu đều rất kỳ lạ. Cậu lấy vợ chưa?”
“Chưa! Tôi vẫn ở cùng má.”
“Bà không giục cậu lấy vợ à?”
“Không.” Tôi chầm chậm lắc đầu, rồi nói tiếp. “Cậu thì sao?”
Kakeba hỏi lại, “Tôi á?”
Cậu ta duỗi lưng như mèo, rồi nhún vai.
“Tạm thời vẫn tôn sùng chủ nghĩa độc thân, chỉ hiềm gần đây, tôi rất hay bị người nhà khích bác.”
Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi học Đại học Mỹ thuật M ở Tokyo, sống bốn năm trong ký túc xá. Tốt nghiệp rồi, tôi trở về quê nhà Shizuoka và liên tục vẽ tranh cho đến nay mà không có ý định kiếm tiền gì.
Vợ chồng Ikeo, tức cha mẹ nuôi của tôi, cũng hiếm khi chỉ trích nhắc nhở đứa con trai này. Tôi ốm yếu từ nhỏ, tính cách khép kín nên giao du cực kỳ kém, nhưng ba má đều thông cảm.
Huống chi, tôi lại biết rõ một việc. Nhà Ikeo nhận được một khoản tiền kha khá từ cha đẻ tôi, gọi là tiền nuôi dưỡng. Tôi nghĩ, nếu không có khoản tiền này, chắc hoàn cảnh sống của tôi đã khác.
Sau khi ba nuôi mất, thể chất tôi vẫn yếu như trước thường xuyên ốm đau khiến má lo lắng rất nhiều.
Cứ thế, tôi sống ru rú ngót hai mươi năm trong ngôi nhà xây trên đồi cao trông xuống biển. Ngoài một số bạn hồi đại học thi thoảng đến chơi, tôi gần như không gặp bất cứ ai khác nữa. Những tháng ngày buồn tẻ lặp đi lặp lại, tĩnh lặng như mặt nước ao tù.
Đó là cuộc sống cách biệt với tình yêu, hôn nhân.
Chuyện chẳng có gì đáng tự hào, nhưng tôi cũng không vì thế mà tự ti. Má chưa bao giờ đề cập đến vấn đề này. Tôi cảm thấy, có lẽ mình cứ thế này mãi cũng nên.
Dường như muốn lấp đầy mười mấy năm không gặp nhau, Rakeba Hisashige hỏi han rất nhiều điều. Ví dụ tôi thường vẽ gì, đã mở triển lãm cá nhân chưa, tại sao tôi lại chuyển đến Kyoto… Tôi cũng mở lòng kể lại hết.
“À, cậu được thừa kế gia sản khổng lồ như thế thì phải nộp thuế, chắc phiền hà lắm?”
Tôi khẽ gảy tàn thuốc vào chiếc gạt tàn đã đầy đầu mẩu, thừa nhận, “Đúng thế, hình như phải giải quyết không ít về đất đai.”
“‘Hình như’? Chúng ta đang nói về chuyện của người khác à?”
“Tôi nằm viện lâu quá nên phó thác mọi việc cho má giải quyết. Kể cả chuyển chỗ ở cũng do bà quyết định ”
“Hiện nay bác làm cơ quan nào?”
“Má có đi làm, nhưng là hồi trước cơ. Từ khi chuyển về Kyoto thì nghỉ rồi. Nay lo coi sóc khu nhà kiểu Tây và các mảnh đất chưa xử lý xong.”
“Giờ cậu khỏe lại rồi chứ?”
“Ừ, cũng tạm ổn.”
“Ngày trước cậu rất hay nghỉ học.”
Kakeba lim dim mắt, ngón cái gõ lạch cạch lên bàn. Khi ngước nhìn con ngươi màu nâu, không, đúng hơn là màu nâu ánh đỏ của cậu ta, tôi bỗng thấy lạnh gáy.
… Gió.
Một cảm giác kỳ quái.
Cứ như có một luồng điện rất yếu chạy từ gáy lên đỉnh đầu, tê tê.
… Bầu trời đỏ như máu.
Sau một thoáng bối rối, tôi chỉ kịp kêu lên, “Gì vậy? Đó là gì?”
Cảnh vật trước mắt từ từ chao qua chao lại, rồi các đường nét đột ngột nhòe mờ…
… Những khóm hoa nở tung…
… Đung đưa theo gió…
… Hai cái bóng màu đen…
… Anh…!
… Anh…!
“… ryu! Cậu Hiryu!“
Tiếng Kakeba gọi khiến tôi bừng tỉnh.
“Cậu sao thế? Sao cứ đờ ra thế? Tàn thuốc lá rơi kìa!”
“À, xin lỗi.”
Vừa phủi tàn thuốc trắng rớt xuống đầu gối, tôi vừa lắc đầu thật mạnh.
“Cậu có sao không? Sắc mặt cậu không ổn lắm.”
“Không, tôi không sao cả.”
“Thật thế chứ?”
“Ừ.”
“Vậy thì tốt. Hừm? Đã muộn thế này rồi sao.”
Kakeba nhìn đồng hồ treo tường, cầm bao thuốc Hi- Lite trên bàn, cất vào túi áo rồi từ từ đứng dậy.
“Tôi còn có việc phải đi nên tạm xin phép nhé. A, đúng rồi, đây là danh thiếp của tôi.” Cậu ta mở ví lấy tấm danh thiếp màu ngà đưa cho tôi.
“Cứ gọi cho tôi lúc nào cũng được, từ chiều là hầu như tôi đều ở phòng nghiên cứu. Hôm nào tiện, cho tôi đến chơi nhà cậu một lần, được chứ?”
Tôi cũng đứng lên theo cậu ta.
“Không vấn đề gì, tôi là triệu phú thời gian mà!”
Đêm khuya.
Gã ở đó, vẫn trong căn phòng ấy, vẫn sự yên tĩnh ấy. … Thời cơ đến rồi.
Gã vừa nghĩ vừa nhếch mép.
Rồi cười lớn.
Gã biết rõ nơi ở của người đàn ông đó, Hiryu Soichi. Nhưng kẻ kia lại không biết bản thân đang bị gã nhắm vào.
Không cần phải sốt ruột. Không được hành động vội vàng.
Việc trước tiên cần làm là…
Gã lại cười.
Tiếng cười khe khẽ sâu trong cổ họng.
12
Bốn ngày sau cuộc gặp gỡ với Kakeba Hisashige, ngày 24 tháng Chín, các tờ báo buổi sáng lại đăng tin một vụ giết hại trẻ em nữa ở thành phố Kyoto.
Hiện trường vụ án vẫn ở quận Sakyo, trong ngôi chùa cổ tên Pháp Nhiên cách chùa Ngân Các không xa về phía Nam. Chiều ngày 23, những người đến thắp hương tình cờ phát hiện xác một cháu bé bị ném trong bụi cỏ.
Nạn nhân tên Masumi Ikeda, 6 tuổi, là con gái thứ hai của đôi vợ chồng giáo viên trường cấp ba gần đó. Được biết, sẩm tối ngày 22, hai vợ chồng Ikeda đi tìm con suốt nhưng không thấy, bèn báo cảnh sát.
Thủ pháp giết người y như cũ, bóp cổ cho đến chết.
Vết hằn để lại trên cổ cháu bé Masumi rất giống vụ giết bé trai Uedera tháng trước, hiện trường hai vụ án lại rất gần nhau nên cành sát cho ràng, nhiều khả năng đây là một vụ giết người hàng loạt do cùng một hung thủ gây ra, nên họ sẽ tiến hành điều tra theo hướng này.
13
Tôi đang ngủ thì bỗng choàng tỉnh giấc.
… Lại nữa sao?
Đúng, lại nữa, cảm giác đó lại xuất hiện.
Cảm giác đó… là ‘tiếng động’ phải không nhỉ? Nhưng lại không hẳn là tiếng động, mà chỉ như sự chuyển động khẽ khàng của dòng không khí đưa bóng tối mịt mùng lưu chuyển khắp căn nhà. Mà cũng có khi chẳng có sự chuyển động nào cả.
Chỉ mình tôi trong đêm tối.
Một tuần trở lại đây (hôm nay là ngày cuối cùng của tháng Chín phải không nhỉ?), tôi đã mấy lần cảm nhận được nó.
Cảm nhận được sự tồn tại của một vật, hoặc một người. Rất mơ hồ, khó diễn tả, sinh ra từ trong chính ngôi nhà này.
Bây giờ cũng thế.
Tôi từng nghĩ là do mình tưởng tượng ra thôi. Thực tế đã mấy lần tôi tự nhắc nhở bản thân như vậy, và lờ đi cảm giác này. Nhưng tình trạng đó cứ tái diễn khiến tôi không thể không công nhận sự tồn tại của nó.
Chi là tưởng tượng thôi ư? Không, không phải thế.
Tôi ngồi dậy, với lấy bao thuốc lá đặt bên gối.
Ngồi xếp bằng tròn trên chăn, tôi châm thuốc. Ngọn lửa nhỏ xíu xua đi phần nào bóng tối đen đặc trong phòng.
Phòng ngủ rộng chừng sáu chiếu, kiểu Nhật, cách tiền sảnh hai phòng.
Tôi không bật đèn, cứ lặng lẽ hút thuốc trong bóng tối, vừa hút vừa tập trung lắng nghe. Nhưng chỉ nghe thấy tiếng côn trùng mùa thu nỉ non vọng vào qua cửa kính chứ không có âm thanh gì khác.
Phòng ngủ của má là gian trong cùng từ bên trái tiền sảnh đi vào, cách phòng tôi khá xa. Liệu có phải bà vẫn còn thức, đứng dậy đi lại tạo ra âm thanh hay thứ gì đó khiến tôi có cảm giác kia không nhỉ?
Tôi cầm đồng hồ đeo tay lên, cố nhìn giờ.
Chưa đến 3 giờ sáng.
Dù sinh hoạt của tôi không bị ràng buộc về mặt thời gian nhưng sau 12 giờ đêm, tôi vẫn trở về phòng ngủ để nghỉ ngơi. Má thường đi ngủ sớm hơn.
Đêm nay cũng vậy. Thời điểm nhận ra âm thanh dị thường kia rồi thức giấc vẫn hệt như mọi lần. Cũng nên cảm ơn nó, vì tôi quen thức giấc lúc 8 giờ sáng, nhưng nhờ hiện tượng lạ này mà có ngày tôi ngủ đến gần 10 giờ.
Khi tôi dậy để xem đó là gì thì nó đột nhiên biến mất. Mấy lần trước cũng vậy, tôi bèn ngồi yên, lắng tai cảm nhận thứ đang ẩn náu trong màn đêm kia.
Chẳng bao lâu sau…
Không rõ từ đâu vọng lại tiếng lạch cạch rất khẽ.
Đúng, đúng thế thật.
Tôi hít thở sâu, tập trung tinh thần lắng nghe.
Lạch cạch, lạch cạch…
Lại nổi lên rồi. Tôi đang ngồi quay lưng ra hiên, bên trái là hành lang thông đến khu nhà kiểu Tây, âm thanh này từ phía đó vọng đến.
Tôi đứng lên, quyết định phải đi xem sao.
Tôi khẽ mở cửa, rồi nhẹ nhàng bước ra hành lang tối đen như mực. Tay trái áp tường, tôi khẽ dò dẫm từng bước để không gây ra tiếng động, từ từ tiến về phía trước.
Sau hai lần rẽ, tôi tiến vào hành lang dẫn sang Lục Ảnh Trang. Có thể thấy ánh sáng lờ mờ từ bên ngoài hắt vào cửa sổ.
Hành lang không một bóng người. Thế thì, tiếng động lúc nãy…
Lạch cạch…
Lại là âm thanh đó. Từ chỗ sâu nhất của hành lang vọng đến.
Bên phải hành lang có hai gian chứa đồ. Ngăn cách chúng với hành lang chỉ là một cánh cửa kéo. Lúc này, cánh cửa đang đóng chặt.
Tôi chầm chậm bước lên trong bóng tối mờ mờ.
Tới trước cánh cửa kéo ở cuối hành lang, tôi nín thở đưa tay lên.
Lúc kéo cửa ra, tôi nghe thấy một tiếng ‘kẹt’
Cánh cửa cuối hành lang ngăn cách giữa nhà chính và nhà trọ đang khép hờ. Nửa bên kia, tức hành lang bên khu nhà trọ có ánh đèn hắt lại. Ở bậc thềm phía trong cửa, một bóng người đang chống hai tay xuống sàn, lưng quay về phía ánh đèn.
Cũng như tôi, người đó hết sức kinh ngạc.
“À… chào… xin chào…”
Đang ngược sáng nên tôi không nhận ra khuôn mặt ngẩng lên của người đang bò lồm cồm kia.
“Là…”
“Xin… xin lỗi.”
Tôi vừa mở miệng thì người đó đã xin lỗi bằng chất giọng the thé và đứng lên. Tôi rờ trên tường hành lang tìm công tắc rồi bật đèn.
Đó là một thanh niên mặc quần áo thể thao màu be, Kuratani Makoto, nghiên cứu sinh, hiện đang thuê gian 1-C Lục Ảnh Trang.
“Khuya thế này sao cậu lại ở đây?”
“Xin lỗi…”
Kuratani Makoto vóc người tầm thước, vai rộng hơn vai tôi nhiều, dù cậu ta luôn giam mình trong phòng nghiên cứu nhưng thân thể vẫn rất cường tráng. Kuratani Makoto vừa vò vò mái tóc mềm mại màu nâu đậm vừa cúi đầu ngượng nghịu nói, “Xin lỗi… Koichiro chạy mất rồi.”
“Koichiro?”
“À, là tên con chuột hamster.”
“Chuột hamster?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
“Tôi lấy nó từ phòng thí nghiệm đem về nuôi. Nó vừa chạy mất.”
“Cậu đang tìm nó à?”
“Vâng. Để xin phép nuôi nó, tôi có hỏi chủ nhà tức má anh rồi.”
Nói mới nhớ, hình như má đã nhắc qua.
“Nhưng sao cậu lại mở cửa bên đó ra?”
Câu hỏi này lại khiến Kuratani lúng túng vò tóc.
“Cánh cửa này vốn mở sẵn từ đầu, cho nên tôi nghĩ có thể nó đã trốn qua đây.”
Quả là khóa cửa đã hỏng từ trước khi tôi chuyển về. Vợ bác Mizujiri Dokichi nói, cái khóa này không dùng được từ vài năm nay rồi nhưng vẫn bỏ đó, có thể tại cha cho rằng không cần thiết phải sửa.
Tôi từng nhắc má nên sửa cho yên tâm, bà nói ‘Để sau’, nhưng rồi cũng không ngó ngàng đến nữa.
“Dù sao, đêm hôm khuya khoắt cậu cũng không nên gây tiếng động.” Tôi nghiêm khắc nhắc nhở.
Kuratani cúi đầu, lịch sự đáp, “Đã làm anh thức giấc, tôi rất xin lỗi.”
Cậu ta vừa bối rối đáp vừa rón rén lùi về cánh cửa phía bên kia.
Còn con chuột hamster chạy mất sẽ thế nào nhỉ?
Tôi ngẫm nghĩ, rồi khép cửa lại.
14
Cậu nhà văn khó tính luôn than phiền về môi trường phòng ốc.
Ông già mù hành nghề mát xa đi ngang nói mấy lời, tiện bói về vận số ngày hôm đó.
Cậu nghiên cứu sinh nửa đêm đi tìm con chuột hamster.
Toàn là những vị khách thuê nhà kỳ quái! Tôi vừa nghĩ vừa ngoặt trở về.
Tiếng động và cảm giác không bình thường khiến tôi phải trằn trọc rốt cuộc lại chẳng là gì cả! Xem ra, những âm thanh mà tôi nghe thấy mấy lần trước cũng chỉ như đêm nay, là do một khách thuê nhà đi đi lại lại, thế thôi.
Tôi thở phào, nhưng lại thấy hơi chán nản, không rõ tại sao.
Tóm lại, cánh cửa đó nên sửa cho nhanh. Tôi sẽ kể má về chuyện xảy ra đêm nay và nhắc bà lập tức gọi người đến chữa khóa.
Sắp trở vào vào phòng ngủ thì bỗng cảm thấy bất an, tôi bèn quyết định sang xem gian nhà kho đã được biến thành xưởng vẽ kia.
Cuối lối đi, cái bóng xam xám của hình nhân đang chờ đón tôi. Tôi không còn ngạc nhiên vì hình thù quái dị của nó nữa, nhưng vẫn không thể gạt bỏ cảm giác khó chịu với những ‘cô gái’ này.
Không tính số ở xưởng vẽ thì trong nhà có cả thảy sáu ma nơ canh, bày rải rác ở nhà chính và Lục Ảnh Trang, mỗi bên ba cô, đều khiếm khuyết một bộ phận nào đấy.
Cô nàng đối diện tôi lúc này không có đầu. Cô đặt ngoài tiền sảnh thiếu tay phải. Ở hàng hiên chạy qua phòng ngủ của má là một cô thiếu chân trái, thân dưới dùng giá gỗ làm khung xương để gắn hông và chân phải.
Bên Lục Ảnh Trang, tầng hai có hai cô, chỗ ngoặt hành lang là một cô thiếu tay trái, hành lang phía trong là một cô thiếu chân trái; tầng trệt có một cô thiếu thân trên, cũng dùng giá gỗ làm khung xương để gắn đầu và hai cánh tay vào.
Đọc vài tài liệu của cha để trên giá sách, tôi mới biết các ma nơ canh đều được lắp ráp bởi năm bộ phận có thể tháo rời, gồm đầu, thân trên, thân dưới, tay phải và tay trái.
Kể từ hông trở xuống, bao gồm hai chân, gọi là thân dưới. Một trong hai chân có thể tháo ra. Phải thiết kế như thế để tiện mặc quần cho các cô. Vì vậy, nếu tính cả một chân tháo rời được thì ma nơ canh gồm sáu bộ phận.
Sáu hình nhân đều khuyết một bộ phận nào đó, và nếu không kể cô không đầu, thì năm cô còn lại đều không có mặt.
Theo suy đoán từ trước, các cô nàng do cha tôi chế tác đều là Hiryu Miwako phục sinh. Nhưng dù nghĩ thế thì…
Tại sao cha lại cố ý đặt đám hình nhân không hoàn chỉnh này ở các nơi trong nhà? Và còn dặn lại là không ai được đụng đến chúng, tại sao?
Có lẽ người cha đã tự sát của tôi bị ám ảnh bởi một ý nghĩ hão huyền nào đó. Sự cô độc khi về già, niềm nhớ nhung người vợ đã mất… thế rồi (như hàng xóm vẫn bàn tán) cha tôi hóa điên.
Thôi đừng nghĩ nữa!
Tôi không muốn nghĩ nhiều về chuyện này. Không thiết nghĩ nữa.
Tôi đẩy cửa xưởng vẽ, bật đèn, nhìn khắp lượt.
Sau khi tập trung toàn bộ đám hình nhân trong phòng lại, tôi xếp gọn chúng sang góc bên phải rồi phủ vải trắng lên. Dù sao, tôi cũng không thích chúng đứng rải rác khắp phòng như vậy.
Giữa gian phòng rộng rãi để giá vẽ và chiếc ghế mặt tròn. Trên giá vẽ là bức tranh sơn dầu chưa hoàn thành. Họa cụ đặt trong ngăn tủ mây, khá lộn xộn. Trong cùng là chiếc bàn gỗ to rộng, một cái ghế có tay vịn, một giá sách cao lấp cửa kính, và bộ dàn nghe nhạc.
Bên trái góc đó còn có một chiếc ghế bập bênh để ngồi đọc sách.
“Cái…?” Tôi suýt nữa hét lên nhưng đã kịp nuốt lại.
Vì nhìn thấy một thứ không nên đặt ở đó
Là một hình nhân. Lẽ ra nó phải đang đứng trong góc kia, thế mà lúc này lại ngồi trên chiếc ghế bập bênh!
Sao thế được?
Tôi lén nhìn phần đầu, gáy và vai nhô lên ở lưng ghế, đúng là làn da trắng nhợt của ma nơ canh.
Tôi run rẩy nhìn quanh, rồi từ từ bước vòng ra phía trước ghế.
Đó là một hình nhân không có hai cánh tay. Phần liên kết thân trên và thân dưới đã bị tháo ra, chồng lên nhau thành hình cong cong, nên nó mới ngồi được như vậy. Và…
“Gì thế này?” Tôi suýt gào lên.
Toàn thân nó dính máu.
Nửa người trên (không có mặt), từ cổ họng xuống đến bộ ngực lồi ra đều bị bôi nhòe nhoẹt thuốc màu đỏ thẫm như máu.
Gã cười.
Tiếng cười càng lúc càng sâu, khùng khục trong cổ họng.
Hãy sợ hãi đi!
Gã nhếch khóe miệng lên.
Run sợ cực độ đi!
Không được phép vội vàng.
Trước tiên làm cho hoảng sợ bất an, rồi từng bước dồn đến chân tường không lối thoát, sau đó…
Sau đó thì…