← Quay lại trang sách

Nhan sắc

Cụ Tú Hà chống tay lên chồng gối xếp, cụ đẩy chiếc điếu bát ra xa, nhấc bình trà nhỏ chiết vào chén hạt mít rồi đưa lên môi nhấp một chút. Khóa Nhâm ngồi khúm núm lặng nhìn xuống mặt sập không dám ngó lên. Cụ Tú để chén xuống khay, cầm tập cổ thi lên tay. Cụ ngừng lại một chút khẽ đưa mắt nhìn sang người trưởng nam:

– Thầy không ép con gì chuyện này. Từ hồi thầy và cụ Cử còn là bạn học với nhau đã hứa như thế, ngày đó thầy chưa lấy đẻ con kia. Bây giờ người ta hiển đạt còn nhớ tới lời hứa là quí lắm. Vả lại con cũng lớn tuổi rồi. Tam thập nhi lập, thầy, muốn có đứa cháu bế cho vui tuổi già. Thứ nhất trẻ khóc, thứ nhì trẻ học... Đấy con nghĩ xem...

Giọng cụ Tú ôn tồn dịu dàng. Khóa Nhâm bần thần không biết trả lời sao. Nghe lời cha thì trong lòng không vui, cưỡng lại lời cha Khóa Nhâm áy náy, nhất nữa chưa bao giờ người trưởng nam này làm vậy. Nhưng Khóa Nhâm vẫn chưa muốn lập gia đình.

– Thầy thư thả cho con nghĩ lại.

Anh khóa nói xong xin phép cha ra ngoài. Anh bước xuống sân gạch ngó lên nền trời xanh trong cao vút lấp lánh sao, anh thở ra một cách khoan khoái. Anh trở về thư phòng đốt đèn đọc sách. Cho gần tới sáng cụ Tú nhìn xuống vẫn thấy đèn sáng trong phòng người trưởng nam. Đêm đó anh khóa không sao chợp mắt được.

Trong thôn Trúc này người ta đã nhiều lần bàn tán về người con cả cụ Tú. Anh Khóa là người hay chữ có tiếng bậc nhất ở trấn Sơn. Khóa thi hương trước đây anh là người được cụ Đốc tin tưởng thế nào Khóa Nhâm cũng mang về cho làng Trúc mạt ra cũng là cái cử nhân, nhưng không hiểu sao, anh Khóa lều chõng lên vai giữa đường lại trở về không xuống trường Nam ứng thí, lúc con trở về cụ Tú đã không khỏi ngạc nhiên, anh Khóa nói một cách mơ hồ rằng đến giữa đường thấy người khó chịu nên không đi nữa:

– Thưa, thầy để khóa sau cũng được, con tưởng chưa muộn gì.

Sau đó trong thôn một người con gái gieo mình xuống giếng tự vận. Phong thanh đồn người thôn nữ thất vọng vì anh Khóa đã bỏ lỡ khoa thi. Người thôn nữ là một trang tài sắc đã làm nhiều thư sinh mê mệt nhưng chẳng ai lọt mắt, cô đã mê anh Khóa và chừng như đã tự đính ước nếu anh Khóa thi đỗ trở về nàng sẽ xin theo hầu. Các bạn đồng song kháo nhau: Khóa Nhâm sợ phải lấy người thôn nữ nên làm cho nàng thất vọng, vì cái bằng cử nhân anh Khóa đã như bỏ trong túi áo rồi. Sau chuyện này cụ Tú có cật vấn con, anh Khóa một mực kêu không biết: vả họ để ý đến con thì làm sao con hiểu được. Với tính trang nghiêm mực thước, thái độ đường hoàng của anh Khóa chẳng ai nghĩ rằng anh có điều gì hư hỏng. Vả ai là con gái ở trấn Sơn này lại không mê anh, các bạn trong một phút cao hứng nào hỏi anh Khóa về chuyện tình ái, anh nghiêm trang đáp:

– Mình còn trẻ, vả tôi chưa thấy ai là người để cho tôi phải để mắt đến. Một vẻ đẹp thật khó biết chừng nào!

Nghe nói thế có người cho anh gàn. Có người cho anh ái nam ái nữ. Có người biết truyện cụ Tú đính ước với cụ Cử làng bên thì cho anh Khóa làm cao để lấy con cụ Cử hiện thời đang làm án sát dưới hạt Sơn Nam Hạ. Khi nhắc tới đó anh Khóa chỉ lắc đầu:

– Đó là chuyện thời xưa rồi, hồi cụ Cử còn hàn vi, nay nhà người ta làm quan, thầy tôi nghèo ai còn nhớ đến chuyện ấy. Nhưng đến khi nghe cha nói tới chuyện đó anh Khóa lại càng thấy khó nghĩ. Suốt một đêm thức trắng sáng hôm sau trong tuần trà buổi sớm mai anh Khóa đã thưa với cha già:

– Con chưa hiển đạt nên việc lập gia đình con vẫn cho là còn sớm. Cụ Cử có thương con nhưng tiểu thư sợ không vui lòng phải làm vợ một anh Khóa nghèo.

Cụ Tú biết ý con muốn từ chối nên kiếm cớ ra như vậy. Cụ lặng im uống trà trầm ngâm. Cụ nhìn con: với đôi mắt sâu trũng, đôi lông mày lưỡi mác. Cụ Tú như thấy một phần nào những ý nghĩ của con, lá số tử vi cụ Tú đã lấy đi lấy lại nhiều lần cụ vẫn thấy người con mình khác tính cụ, nó sẽ là một người bay nhảy xông xáo với lòng dũng mãnh, ý chỉ cương cường lộ ra đôi mắt như lò lửa và gò má cao khắc khổ kia. Cụ còn thấy tính con lộ ra trong văn bài, những nét chữ ngang dọc mạnh mẽ như nhát chém, giọng văn cuồng nhiệt nhiều khi phá cả luật cách. Nhìn con cụ Tú càng lo ngại, cụ muốn con lập gia đình cho vướng vít như thế cụ đỡ lo hơn. Trong dòng họ, cụ Tú vẫn lấy làm hãnh diện đã có một cụ tổ thờ nhà Lê trung thành cầm nghiên mực đập vào mặt Mạc Đăng Dung.

Tuần trà buổi sớm mai vẫn lặng lờ trong sương sớm gây lạnh. Anh Khóa quạt khẽ chiếc hỏa lò cho than hồng chút nữa. Cụ Tú hỏi:

− Con có biết con cụ Cử chưa? Cô ấy đẹp và học cũng giỏi lắm, xuất khẩu thành thi, nét bút bay bướm tài hoa. Có được con như thế thật phúc lắm...

– Có, con có thấy nhân dịp lên mừng thọ cụ Cử năm rồi. Đó là một trang tài sắc, nhưng không có một vẻ đẹp...

– Một vẻ đẹp?

– Vâng, thưa thầy, một vẻ đẹp như con nghĩ.

– Vậy, con đã thấy ai là người có một vẻ đẹp như ý con?

– Chưa, con chưa thấy ai là một người đẹp cả. Những vẻ đẹp người ta thấy chỉ là cái vẻ đẹp phàm tục tầm thường, cái vẻ nhàm chán của son phấn điểm trang hào nhoáng đánh lừa con mắt của trần gian. Con nghĩ, có những vẻ đẹp siêu phàm, vẻ đẹp làm cho người thấy nó tan đi vào khát vọng và quên cả thân thể nặng nề... một cái nhan sắc hàm chứa, kết tụ lý tưởng của kẻ nam nhi chắc phải khó mới tìm thấy được...

Cụ Tú ngẩn ngơ nghe con nói một cách say sưa. Thật tình cụ không làm sao hiểu thấu. Nhưng cụ Tú cũng vẫn nghi ngờ: hay là nó đã có tình ý với ai.

Ngày tháng trôi qua, mùa xuân năm đó anh Khóa Nhâm xin phép cha đi dự hội mùa xuân ở Kinh kỳ, nơi mà anh đã nghe nói đến những giai nhân tài tử của đất phồn hoa mượn tiết xuân đề tìm khách đông sàng, cùng các bạn tới nơi chưa tàn nửa cuộc vui anh Khóa đã chán nản đóng cửa phòng trọ uống hết bình rượu này sang bình rượu khác. Có người hỏi về giai nhân tài tử, anh Khóa nghiêm nét mặt nói một cách tàn nhẫn:

– Làm gì có người đẹp ở nơi phồn hoa đô hội này, có chăng là một lũ tầm thường, phường hát xướng, đào ca cả mà thôi. Họ chỉ xứng để làm nàng hầu, tôi tớ cho bọn quan lại, quyền thế và lái buôn. Kẻ nam nhi mà còn thấy đó là đẹp sao?

Lời nói đó lọt tai một nhà quyền quí nọ, với bốn đứa con gái ế chồng, lấy làm mất sĩ diện nên thuê tụi du thủ dụ thực tới vây nhà trọ định làm nhục anh Khóa, may sao có người bạn biết báo cho anh Khóa hay, anh vội vàng xách khăn gói giữa canh ba trổ mái nhà thuê cáng về Sơn thề không trở lại nữa.

Tới nhà anh Khóa đóng cửa thư phòng không bước ra khỏi cửa. Ngày ngày cụ Tú nghe tiếng con ngâm thơ Đỗ Phủ, giọng ấm ức nghẹn ngào. Khóa thi năm đó đã rao, cụ Tú hỏi con chuyện lều chõng. Anh Khóa buồn rầu:

– Thưa cha, con không nghĩ đến chuyện đó nữa, năm rồi ở kinh kỳ con đã nhìn tận mắt bao cảnh đồi trụy nhơ nhớp, tai đã nghe bao chuyện lố lăng. Chốn trường thi nay đã thành nơi buôn quan bán tước. Kẻ sĩ mỗi ngày một bỏ xa đạo thánh hiền, dân tình khổ cực khắp nơi, loạn lạc không ngớt cho nên con không còn thiết gì đến công danh, một cái hư danh phỏng có ích gì. Xin thầy hiểu cho con. Con lấy làm tiếc rằng tại sao con lại sinh ở một thời vua không ra vua, quan không ra quan, người không ra người này. Bao nhiêu chữ nghĩa con được học của thầy chắc không phải chỉ để đi thi, đội mũ, mặc áo có cân đai bố tử, làm quan hưởng bổng lộc. Chữ nghĩa của thánh hiền là để cho con làm một kẻ sĩ, nếu không cũng là một tài tử đi tìm một giai nhân xứng mặt giai nhân...

Sau đó anh Khóa sống âm thầm phụng dưỡng cha già đêm đêm đọc sách, tuyệt không giao du với bên ngoài. Cho đến một hôm cụ Tú thấy người trưởng nam biệt tích. Anh Khóa đã bỏ nhà ra đi không nói nửa lời. Cụ Tú thở dài im lặng.

Ba ngày sau khi Cao Bá Quát bị bắt cùng với dư đảng « Giặc châu chấu », cụ Tú thấy anh Khóa Nhâm trở về vào lúc trời nhá nhem. Cụ Tú không dám hỏi con một tiếng. Anh Khóa lặng im. Người con dân trấn Sơn nhìn nhau sau một cơn biến động. Những phấn khởi, xáo động buổi đầu đã chuyển sang những lo âu sợ sệt. Cái tương lai sáng sủa của ông Quát khích động ngày nào đã tan biến, mọi người thở dài như than tiếc cho nhà Lê đã không còn cơ hưng thịnh lên được. Ngày xử trảm ba họ nhà Cao Bá Quát bầu trời trấn Sơn như nhuộm một màu thê lương tang tóc. Kẻ già, người trẻ cúi đầu rơi lệ cho một cuộc vùng vẫy không thành. Anh Khóa Nhâm cả ngày ngồi bất động trên tràng kỷ như kẻ chịu nhục hình xẻo da cắt thịt, mối lo âu làm mái tóc bạc phơ. Mấy người bạn đồng song nghe tin anh Khóa trở về lại thăm, để tránh sự nghi kỵ anh đành mở cửa tiếp bạn, cố gượng làm vui, cười nói vồn vã. Có người hỏi:

– Vậy chứ anh bỏ nhà đi từ đó đến nay là tại sao vậy? Người ta bảo anh trốn lấy vợ phải không?

– Sao lấy vợ mà lại trốn là thế nào?

– Thế anh đi đâu?

– Đi tìm một giai nhân...

– Tôi không thể tin được. Tiểu thư con quan án sát không phải một trang tài sắc hay sao?

– Nhưng thế nào là giai nhân nhỉ?

Câu nói của anh Khóa trầm xuống, anh cúi đầu tư lự. Bạn bè lặng im không biết trả lời ra sao. Thế nào là một giai nhân? Thật chưa ai nghĩ đến điều đó để trả lời. Trông anh Khóa lúc đó chừng như không phải là một người thường nữa mà như một đạo sĩ đã thoát trần:

– Các anh có thấy tóc tôi đã bạc rồi không? Hơn ba mươi tuổi, bỏ làng đi hai năm mà tôi tưởng gần hết cả đời người. Sống hai năm để hiểu rằng ba mươi năm kia mình đã phí như thế nào. Như các anh, các anh phải thấy là đáng hối hận... Sinh ra làm trai để làm gì? Để làm việc lớn? Để gặp giai nhân? Để thấu đạo lý? Cái ý nghĩa của đời người là thế nào? Tôi mãn nguyện một phần là đã thấy giai nhân, đã thấy một phần ý nghĩa của đời người... Sinh làm trai lại do dó ở trong lũy tre, vùi đầu vào trang sách nát, mờ mắt bởi những giả tạo quanh quẩn... rồi chết đi, như vậy thì có hơn chi lũ đàn bà con trẻ quanh quẩn nơi xó bếp, góc nhà, có hơn chi loài cầm thú yên với số phận cỏn con...

Anh Khóa nói một cách say sưa làm người nghe như bị dắt vào một thế giới khác, bạn hữu thấy thua kém anh quá, một người bỗng hỏi:

– Anh không biết gì về chuyện cử Quát? Làm việc lớn là để bị tru di ba họ sao?

Anh Khóa rợn người, cảm giác một lưỡi gươm vô hình vừa đưa ngang cổ.

– Hắn là một cuồng sĩ. Không hành động như thế được. Làm việc lớn đâu phải là làm loạn. Tôi đã nói mà, bây giờ là thời tìm gặp giai nhân. Tôi muốn nói về giai nhân tôi đã gặp cho các anh nghe... nhưng thật khó quá…

– Không có ai để so sánh được sao?

– Nếu có một người thứ hai để so sánh thì đó không còn là một giai nhân nữa... Chúng ta cũng không có ngôn ngữ để diễn tả. Đó là một vẻ đẹp của trời đất. Tóc như mây trời, da như sương mù ngưng đọng... Cũng không phải như thế nữa... Không thể nói ra, không thể tả lại. Phải gặp mới biết thế nào là vẻ đẹp...

Tới đó anh khóa thôi không nói gì nữa. Bạn hữu đứng dậy xốc áo sửa khăn ra về. Nửa đêm hôm đó cụ Tú vào đối diện người trưởng nam:

– Con có dự gì vào chuyện Cao Bá Quát không? Con nói thật cho thầy yên lòng?

Khóa Nhâm nhìn vào đôi mắt nghiêm khắc của cha già:

– Thưa cha không. Con chỉ là một tài tử. Con đã thất hiếu ra đi vì một vẻ đẹp...

Cụ Tú không hỏi thêm gì trở ra ngay. Cân chuyện của Khóa Nhâm qua tai bạn hữu loan truyền ra ngoài, ai cũng cho anh là một kẻ đa tình háo sắc, gàn dở. Bỏ cả công danh sự nghiệp đi theo đuổi một người đẹp đến bạc đầu cũng không nên cơm cháo gì. Câu truyện đó qua dư luận dần dần sai lạc để trở thành hài hước, nhờ vậy chẳng ai còn thắc mắc đến những hành tung của anh. Nhưng một người bạn, buổi sáng kia tìm gặp anh Khóa:

– Anh nói phải, tôi tin là có giai nhân. Anh cho tôi biết tên để tôi đi tìm gặp người đó.

– Không phải dễ, anh phải lấy cả cái tâm thành của anh ra may mới gặp được. Anh phải coi cuộc tìm kiếm như một cuộc hành hương tìm đạo, bởi nó ở ngoài lẽ thường. Liệu anh có đủ cái tâm thành ấy không?

– Tôi có đủ.

– Nếu anh không gặp thì sao? Tôi sợ khó khăn cho anh lắm. Những khó khăn tôi đã gặp thật nói ra không được.

– Tôi tin là có, nhưng có gặp hay không là ở tôi... Tên người đó?

Khóa Nhâm buồn rầu cầm tay người bạn trẻ không biết nói sao, anh nói nhỏ, xa, mơ hồ như trong giấc chiêm bao... Người bạn trẻ nghe xong từ tạ lên đường, tự nguyện không gặp giai nhân sẽ chẳng trở về. Không bao lâu Khóa Nhâm lâm trọng bệnh người xanh như tàu lá. Sự sống chỉ còn nơi hai con mắt triền miên trong những cơn mê sảng. Nhưng vào những đêm khuya giữa cơn mê sảng, cụ Tú nghe con gọi lập đi lập lại nhiều lần tên một người nào đó. Cụ Tú cho là con đau tương tư vì xa người tình. Cụ gặng hỏi nhưng anh Khóa chỉ lắc đầu và khóc cho đến nỗi chảy máu cả hai con mắt rồi chết. Cụ Tú thương con cho nhập quan quàn lại trong nhà, báo tin cho bè bạn của Khóa Nhâm được biết.

Ngày đưa đám, bạn hữu của Khóa Nhâm đều đủ mặt. Ngoài những kẻ quen biết còn rất nhiều người lạ. Trước mặt cụ Tú ai cũng tự giới thiệu là bạn của Nhâm, mặt mày họ gớm ghiếc, trông nhiều kẻ không phải là người có học. Đặc biệt trong đám khách lạ có một người to lớn, vạm vỡ, mặt đen, lông mày rậm nói là ở Cao Bằng vừa xuống có ý thăm anh Khóa, không ngờ anh Khóa đã ra người thiên cổ thì vẻ tiếc hận buồn rầu lộ ra nét mặt. Người khách nói:

– Thế là công việc lỡ cả...

Cụ Tú sinh nghi liền hỏi tại sao. Người khách thưa:

– Chúng con có hẹn sẽ uống với nhau một bữa rượu cho say túy lúy. Tiếc rằng không kịp...

Chiều hôm đó quan tài anh Khóa được bạn hữu chuyển ra sườn đồi an táng. Vừa hạ huyệt xong thì tiếng người ngựa ở đâu huyện náo tứ phía. Quân lính triều đình vây khắp cả chung quanh. Mọi người xôn xao không hiểu chuyện gì. Gươm đã tuốt trần, giáo mác dựng đứng, ai nấy lo âu. Cụ Tú vội ra, một viên tưởng phóng ngựa tới.

– Bản chức được lệnh truy bắt một người…

– Thưa cho biết tên.

– Một người vừa ở xa tới.

– Tên gì?

– Một dư đảng Cao Bá Quát.

Cụ Tú run rẫy suýt ngã. Đám bạn hữu của Khóa Nhâm đưa mắt nhìn nhau sửng sốt. Im lặng bao quanh nặng nề nỗi hoang mang lo lắng.

– Tôi là người ông tìm kiếm.

Từ giữa đám đông tiếng nói cất lên như một mũi tên nhọn bay cao, đám người rẽ ra. Cụ Tú nhìn thấy chính đó là người khách ở Cao Bằng. Người đó tiến lên nét mặt cương cường dũng mãnh, dáng đi khỏe mạnh. Mọi người trố mắt ngạc nhiên. Viên tướng xuống ngựa đứng trước mặt người đó. Nhanh như chớp người kia đã đâm vào bụng lưỡi đoản kiếm và ngã sấp xuống, mũi kiếm xuyên lên lưng, máu vọt cao như những lưỡi kiếm lửa..."

Người sau có bài hát rằng: nên ra tay kiếm tay cờ, không nên thì cũng chẳng nhờ cậy ai...

(1963)