← Quay lại trang sách

- 12 -

Vụ cháy nhà làm rụi hai phần ba cái lỗ mũi, táp qua mái nhà ông Tâm bên trái, bà Hương bên phải, thím Mẫn đâu đít sau lưng. Không có tổn thất về người nhưng bà con bị một mẻ hồn phi phách lạc. Mấy gia đình túm của chạy hoảng đang lục tục quay lại, tụm năm tụm ba bàn tán sôi nổi. Không thiếu những lời mắng nhiếc, quỷ sứ, bờ chờ bợt chợt, mém chút nữa cả xóm màn trời chiếu đất, cháy thêm vài phút coi như chết cả lũ, may nhờ mấy ông phía sau nhanh trí chuyền nước từ lan can nhà cô Tư Lụa, chờ xe chữa lửa là tiêu rồi, ba cái vụ cúng kiếng làm cháy nhà như cơm bữa, kiểu này bắt đền sao đây, có bà bác với bà chị bên Mỹ lo gì, ờ phải, cháy cái nhà chớ cũng còn cái địa chỉ để gửi tiền về...

Tôi bị phỏng sem sém hai cánh tay, lòng bàn chân trái chảy máu do đạp phải vật nhọn trên đường chạy ra, quần áo te tua, mặt mày không tự ngắm nghía nhưng chắc giống con ma lọ nồi. Dự án môi giới bất động sản giờ đây chỉ còn cái nền nhà nám đen, bốn mặt tường liêu xiêu lỗ chỗ, trần nhà bếp còn vắt vẻo tì trên miệng hồ xi-măng. Một tay ôm hũ tro cốt, một tay cầm gậy, tôi đứng lớ ngớ nghe chửi cho đến lúc mỏi rục giò thì ngồi xuống, chặp sau lại đứng lên. Tổ trưởng đưa cho chai nước và một tấm bạt dặn ở đó coi chừng, chờ trên phường xuống làm biên bản, chừng nào nguội nguội vô bươi moi coi còn vớt vát được món nào hay món nấy, có tiền của gì không sao coi bộ tỉnh rụi không thấy tiếc? Tiếc chứ, nhưng con ma khô nó hãm không cho giẫy lên đành đạch khóc kể trời ơi tiêu rồi cái hộp đựng gói tiền để dành, hai chiếc vòng cẩn hổ phách, đôi bông hột đá đen, mặt dây chuyền cẩm thạch, tập giấy pơ-luya chép thơ tình...

Chiều tối có một cơn mưa nhỏ khiến không khí bớt oi, tro bụi trôi xuống làm nền nhà như dầy lên. Đồ đạc bể mẻ lôm côm vương vãi chèm nhẹp lẫn với nước mưa và nước chữa cháy. Chị Bảy lôi kéo:

- Đứng chi đây tối hù. Chắc còn lâu người ta mới nối lại đường dây điện. Vô nhà chị mà nằm nghỉ, thong thả tổ phụ nữ giải quyết cho chuyện ăn ở tạm trong khi chờ chòm xóm mỗi người một tay cất giùm cho cái chòi dã chiến. Dù gì gian bếp chỉ mới rụng cái la-phông. Nghe đồn mấy vụ như vầy trên phường trích quỹ cứu trợ ủng hộ một phần chi phí vật tư.

Tôi nói, lưu loát như có chuẩn bị trước:

- Em tính làm sạch gọn một góc bếp, lót tấm bạt ngủ coi chừng nhà. Còn nhiều món xài được, để em mót lại. Chị cho em mượn vài ngàn mua bánh mì, bán được xà bần em trả lại cho.

- Mượn gì, bày đặt. Nè cầm chút đỉnh xây xài. Bà con không bỏ rơi đâu mà lo. Còn cóc khô gì nữa đâu mà canh chừng, khùng quá trời!

Chị Bảy đi rồi tôi ngồi chồm hổm nhìn chằm chằm vào chỗ cách đây không bao lâu đã từng có cái gọi là tủ thờ. Dưới đít tủ này có một hốc bí mật, nơi trước đây mẹ thường giấu lương khô do phía chị Du tiếp tế những năm đói kém. Cũng nơi này tôi đã cất cái hộp. Nó đang nằm bên dưới gạch đá lụn vụn, ván ép cháy dở, bàn ghế bị xô gẫy. Tôi sẽ để yên cho nó ở đấy được lâu chừng nào hay chừng nấy. Đó là chút hi vọng mà tôi muốn nuôi, dù không biết để làm chi.

Trong góc bếp gần sàn nước, nơi một buổi chiều hơn mười năm trước mẹ ngồi bệt hai mắt lạc thần, còn chị Du nách thằng cu Diên đứng cạnh hồ xi-măng môi trắng nhách như phết vôi, tôi trải tấm bạt ra và nằm xuống. Mùi khen khét nặng và dày làm ngộp nhưng nền gạch loang lổ vẫn còn âm ấm một cách dễ chịu. Đêm càng lúc càng đặc đến không cần nhắm mắt. Đang thao láo trong cái màu đen thui đó thì chợt thấy mình dềnh lên chìm xuống như đang ngồi trên một chiếc xuồng ba lá tròng trành không có người chèo, băng ngược sông Ghành ở Làng Duyệt. Ông Dũng đứng trên bờ ngoắc ngoắc hỏi vói xuống:

- Xương cốt cháy thành tro rồi ôm theo chi? Sao không ôm cái chi chưa cháy?

Nước táp ồ ồ hai bên mạn xuồng khiến tôi phải la lớn:

- Định mang đi gửi trong chùa Già Lam sau khi cúng thất.

Không nghe rõ, ông Dũng hét:

- Chùa gì? Chùa gì ăn thua gì! Đi xuồng nước ngược biết chừng nào tới?

Xuồng vẫn vật vã trườn về phía trước, tiếng nói nhỏ dần và cái bóng cong cong bỗng gẫy làm đôi. Ngoái nhìn hút mắt chỉ thấy một cái cây còi còi thâm thấp đang lặn từ từ xuống đất. Tôi đứng chàng hảng giữ thăng bằng giữa lòng xuồng kêu vói ba ơi ba, bỗng cảm thấy từ âm hộ rớt ra một vật gì, tiếng chạm xuống lườn nghe đùng đục. Vói tay nhặt lên mân mê. Từ chỗ nó chui ra không có cảm giác gì đặc biệt, giống phụ nữ có tháng thỉnh thoảng nhợn ra một cục huyết bầm bằng nửa miếng gan gà. Lạ là thoạt nhìn nó giống miếng tóp mỡ hay thẻo vỏ quýt phơi khô đã trỗ màu sậm sì. Phải chăng cái trinh tiết, do bị hãm bởi con ma men và con ma tôi, đã nằm chờ từng ấy năm đến quắt queo nhăn rúm? Chắc cú không phải thai chết lưu, bởi cái nghìn vàng vẫn còn đó nỗi buồn nên nó đành tự sản tự tiêu?

Rõ ràng nó là một phần trong cơ thể rụng ra, như cuốn rún của trẻ sơ sinh bị héo do đứt dinh dưỡng từ nhau của người mẹ. Nó là cái gì thì cũng là điều thầm kín, phải được cất ở hốc bí mật dưới tủ thờ cùng với tiền để dành, của hồi môn và những bài thơ tình. Thôi chết, cái hộp! Phải móc nó lên từ đống xà bần trước khi xe ba bánh đến xúc đi trong ngày mai! Hốt hoảng với ý nghĩ phải lấy cái chi khều cho xuồng tấp vào bờ, tôi mò dưới chỗ đứng tìm cây gậy đạo sĩ, lúc bấy giờ không biết tại sao có mắc tòn teng một sợi nhợ với cả lưỡi câu. Một cách vô thức, tôi móc cái vật vừa nhặt được vào lưỡi câu rồi vung lên quơ quơ kiểu người ta giương cờ trắng đầu hàng. Trời nổi gió đùng đùng lùa chiếc xuồng quay mòng mòng. Trong nỗ lực cuối cùng, tay vung vẫy cây gậy có miếng gan gà khô queo đong đưa, mắt dõi về phía chân trời mờ mịt, tôi lấy hết sức bình sinh gào lên nhưng tiếng la chết ngắc trong họng.

Trần Thị NgH

Ribière, 12.2010