← Quay lại trang sách

TỪ HẢI VÀ CUỘC PHIÊU LƯU CỦA ĐỜI CHÀNG

Tháng tám, mùa thu năm Dậu, binh lửa khắp bốn phương, Hà đô rực cháy, ta lánh mình về ở Thạch quận, nơi ấy núi đồi trùng điệp, khí lạnh căm căm. Nhân khi thong thả có kẻ cho mượn một cuốn văn vần rách nát đọc giải khuây. Câu chuyện đời nàng họ Vương đã muôn phần éo le oan trái, thời nhiễu nhương, tao loạn, thật đau lòng rơi lụy; lại thêm lời thơ như ngọc chuốt, ta tuổi còn thơ cầm nước mắt không đang. Đến như Từ Hải đường đường một đấng mà cũng sa cơ làm ta xót xa tấc dạ.

Ta hỏi: Áng văn của ai mà trác tuyệt. Kẻ lớn bảo: Đồ trẻ ranh miệng còn hội sữa biết gì mà nói, tuổi mày còn chưa được phép đọc nữa kể gì đàm luận, khúc Đoạn Trường Tân Thanh này là của Tố Như tiên sinh viết ra đã hơn một trăm năm. Từ buổi ấy ta lấy sách đó nằm lòng, đọc đi đọc lại đến nỗi nhập tâm. Bao nhiêu dâu bể, sống lên trong buổi nhiễu nhương bứt rứt, đứng ngồi không yên. cảnh tang thương diễn ra như giấc mộng, tuồng đời lắm cảnh nhố nhăng khiến ta mỗi ngày một thêm yêu tay giang hồ Từ Hải, lòng những không yên tự hỏi: đời người anh hùng quả vậy chẳng?

Một đêm kia, ta đang đọc sách bên đèn trên lầu vọng nguyệt bỗng thấy một người oai phong lừng lững vén màn, đẩy cửa, đi vào, ngồi xuống tràng kỷ, đối diện với ta, xưng tên là Từ Hải. Vừa mừng vừa lo không biết minh tỉnh hay mê. Ta hỏi: Ông còn sống sao? Từ đáp: Ta vẫn còn sống, cảm vì thanh khí nên mạo muội đến hầu chuyện, uống với nhau chén rượu nhạt, hát với nhau một vài câu, chắc tiên sinh cũng chả chấp gì mà không cùng nhau vui ít phút, nhất nữa ta cũng muốn kể lại cùng tiên sinh một vài sự thực của đời kẻ giang hồ này...

Ôi câu chuyện ngày nào còn thảng thốt như một giấc chiêm bao thực giả, giả thực, nhiều lúc cũng làm ta choáng váng chẳng biết ra sao... Khi tỉnh dậy ta vẫn còn nghe như tiếng ai trầm buồn, bóng ai thấp thoáng, tiếng cười giọng nói như còn phảng phất.

Từ đó đến nay câu chuyện vẫn còn in trong dạ, đã nhiều phen cầm bút viết ra, nhưng giấy bút vẫn chừng như nguội lạnh, bao đêm trường thao thức nhiều khi muốn đoạn tuyệt với bút nghiên. Giấy mực còn có nghĩa gì nữa? Sách đèn còn có nghĩa gì nữa? Chữ nghĩa thánh hiền mà làm chi?

Đêm qua ta lại thấy Từ Hải về đứng bên thư án hỏi: Tiên sinh còn nhớ kẻ hèn này không? Ta nói: Còn nhớ, quên sao được... Từ Hải trừng mắt nhìn ta: Sao tiên sinh không vứt bỏ bút, đốt bỏ sách mà cầm lấy một con chủy thủ? Ta buồn rầu: Con chủy thủ từ chàng Kinh Kha đến nay đã thất truyền, còn chăng là những con chủy thủ giả trong giới lục lâm. Từ Hải quát lên: Tiên sinh không còn một mũi nhọn nào khác sao? Ta lặng đi, đến khi nhìn lên thì đã không còn thấy Từ đâu nữa.

Đêm nay nằm nghe tiếng súng vẳng đưa vào kinh thành, trời đất u ám, ta nghe như tiếng quát của Từ Hải còn vang dậy. Ta thấy cần phải trả cho xong một món nợ nên ngồi vào thư án, thắp ngọn bạch lạp mà viết lại câu chuyện đời của Từ Hải này, một là để gửi cho vong linh Từ Hải, sau là để tạ ơn với Nguyễn Du tiên sinh đã cho kẻ sống 200 năm sau được gặp một tay giang hồ cự phách.

Từ Hải rời bến lên tìm tửu điếm. Trời nhá nhem tối, qua mấy con đường trong phủ vẫn không thấy một tửu điếm nào, mãi cho tới Cửa Đông thành mới thấy một quán rượu lớn, ngoài cửa có treo đèn lồng liền bước vào gọi rượu, chủ quán ngó vào mặt Từ Hải rồi từ chối:

– Ở đây không bán rượu, anh sang Cửa Bắc mà uống.

– Sao cửa tiệm bán rượu mà lại không bán rượu là thế nào. Nhà ngươi sợ ta không có tiền sao?

Vừa khi đó có hai người khách bước vào quán kêu rượu, chủ quán bỏ Tử Hải chạy vào kêu kẻ hầu mang rượu ra. Trông hai người kia có vẻ sang trọng hơn. Từ Hải đập bàn hét lớn:

– Tụi bay khinh ta không đáng uống rượu sao?

– Có lẽ anh ở xa mới tới nên không biết rằng nơi đây chỉ bán rượu cho các quan mà thôi. Anh sang cửa Bắc mà uống với tụi phu phen và lái buôn ở bên đó thì hơn.

Từ Hái nghe nói máu giận tràn hông nhào tới thoi tên chủ quán một cái nhào vô tường té xỉu. Hai người khách ở bàn trong đứng dậy. Người cao lớn tiến ra chưa kịp nói nửa lời đã bị Từ Hải đá cho ngã chúi vào gậm bàn. Người khách còn lại ra vẻ văn nhân đứng ở phía bên kia bàn nói ra:

– Nhà ngươi sao đám phạm vào quan Thái úy, muốn chết hay sao?

– Thái gì, có thái thịt, mi muốn ta thái nó ra từng miếng mà nhậu nhẹt chơi không. Mi muốn sống hãy ngồi xuống, ngồi xuống, ta ra lệnh.

Người khách run sợ ngồi im. Từ Hải, tới vực tên kia dậy rồi đặt ngồi trên ghế, cùng tên chủ quán.

– Quán này dành cho các quan mà, toàn quan lớn cả, thằng thuyền chài này xin làm một tên lính hầu rượu cho phải phép. Tửu bảo đâu hãy mang rượu ra đây. Lũ hầu run sợ mang rượu ra, Từ Hải cầm cả vò đổ lên đầu tên Thái ủy và chủ quán.

– Uống đi, mời các quan... ngàn năm một thuở kẻ hèn mọn du côn này mới có cơ hội để hầu rượu quý quan. À, quan lớn, mời quan lớn... Người khách ngồi im như đã chết. Từ Hải đẩy một vò rượu qua nhưng khách vẫn ngồi im.

– Sao quan lớn, hay ngài không muốn dùng thử rượu này. Tửu bảo, hãy cho ta thứ rượu tăm Sơn Đông ra đây, hãy hâm thật nóng.

Tửu bảo mang rượu ra. Từ Hải mở vò ngửi ngửi rồi nhấc lên tu một hơi. Một hơi rượu làm Từ Hải tỉnh táo, Từ đưa tay áo quệt ngang miệng nhìn người khách vẫn ngồi im.

– Quan lớn, nhậu đi quan lớn, mấy khi tên cu ly này được hầu rượu quan lớn! Tửu bảo cho ta nửa con heo béo ra đây.

– Dạ thưa không có heo.

– Có thịt người không?

– Dạ... dạ...

Từ Hải hít mũi đánh hơi rồi xô ghế đứng lên đi thẳng xuống nhà bếp. Từ thấy có mấy đảnh thịt treo liền vớ lấy.

– Cái gì đây tụi bay?

– Dạ thịt cầy.

– Thịt cầy thì tao không ăn được sao. Hay thịt cầy cũng chỉ dành cho các quan lớn quan nhỏ nhà mày.

Từ Hải mang mấy đảnh thịt lên vừa ngoạm vừa uống rượu. Tên Thái úy và chủ quán đã ngúc ngoắc cái đầu. Người khách vẫn ngồi im.

– A ha, quan lớn chê rượu Sơn Đông à. Vậy thì có một thứ rượu chính hiệu Việt Đông đây, kẻ hèn xin cam đoan là rượu tốt để dâng lên ngài dùng thử.

Vừa nói Từ Hải vừa đứng lên hai chiếc ghế giang chân tụt quần ra và lấy chiếc bát cầm ở tay mà đái vào. Xong xuôi Từ Hải bước vào giữ đầu người khách mà đổ vào miệng. Hắn kêu ằng ặc như một con heo bị chọc tiết. Kẻ trong quán ngó ra xanh mặt. Ăn uống no say, Từ Hải đứng dậy kêu tửu bảo:

– Lúc các quan lớn trở dậy chúng bay nói lại rằng: Từ Hải, một tên thuyền chài du côn ở bến Việt Đông rất mong được hội ngộ quý quan…

Từ Hải chếnh choáng hơi men trở về bến miệng lảm nhãm văng tục. Lũ tửu bảo kinh hồn đứng ngó nhau, bởi cái tên Từ Hải làm họ rụng rời.

Ở đất Việt đồng này cái tên Từ Hải ai là chẳng nghe đến một hai lần bởi những hành tung của Từ Hải. Từ là một con người thuyền chài dưới hến, có võ nghệ, người đen đủi, xấu xi, nhưng xử sự là một tay anh chị hào phóng. Hồi chưa có Từ Hải, ở phủ Việt đông bọn du thủ du thực lưu manh phá phách thật khổ sở, chúng làm đủ mọi việc nhơ bẩn, một tay Từ Hải đã làm cho bọn này khiếp sợ, kẻ thì bỏ đi tìm đất khác kiếm ăn, ke cải tà quy chính làm đàn em Từ Hải, cho nên người ta gọi Từ Hải là « trùm du côn » Từ Hải thấy chuyện gì chướng tai gai mắt là chẳng bỏ qua, giúp kẻ yếu trừ kẻ mạnh, lấy của kẻ giàu bất chính cho kẻ nghèo chẳng bao giờ thu cho mình một chút lợi nhỏ, quanh năm đóng một chiếc khố rách. Bởi thế ai cũng kính nể, mến chuộng, Từ chỉ vui với đàn em và nghề chài lưới, nể ai mời mọc trả ơn chàng thì nhận uống một bữa rượu suông cho say mà lấy làm thích. Uống rượu ngà ngà Từ Hải huyên thuyên hát và gảy đàn như một tài tử nhàn du hạnh phúc. Viên quan ở đó có ý mến cho gọi đến sung vào lính. Từ Hải làm ngơ và từ chối: « Thưa quan lớn con chỉ là con nhà thuyền chài ». Nhưng cũng vì những hành tung của Từ Hải mà bọn quyền thế thù ghét, đã nhiều phen định hãm hại.

Chẳng bao lâu viên quan cai trị cũ bị đổi. Viên quan mới hống hách, thêm vào bọn sai nha quấy phá. Những chuyện đó làm Từ Hải nhiều phen tím mật bầm gan. Rồi bỗng đâu có một tin sét đánh tới tai dân chài: viên quan ra lịnh trưng dụng tất cả thuyền bè để chở đá về Bắc kinh xây dựng hoàng cung. Đó cũng là vì viên quan muốn lập công với triều đình.

Lệnh vừa ban ra dân chài lo sợ cho đời sống. Họ chỉ còn biết nhìn nhau khóc. Lời ta thán kêu ca tưởng thấu tới trời. Từ Hải liền tụ tập mọi người kéo tới cửa phủ để kêu xin. Nhưng cửa phủ đóng kín, lính canh nghiêm ngặt không cho vào. Chẳng những thế lính canh còn được lệnh đánh đuổi lũ dân đen. Những ngọn roi đã quất xuống. Từ Hải cáu giận quát lên:

– Sao lại thế được, không có dân chúng bay làm quan với ai? Chúng bay muốn chết không có đất chôn phỏng?

Từ Hải liền trở về. Đêm hôm đó liền tụ họp mọi người lại tìm cách đối phó. Từ Hải bàn cùng mọi người xem phải làm thế nào. Nhưng rồi chẳng biết phải làm sao.

– Tại sao chúng ta lại phải chịu mãi sự bất công? Chúng ta đâu phải súc vật để chúng nó làm sao nên vậy. Bà con cô bác nghĩ xem. Tôi chỉ muốn bằm cho chúng nó mấy nhát rồi ra sao thì ra.

– Nhưng sức chúng ta yếu.

– Không, chúng ta không yếu nếu chúng ta hợp sức với nhau. Tại sao chúng ta lại không chống cự?

– Anh định rủ bà con làm loạn hay sao?

– Làm loạn là thế nào? Ai không muốn sống yên ổn làm ăn? Nhưng bây giờ người ta có cho mình sống như thế không? Sưu cao thuế nặng, nay mai việc khác, ăn không ngon, ngủ không yên. Kẻ trên không đoái đến dân chỉ lo thụ hưởng, chất chứa bạc vàng, xây dinh thự, đàn ca hát xướng. Kẻ dưới cậy quyền hà hiếp dân chúng. Miếng ngon của lạ bị cướp, vải lụa bị thu không còn mảnh khố che thân. Gái đẹp bị mang đi rồi thải ra cho làm đĩ... Bao nhiêu 'việc đó ai không thấy, có mắt có tai để đâu mà không biết. Vậy thì ai làm loạn? Thời như thế này đã chẳng phải là loạn hay sao? Chúng ta không muốn loạn, không làm loạn mà chỉ muốn hành động để được sống yên... Nay chúng ta chỉ còn mấy mảnh thuyền nát, gạo không còn một hột, tiền không có một trinh, sống chỉ nhờ vào cái thuyền, nay lại trưng dụng để đi chở gạch xây nhà cho quan ở, như vậy thì khác nào chúng giết dân chài. Chúng ta bị chặt cụt tay chân... Lẽ thiệt hơn như thế, tôi nói để bà con cô bác bay. Chẳng lẽ lại ngồi nhìn nhau mà chờ chết hay sao?

– Nhưng nếu chúng ta không chống nổi triều đình?

– Sao lại không. Chưa hành động đã sợ thất bại là làm sao? Chẳng qua ở đời này ai cũng một lần chết. Như vậy chọn cách chết nào tốt đẹp cho cuộc sống thì thôi chớ. Được thì sống, thua thì chết là lẽ thường tình… Ai theo tôi?

Câu hỏi cuối cùng đầy vẻ quyết liệt làm cho mọi người yên lặng. Cả một vùng bến nước đắm vào nỗi hoang mang lo lắng. Những chiếc thuyền đứng im, người ta chỉ nghe thấy những tàn đuốc rơi xuống mặt nước sèo sèo. Từ Hải đưa mắt nhìn vào hơn hai trăm chiếc ghe chài châu đầu vào nhau thành một vòng tròn. Trong nền đêm ánh đuốc soi chập chờn vào những khuôn mặt đen bóng khắc khổ. Những mái tóc bạc chen vào những mái tóc xanh. Những con mắt tư lự, đôi môi mím lại uất ức. Họ đã đồng thanh theo Từ Hải.

Sau khi các thuyền bè đã tản ra. Từ Hải tụ anh em lại bàn tính mọi việc. Sáng hôm sau Từ Hải loan báo cho dân chải biết hết trưa mọi người sẽ rời bỏ bến kéo đi, đám thanh niên lựa lấy những chiếc thuyền tốt giữ lại còn bao nhiêu dồn lại một chỗ rồi phóng hỏa đốt hết, lửa cháy rực trời, cả bến Việt đông, dân phủ náo loạn kéo xem.

Quan phủ nghe tin mang lính ra thì chỉ nhìn thấy những mảnh ván trôi lều bều trên mặt nước, dưới bến không còn một chiếc thuyền liền bắt người tra khảo nhưng chẳng ai cung khai điều gì. Tức giận viên phủ quan sai chém đầu mười kẻ bêu xác trên cửa thành và tuyên cáo lùng bắt đám dân chài, nhưng họ đều đã đi mất tăm.

Từ Hải dẫn đàn thuyền ẩn vào khu rừng lau ở giáp phủ Việt đông với Uyển thành. Sau biến cố ở Việt đông, viên quan vội vàng viết biểu về triều. Minh Thế Tổ lúc đó đang tin dùng lũ hoạn quan. Bao nhiêu quyền bính ở cả trong tay bọn dua nịnh nên kỷ cương nát bét. Giặc giã nổi lên tứ tung không làm sao đánh dẹp được. Dù vậy việc ở Việt đông lại được chú ý vì công việc xây dựng một hành cung trở thành quan trọng. Nhưng khi quân đội tới nơi cũng chẳng có ai mà đánh ngoài việc cướp bóc, hãm hiếp, đốt nhà...

Dân chúng thêm phần cực khổ, thanh niên phẫn uất bỏ đi theo Từ Hải thêm đông. Ngày thao luyện võ nghệ, đêm đêm giong thuyền đón chặn những thuyền buôn lấy lương thực, đón bắt những lính tuần, cướp phá những kẻ quyền thế giàu có, cùng những tên quan hà hiếp dân lành. Tiếng tăm Từ Hải mỗi ngày một vang động khắp cả vùng Sơn đông. Nghe đến tên Từ Hải bọn quan lại đều run sợ. Chẳng bao lâu Từ Hải đã chiếm được một vùng ven biển làm bản doanh, thanh thế mỗi lúc một lừng lẫy. Những kẻ bất mãn với triều đình, những kẻ bị hàm oan, những kẻ có máu thảo khấu cùng tìm về tụ tập dưới trướng Từ Hải, trong số có bọn thảo khấu Vương Trực ở Giang nam, bọn Tứ Quái ở Thiểm tây, bọn Từ Văn Trường ở Sơn Âm và nhiều thanh niên có máu giang hồ hảo hơn ưa chuyện phiêu lưu cứu khốn phò nguy khác.

Với lòng ngay thẳng thái độ khảng khái, kiên cường Từ Hải đã nêu cao ngọn cờ đại nghĩa trước đám dân đã chán ghét một triều đình bất lực, thối nát, nên mỗi lúc ngả theo một thêm đông. Lòng người như thác lũ cuộn lên tưởng có thể cuốn đi tất cả những gì đang ngang chặn, ngăn cản, đè nén trên cuộc sống, nhưng vì dòng nước không chảy về một phía mà đỗ về nhiều đám giặc nhỏ, chia thiên hạ ra từng khu vực mỗi kẻ hùng cứ một phương, xưng hùng xưng bá, tình cảnh nhiễu nhương thật không thể nào tả xiết.

Nổi lên ở Việt đông, dần dần Từ Hải xua quân xuống miền Nam tung hoành như giữa chốn không người; chẳng bao lâu chiếm cả vùng duyên hải. Đại quân kéo xuống chiếm Lâm thanh, Châu thường và đóng tại đó, thế quân như thế chẻ tre. Các thành Vô tích, Hàng châu, Châu thai bị đe dọa, chỉ mới nghe tiếng Từ Hải nhiều tên quan đã bỏ thành trốn hoặc sửa soạn đầu hàng.

Dự định đánh một trận lớn để gây thanh thế. Từ Hải quyết định hạ trại, đóng quân, thao dượt binh mã, chiêu nạp thêm quân lính rồi một mình cùng mấy kẻ hầu cận cải dạng xuống phương Nam xem tình hình, trong đám có Từ Nguyệt Minh người ở Sơn âm, hiệu là Văn Trường trước vốn là thượng khách của Hồ Tôn Hiến.

Từ Văn Trường là kẻ có học, văn hay chữ tốt, không sách gì là không đọc, tiếng tăm lừng lẫy trong thiên hạ, nhưng thiếu bè cánh, không được trọng dụng nên sinh ra bất mãn, du sơn du thủy. Cái học không đặt đúng chỗ khiến cho Văn Trường thành kẻ trụy lạc, chỉ lấy thú vui rượu chè đĩ điếm làm hứng cho văn chương. Khi trước Văn Trường đã từng đến mua vui ở Hàng châu, thủ phủ có hàng mấy ngàn nhà điếm, chính ở đó Văn Trường đã chứng kiến chuyện viên Thái thú Hàng châu là Liễu Tuyên Giáo vì không ưa những kẻ xuất gia thờ Phật nên rắp tâm dùng bọn gái điếm cám dỗ khiến nhiều nhà tu phá giới.

Đến lúc sau Thái thú Liễu Tôn Giáo bị đổi đi, Trương Nguyên Biện đến thay thế, chính người này đã tiến cử Văn Trường với Hồ Tôn Hiến. Thái thú Trương Nguyên Biện ghét bọn gái điếm nên tìm cách đuổi đi hoặc giết, những gái điếm trong viện Hồng Liên trước kia theo Liễu Tôn Giáo hại nhà chùa đều bị Trương Nguyên Biện giết hết, con số lên đến hàng mấy ngàn người. Vì có chút cảm tình với nàng Vương Thúy Kiều nên Văn Trường đã xin cho nàng thoát nạn ấy.

Do chuyện cũ, Văn Trường đã đề nghị với Từ Hải ghé vào Hàng châu để nhân cơ hội gặp lại người xưa và ăn chơi thỏa thích ít ngày sau những gian nan khổ sở thiếu rượu, thiếu đàn bà, ca hát. Trên chiếc thuyền xuôi gió Văn Trường nói với Từ Hải:

– Tôi nghĩ rằng đã đến lúc tướng quân phải xưng đế hiệu để lấy danh nghĩa cho dân chúng theo. Chứ chẳng lẽ mãi mãi chúng ta chỉ là một phường cướp biển.

– Ông muốn được làm quan lắm sao? Ngó bộ mình làm như thế này không có chính nghĩa sao? Ta thấy ta chẳng xứng để mà xưng đế, làm một tên thuyền chài mà sánh với những Lưu Bị, Lưu Bang e không chính danh? Và có lẽ ta chỉ hợp được là một tên du côn rong chơi? Thực tình ta đâu muốn làm chuyện này, làm một đế vương có gì là sướng nhỉ, không may lúc sống có thể bị chặt đầu, khi chết bị quật mồ. Làm một người dân thường, ở vào buổi thái bình yên trị ta cho là hạnh phúc hơn hết. Không đành được, sinh vào thời rối loạn, thân chẳng yên mà ta phải hành động. Ta ước sao bây giờ có kẻ tài đức thu thiên hạ về một mối, mang lại đời sống yên ấm thái bình, ta chẳng tiếc gì mà không mang thân làm một kẻ xách dép, cầm roi theo hầu. Ông có thấy rằng lúc này, rời bỏ được chốn ba quân chúng ta thảnh thơi sung sướng biết là bao nhiêu. Bây giờ ông hãy ngâm vịnh đi, quên những việc chúng ta đang làm. Suốt đời, khi ăn, khi ngủ, lúc chơi bời mà cứ phải đóng cái vai tướng quân quả thật ta chẳng ham. Được làm ông trời mà phải bỏ rượu, bỏ hát, đàn địch, xa bạn bè, bỏ đàn bà thì ta cũng chẳng làm. Bản khiên cung kiếm, nhất trạo giang sơn, ta hiểu vì sao Hoàng Sào chỉ là giặc Hoàng Sào mà không là Hoàng đế Hoàng Sào.

– Lưu Bang chỉ là một tên xã trưởng tầm thường, Lưu Bị chỉ là một tên dệt chiếu, tôi nghĩ làm nên nghiệp đế đâu có khó gì, trong lúc tướng quân có binh hùng tướng mạnh, lại ở lúc xã hội rối ren triều đình mất cả chính nghĩa...

– Thôi ông đừng khuyên ta chuyện đó. Bây giờ chúng ta ở đây, chung đụng với nhau còn thương yêu dân chúng còn quý mến bạn bè. Ta sợ khi làm vua rồi ta chẳng còn được cùng ông xuôi thuyền mà đi tìm gái như thế này. Địa vị, quyền bính, vinh hoa sẽ làm cho chúng ta quên hết. Ta sẽ thành một hôn quân, ông sẽ thành nịnh thần tham nhũng, và thật mệt cho dân chúng lại phải nổi lên mà lật đổ chúng ta... Ông đọc sách thánh hiền nhiều hơn ta sao chẳng biết chuyện đó, những chuyện liên tiếp xảy ra trong lịch sử.

Văn Trường nghe Từ Hải nói trong bụng không vui, vì ý Văn Trường lúc theo về với Từ đâu chỉ muốn làm một tên giặc biển, mộng của ông đặt vào lúc lập được triều đình làm một quan đại phu.

Từ Hải uống hết vò rượu này sang vò rượu khác, chàng lấy ra cây đàn vừa gảy vừa cất tiếng hát, trong giây lát chàng đã biến từ một tên tướng vũ dũng thành một nghệ sĩ say sưa trong cõi mộng.

Lúc sau Từ hỏi Văn Trường:

– Ông ăn chơi lọc lõi đã nhiều, vậy ở đất Hàng châu này có chốn nào đáng là đệ nhất lầu xanh.

– Xưa kia viện Hồng Liên là đáng kể, nơi đó có một nàng ca kỹ tên Vương Thúy Kiều đáng được tôn là nữ hoàng. Tôi đã biết hàng vạn gái chơi ở Hàng châu này nhưng chưa thấy ai có thể sánh được với nàng. Khách giang hồ, tài tử sành điệu đã nhiều kẻ chết. Nay không hiểu nàng có còn ở đó chăng.

– Trong đám làng chơi lại có kẻ như thế được sao.

– Tôi nghe kể lại, nàng vốn là con một nhà gia giáo, khốn nỗi gặp lúc gia biến, cha bị hàm oan khiến nàng phải bán mình chuộc tội, và số mệnh đưa nàng vào chốn thanh lâu. Nàng có hương sắc mặn mà, nghề chơi lão luyện, cầm kỳ thi họa đều trác tuyệt, quả tôi chưa gặp ai như thế.

– Ông dám chắc như vậy?

– Hẳn ý tưởng quân vẫn ngờ về những gái làng chơi tầm thường, vì hư thân, mất nết đàng điếm mà dấn thân vào, thường tìm lý do bào chữa, tự vẽ ra một quá khứ để lừa mình lừa người. Quả nàng họ Vương không thuộc hạng đó, chẳng phải ai nàng cũng tiếp, mà được tiếp ít ai đã được ân cần. Chính tôi đây vẫn chưa được gần nàng. Tôi chỉ mong sao trong đời được một lần uống rượu trên người nàng.

– Nghe ông nói ta thấy ham quá. Tới nơi mong cho chúng ta có thể gặp được.

Sau quãng đường dài. Từ Hải cho mấy tên bộ hạ phân tán đi thám thính còn chàng và Văn Trường thì đi kiếm nàng họ Vương. Là một dân thuyền chài, rồi lại bôn ba mấy năm liền chưa biết những thú ăn chơi của bọn giàu sang quyền thế nên Từ Hải không khỏi ngạc nhiên, hàng hoàng giữa thủ phủ Hàng Châu liên tiếp nhau những cao lâu, tửu điểm trà đình, những nhà chứa xây cất nguy nga như cung điện kể cả hàng mấy ngàn, giai nhân tài tử, quần áo nhung lụa lên xe xuống ngựa nhộn nhịp không thể đếm xiết. Hàng Châu trong những năm cuối đời Minh là một kinh đô văn hóa và trụy lạc. Bọn văn nhân tài tử bốn bề tụ về ngâm vịnh, trên vách tường, bàn ăn, ghế ngồi, hiên nhà chốn lầu xanh chi chít những bài ngâm vịnh, mang đủ mọi tên tuổi ca ngợi những đóa hoa biết nói, hoặc suy tụng lạc thú.

Những kẻ nhiều tiền những viên chức cao cấp lâu lâu lại giả dạng tới chẳng thiếu mặt một ai. Họ bòn mót của dân bằng hà hiếp, hối lộ, thụt két đến kẻ gian thương cho vay cắt cổ... cuối cùng lại mang tiền đó đến Hàng Châu mà thiêu trong cuộc vui thâu đêm suốt sáng. Vì thế con gái nhà lành trong thiên hạ, hoa mắt vì ăn chơi kéo nhau đến Hàng Châu làm đĩ mỗi lúc một đông, nghề nghiệp nhàn hạ lại được ăn ngon mặc đẹp, có kẻ phúc may bỗng một sáng một chiều trở thành mệnh phụ. Làm đĩ quả là nghề đi buôn không mất vốn mà dễ được giàu to bởi hoàn cảnh nhiễu nhương suy đồi tạo thành.

Tìm kiếm, hỏi thăm, mãi sau Văn Trường và Từ Hải mới thấy được nơi ở của Kiều. Nàng ở một căn lầu nhỏ nhưng tráng lệ nguy nga trong một khu rộng lớn với nhiều nhà khác nhưng thuộc hạng rẻ tiền. Nhận được mặt ân nhân, Kiều vô cùng mừng rỡ rước lên lầu. Từ Hải lại trút ra một số bạc lớn nên mụ chủ chứa chỉ biết cuống cuồng ra lệnh sửa soạn tiệc rượu để cung phụng vì gặp một món khách sộp.

Vừa gặp mặt Kiều, Từ Hải đã say đắm. Thấy Từ đã hợp ý, Văn Trường liền rút lui xuống nhà đi kiếm gái khác để cho Từ Hải và Kiều mặc tình mây mưa. Lâu ngày không gần đàn bà nên Từ háo hức như trâu bò được ngày phá đỗ, còn nàng Kiều cũng thấy sung sướng vì gặp một người con trai không phải nhà nghề giở những trò kinh tởm hành hạ nàng. Sau những phút say mê Từ bắt đầu tâm sự với Kiều, trong thâm tâm chàng nảy ra niềm trắc ẩn, thương yêu. Sao một người con gái như nàng mà phải đày đọa như vậy cùng với mấy ngàn con gái khác ở đất Hàng Châu này. Trong số đó chắc cũng có kẻ hư hỏng còn thì ai không muốn có tấm chồng. một bầy con và một đời sống lương thiện. Cũng như chàng, cả những kẻ theo chàng, ai không muốn được sống yên ấm trong một mái nhà. Hoàn cảnh khắc nghiệt và một nền cai trị hư hỏng như bầu khí độc đã làm tiêu ma bao nhiêu con người. Từ Hải nói cho Kiều nghe đời sống của mình. Chàng kết luận:

– Thiên hạ bảo anh là du côn du kề, và bây giờ là một tên giặc biển. Trong phòng này, trên giường này, trước mặt em, chắc đã có những tên đại phu, những thằng đại tướng, những phường khoa bảng, những kẻ đầy chức tước, quân công, bằng cấp, quỳ gối, khom lưng năn nỉ em. Như vậy em có buồn vì anh chỉ là một tên du côn, giặc biển không?

– Em cũng muốn làm du côn, làm giặc như anh vậy. Em khoái du côn lắm. Du côn là chơi gậy, chơi gậy thì tốt, không nham hiểm, lươn lẹo, độc ác. Chẳng qua em giờ là một con đĩ, đĩ với du côn như nhau. Phải không anh?

– A, hay lắm, không ngờ anh lại gặp được tri âm. Ừ nhỉ, tại sao du côn, đĩ lại không phải là những kẻ đáng giá hơn hết ở vào thời buổi này. Tại sao mình lại không thể lập một « triều đình du côn », anh là hoàng đế, em là hoàng hậu du côn?

– Anh có say không đó?

– Không, anh mà say thì anh đã mất đầu lâu rồi. Đi làm loạn thì không được say, vì anh say thì bộ hạ nó còn trông vào ai.

– Anh là tướng lớn vậy sao?

– Có đứa nó còn xui anh xưng đế hiệu nữa.

– Trời ơi, như vậy thì em có muốn làm vợ anh cũng chẳng được, một hoàng đế, một vị tướng quân mà lấy vợ là gái điếm thì còn thể thống gì nữa.

Từ Hải của Trịnh Cung

Trời ơi, em tưởng chứ, bọn nó điếm đến mấy lần, điếm mà không nhận là điếm. Tiên nhân chúng nó, chúng nó điếm từ trong triều đình điếm ra. Vua đĩ, quan đĩ, tướng đĩ cho nên thời mới loạn, dân mới khổ. Em mới thế này, anh mới thế này chứ. Như vậy làm điếm như em, biết phân biệt người, biết kẻ tri âm, cũng như anh làm du côn, làm giặc mà còn bằng vạn bọn nó. Chết chết, anh say thật rồi đó. Anh không say, nhưng lòng anh như lửa đốt. Đâu anh muốn thế này; đâu em muốn thế này. Anh chỉ muốn có một chiếc thuyền, một cây đàn… Những kẻ bỏ nhà theo anh đâu muốn làm giặc. Quả anh bây giờ chỉ muốn đốt bỏ căn nhà này, hỏa thiêu cả thành Hàng Châu mà giải thoát cho bao kẻ phải chịu kiếp khốn khổ, đem thân hầu hạ bọn người giàu có quyền thế bất nhân trong thiên hạ. Chắc em cũng muốn như thế...

Giọng Từ Hải thét lên có lúc như tiếng thép chạm nhau, có lúc quằn quại như cơn lốc, có lúc ồ ạt như sóng dữ rồi trầm xuống xúc cảm thân yêu. Bao nhiêu năm lăn lóc trong đời nay Kiều mới gặp được một kẻ như thế. Nàng xúc động ứa nước mắt. Nàng như con chim bị nhốt chỉ muốn tháo cũi số lồng mà bay lên trời xanh.

Chung sống với nhau. Từ Hải và Kiều mỗi lúc một thêm quyến luyến như chẳng muốn rời. Từ Hải bỏ tiền chuộc Kiều khỏi chốn lầu xanh và cùng nàng trở về chốn ba quân phong làm phu nhân, mở tiệc ăn mừng ba ngày ba đêm.

Vui chơi ít ngày thỏa thích rồi Tử Hải chỉnh đốn quân mã xuống hạ thành Châu Thường, Lâm Thành dễ như trở bàn tay. Quân sĩ triều đình phần bỏ chạy như vịt, phần quy hang. Từ liền kéo quân xuống vậy Hàng Châu: Từ Văn Trường vốn nhớ ơn cũ của Thái thú Nguyên Biện nên xin với Từ vào thành thuyết phục Nguyên Biện ra hàng. Từ Hải còn ngần ngừ, Văn Trường liền nói:

– Tôi theo tướng quân đã lâu, ân huệ được hưởng đã nhiều, vậy nay xin cho tới trước là được lập một chút công mọn, sau là tôi trả ơn cho một người bạn cũ đã giúp đỡ thuở hàn vi. Vả tướng quân cũng không muốn việc đâm chém, trong lúc lửa đạn biết bao kẻ vô tội phải vong thân.

Từ nghe phải liền cho Văn Trường vào thành thuyết Trương Nguyên Biện. Được tin báo có Văn Trường xin vào thành Nguyên Biện ra lệnh cho lính mở cửa mời vào rồi bước xuống thềm. Thấy Văn Trường, Nguyên Biện vội vái chào rồi nói:

– Không ngờ lại được hội ngộ cố nhân ở hoàn cảnh này, tôi nghe nói tiên sinh hiện ở hàng ngũ của loạn quân nhưng không tin, chắc tiên sinh đến để giúp tôi cùng giữ thành và dẹp giặc, như vậy thì làm gì chúng ta chẳng thắng.

Văn Trường bị chặn họng trước không biết nói sao, rốt rồi phải làm nước bài bây:

– Quả đúng như người ta đã nói với tiên sinh, hiện tôi ở dưới trướng Từ Hải. Nay thấy thành bị vây khốn nên xin vào đây gặp tiên sinh mang điều lợi hại mà bàn luận.

– Chết nỗi, sao tiên sinh lại có thể làm thế được. Như vậy chắc là tiên sinh vào đây thuyết phục tôi hàng giặc mưu phản lại triều đình mà tôi đã đội ơn mưa móc?

– Tôi vẫn biết tiên sinh có mắt thấy được nguời nên xưa kia đã tiến cử tôi với Hồ Tôn Hiến. Tôi tưởng đã có chỗ dung thân mang chút tài mọn phò vua giúp nước. Nhưng triều đình nay không còn xứng chỗ triều đình nữa. Sự hưng vong, lẽ biến dịch là điều phải đến, phải có không ai cưỡng được. Từ Hải dấy binh cứu dân, dựa vào lòng người nên đi đến đâu thâu được nhân tâm đến đó. Xưa kia Hán Cao Tổ chém rắn đấy nghiệp chỉ là tên xã trưởng, diệt được nhà Tần chẳng phải cũng là giặc sao! Tôi thiết nghĩ giặc hay không giặc chẳng thể đứng ở phía một triều đình mà định được. Tôi vào dây trước là tình bạn cũ, sau là lẽ thiệt hơn, rốt là sinh mạng của quân sĩ và lê dân mong tiên sinh nghĩ lại để chúng ta cùng giúp Từ Hải mà lập nên nghiệp lớn, mang thái bình lại cho thiên hạ.

– Ý tôi đã quyết, sinh ra tôi chỉ biết thờ một chúa. Kẻ sĩ học chữ thánh hiền trước phải lấy đạo trung làm trọng, sao lại có thể nay theo kẻ này, mai theo kẻ khác mong vinh thân phì gia, như vậy chẳng phải là phường cầm thú sao.

– Tôi đọc sách thấy Hoài Âm Hầu bỏ Sở Bá Vương mà theo Hán. Công tử Củ chết, Thiệu Hốt chết theo mà Quản Di Ngô chịu ở tù về phò Công tử Tiểu Bạch... Như vậy có phải là bất trung đâu. Người quân tử không vì tiết nhỏ mà bỏ việc lớn. Nay triều đình thối nát, quan lại hư hèn, kỷ cương không còn nữa, như vậy mà tiên sinh vẫn khu khu cố chấp với chữ trung hạn hẹp ngồi yên mà nhìn được sao?

– Trước tiên sinh ở dưới trướng Hồ tôn Hiến cổ viết biểu Bạch Lộc dâng vua tôi còn nhớ những lời xưng tụng của tiên sinh. Mới từ đó đến nay mà tiên sinh đã thay đổi được sao. Tôi e vậy thiên hạ không khỏi chê cười mà sử sách cũng còn lời quở trách. Tôi hỏi thật tiên sinh, có phải cái mộng ước của tiên sinh chỉ là muốn được ngôi cao bổng hậu, chẳng phân biệt trắng đen, phải quấy? Tiên sinh không coi hạnh của kẻ sĩ là trọng sao? Tôi mong tiên sinh có thể chết cho Từ Hải được, cũng như tôi: giữ được thành, thắng được giặc thì nhất, không thà chết, chịu tội bất tài. Xin tiên sinh đừng bắt tôi nghe những lời bất trung, vô sỉ nữa.

Văn Trường ngượng mặt, biết không thể thuyết được Trương Nguyên Biện nên cáo lui ra khỏi thành.

Nguyên Biện không chịu hàng, Từ Hải kéo quân lên vây sát thành rồi vác đao ra trước trận kêu Trương Nguyên Biện ra quyết đấu. Trương Nguyên Biện cũng dàn quân rồi ra trước trận chỉ gươm vào mặt Từ Hải mà mắng:

– Thằng giặc lùn kia muốn sống hãy xuống ngựa đầu hàng ta sẽ tha chết cho. Trước ta đã định mang quân đi hỏi tội bọn bay về việc cướp bóc, dấy loạn bây giờ bọn bay lại dẫn xác đến đây quả là đến số.

Từ Hải chẳng nói chẳng rằng thúc ngựa vọt tới chỗ Nguyên Biện nhưng thoắt cái đã có một viên tướng trẻ xông ra, Từ giật ngựa đứng lại nhìn tên tướng mặt còn non choẹt... Từ Hải bật cười hỏi:

– Mày là ai vậy, thằng nhỏ? Múa may với ta làm gì cho phí sức, hãy dẹp ra cho ta bắt thằng già kia.

– Mày đừng hỗn láo với chủ tướng của ta, mày thử xem có đủ sức để thắng nổi một tên bộ tướng này chăng?

– Thôi mà nhỏ, mày cũng là tướng nữa, nhưng ta có coi ngay cả cái thẳng phong tướng cho mày ra cái gì đâu.

– Không nói gì hết, ta với mày kẻ sống người chết.

Hắn xông vào khiến Từ Hải phải kháng cự. Qua mấy hiệp Từ Hải dừng lại, lùi ra:

– Này nhỏ, quả mày muốn chết sao? Nhưng dù sao tao cũng muốn hỏi mày: xem mày cũng là thằng khá mà sao mày lại đi làm tướng cho cái bọn triều đình khốn nạn kia. Mày làm tướng để bảo vệ cái gì? Bảo vệ bọn vua quan? Bảo vệ cái tổ điếm Hàng Châu này? Chẳng lẽ mày là một thằng đốn mạt vậy sao? Mày nên theo tao đi.

– Phường giặc cỏ đừng nhiều lời, thà chết chứ tao không theo mày.

– Sống không biết sống sao cho đáng sống, chết không biết chọn cái chết cho đáng chết. Thế mà cũng đòi làm tướng.

Viên tướng trẻ như con gà sống tơ, mặt đỏ rần xông vào làm Từ Hải tức giận khoa đao nhẹ một đường, nhanh như chớp chiếc đầu viên tướng đã lìa khỏi cổ. Từ Hải vẫy quân tiến lên, chàng thì xông vào chém Trương Nguyên Biện một nhát chẻ người làm hai mảnh chết thê thảm. Quân triều đình tan vỡ trước sức ồ ạt của quân Từ Hải. Dân chúng mở cửa thành cho quân Từ kéo vào.

Vào được Hàng Châu nghiễm nhiên Từ đã chiếm được cả một vùng rộng lớn. Từ ra lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc, ăn trộm. Chàng bắt hết các chủ chứa điếm giết đi, bao nhiêu gái chơi được tự do chọn nghề sinh sống, kẻ nào muốn lấy chồng thì Từ mang gả cho lính mình rồi chia đất hoang cho khai thác lập nghiệp, các nơi ăn chơi được biến thành nhà ở, trường học.

Chính sách của Từ đưa dân chúng đến cảnh an cư lạc nghiệp, sau bao nhiêu năm họ phải sống khốn khổ đen tối. Nhưng cũng từ đó, dưới trướng Từ Hải, trong đám bộ hạ những hoang phí, ăn chơi, cờ bạc đã diễn ra cũng chẳng khác gì cuộc sống ở nơi triều đình.

Mới đầu Từ còn ngăn cấm nhưng sau cũng nhạt dần vì tự nghĩ xưa kia họ đã khổ sở thôi để cho họ hưởng một chút. Rồi những xung đột, ghen tỵ, tranh dành đưa đến cho Từ Hải phải giải quyết, khiến cho Từ nhiều lúc mất vui. Bọn võ tướng đã lười biếng thao luyện, bọn văn quan đã chẳng còn dùng ngòi bút kích động lòng quân, viết thư hộ cho binh sĩ gửi về thăm vợ mà dùng ngọn bút vào ngâm vịnh tâng bốc Từ Hải nào là anh tài cái thế, anh hùng bậc nhất thiên hạ, cứu dân cứu nước, sáng như mặt trăng mặt trời, nghe qua, đọc lướt Từ Hải cũng phải ngượng thẹn.

Đến độ họ còn lớn tiếng ngâm vịnh, chúc tụng cả sự lành bệnh của nàng Kiều sau một lần đẻ non. Nàng Kiều dựa vào thế chồng đền ân báo oán những chuyện nhỏ nhặt. Xin xỏ cho kẻ hầu hạ dưới tay những ân huệ chức tước không đáng được hưởng. Từ vì nể vợ mà phải ưng cho.

Nhiều đêm Từ thoát ra được cuộc sống nhàm chán chung quanh giả dạng làm người dân thường mà rong chơi ngoài phố, la cà vào những chốn giải trí bình dân mua vui, hoặc chàng trốn lên một góc thành cao mang theo cây đàn bầu rượu hưởng thú tịch mịch trong đêm vắng của trời sao và cái bát ngát mênh mông của vũ trụ, những lúc đó Từ nhớ tiếc thuở ấu thời nơi bến Việt đồng, vài ba người bạn bồng bềnh trên chiếc thuyền nhỏ, thả mình đắm chìm trong cái bát ngát vô bờ của biển khơi trong xanh. Chàng nhờ tiếc cuộc sống bình thường nhưng hào sảng trong sáng ấy. Cái cuộc sống không biết đến những nhung lụa, rượu ngon, gái đẹp, quyền bính, đầy những tranh dành dục vọng. Cái cuộc sống hòa điệu với người và với vũ trụ không phải quay cuồng chém giết... Nhưng bây giờ chàng chẳng thể làm vậy được nữa.

Từ Hải của Vị Ý

Từ Hải nổi lên từ phía Bắc trên bán đảo Liêu Đông rồi kéo mãi xuống tận Triết Giang thế quân mỗi lúc một thêm mạnh, liên tiếp những thành trì bị hạ, những toán quân được phái đến đánh dẹp đều thua; một là vì quân của triều đình ô hợp không có nhuệ khí lại ở dưới những tên tướng vô mưu, bất tài; hai là thế giặc dựa vào dân chúng mà kháng cự, cho nên năm sáu năm liền quân Từ Hải làm chủ dọc cả vùng bờ biển, trong tay giữ hơn mười thành. Thế giặc quá lớn, sự khuynh đảo đe dọa cả nền cai trị của nhà Minh khiến cho triều đình lo âu.

Nhưng khốn nỗi không ai dám lãnh việc đánh dẹp cùng tinh thần hư hèn cầu an. Sau chót vua phải sai triệu Hồ Tôn Hiếu ở Giang Nam về cho thống xuất đại quân xuống đánh. Hồ Tôn Hiến chỉnh quân mã ngày đêm kéo xuống đóng quân ở phía bắc sông Tiền Đường đối diện với Nam Thành là bản doanh của Từ Hải. Biết thế quân của Từ Hải mạnh nếu đường hoàng dùng sức mà đánh thì phần thắng không thấy nên Hồ Tôn Hiến cho đóng trại kiên cố và án binh bất động.

Hồ Tôn Hiến cho quân sĩ trà trộn vào dân chúng loan truyền rằng Hồ Tôn Hiến không muốn gây cảnh chiến tranh, chỉ muốn có hòa bình cho dân chúng nên muốn Từ Hải về cộng tác với ông mà giúp triều đình, tất cả mọi người sẽ được hưởng quyền lợi xứng đáng, chẳng ai có tội mà cũng chẳng ai có công. Một mặt Hồ cho kẻ lén lút mang dâng cho Vương Thúy Kiều những vàng lụa, kim cương và vô số những bảo vật, đồng thời cũng viết mật thư cho Từ Văn Trường hứa hẹn những chức tước, địa vị kèm theo với nhiều vật phẩm nhờ Văn Trường thuyết Từ Hải giải giới. Nhiều kẻ dưới trưởng họ Hồ hoài ghi về chiến thuật, Hồ cười mà quả quyết.

− Từ Hải không phải là một kẻ nuôi chí lớn làm bá chủ thiên hạ, xuất thân từ đám dân chài thất học, không có được con mắt nhìn xa thấy rộng, chẳng qua nắm được ưu thế là vì nền cai trị hạ tầng của triều đình hư nát, lắm tệ đoan, quan lại chỉ lo vơ vét tiền của, không chăm lo dân, đó là cái thời thuận tiện cho Từ Hải. Bắt nguồn từ những bất mãn ấy dấy loạn thu phục nhân tâm, gom góp những kẻ có chí vùng vẫy lại mà cứu khốn cho dân chúng là có được cái thế. Có thời có thế nhưng Từ hành động vì tình cảm mà không có ý thức. Nay ta phao truyền sự hòa bình là làm cho dân chúng giảm đi sự hiếu chiến, họ không muốn loạn để cho cơ nghiệp tan tành. Bọn bộ hạ của Từ Hải này kẻ nào cũng có của cải, yên vui tất không muốn chiến đấu phiêu lưu, rồi tất Từ Hải nghe vợ, nghe bộ hạ nói ra nói vào mà nản chí, tình cảm bị lung lạc lúc đó thật lấy đầu hẳn có khác chỉ lấy chút vật mọn trong túi áo, mất chủ tướng rồi bọn kia sẽ tan rã. Ta chẳng mất công gì mà dẹp được chúng.

− Nhưng nó lú thì có chú nó khôn, còn bọn quân sư của Từ?

− Ta biết rõ cái bọn đó, các ông cứ tin ta đi. Những tên như Từ văn Trường trước kia ở dưới tay nên ta đã rõ. Những kẻ đó cũng nhiều kẻ có tài, nhưng không có đức, không có chí, theo Từ là vì bất mãn muốn có địa vị. Theo Từ mà vẫn khinh Từ không có học, nên không thể cùng Từ, giúp Từ lập nên nghiệp lớn. Bọn chúng lại hay suy luận loanh quanh. Nay ta mang mồi mà nhử chúng tất chúng sẽ ăn. Cái bọn đó cứ mang vàng bạc địa vị ra mà nhử thì mua được hết. Kẻ sĩ ở vào buổi suy vong thời nào cũng vậy. Cho nên ta tin chắc Từ Hải sẽ ra hàng.

Sau khi đã bủa lưới Hồ Tôn Hiến mới gửi thư dụ hàng sai quân vào thành dâng cho Tử Hải. Từ Hải liền cho triệu tập bộ hạ bàn luận. Họ bàn tán om sòm, những câu: hàng rồi bị giết không, có bị trả thù không, mình sẽ được chức gì, có được giữ lại của cải của mình không. Đánh Hồ có thắng không, nếu thua thì làm sao. Đám bộ hạ bàn tán lăng nhăng chẳng đi tới đâu. Từ Hải bực mình phải quát lên:

− Ta chỉ có mỗi một câu hỏi cần trả lời: hòa hay chiến? Không có vì sao, tại sao.

Câu hỏi đặt ra chỉ có vài kẻ hăng hái kêu đòi chiến, còn thì đều im lặng ra vẻ suy nghĩ. Từ Hải buồn rầu nhìn họ vì chỉ có một thời gian ngắn mà đám bộ hạ đã thay đổi gần hết. Xưa kia họ hăng hái, họ xông lên, đòi giết cho hết bọn quan lại hại dân, đòi lập một đời sống mới, coi thường cái chết... thì nay họ đã suy nghĩ, họ muốn đứng lại ở cái địa vị cai trị của họ, không còn muốn xông pha phiêu lưu nữa. Từ nhìn bọn bộ hạ mà nói:

− Ta họp các ông lại đây là để cùng ta quyết định, ta cho chuyện này hệ trọng lắm. Cơ nghiệp dựng lên chẳng có gì to tát là công của mọi người chung sức mà có được, khi khổ có nhau, khi sướng có nhau. Riêng với ý ta, ta không hàng, ít ra chúng ta cũng còn giữ được như thế này lâu lắm, đó là chưa nói tới việc lớn hơn. Chúng ta đang được sống tự do vùng vẫy, chẳng có gì ép buộc mình, vậy tại sao chúng ta lại hàng, lại bó thân về cái triều đình ta đã chống đối? Chúng ta có thể chịu được cái đời sống gò bó, vào luồn ra cúi ở giữa những kẻ xa lạ kia không? Thật ta chẳng ham gì một địa vị công hầu khanh tướng như thế. Đó là nói ở cái thế mà họ thực tình, nếu họ tráo trở, chúng ta có còn là tướng nữa không khi đã hết quân? Ta sợ khi đó chúng ta hối cũng không kịp nữa.

Nói xong Từ đứng lên. − Chúng ta hãy giải tán để ai nấy suy nghĩ rồi mai chúng ta sẽ quyết định.

Từ dời sảnh đường vào phòng riêng thì gặp Kiều đã ngồi ở đó hỏi: − Tướng quân đã quyết định như thế nào? − Chưa quyết định gì cả.

Từ ngồi nói cho Kiều nghe tinh thần của bộ hạ, dáng băn khoăn buồn buồn. Trong thâm tâm Kiều từ hôm nhận được vàng bạc châu báu, những lời hứa hẹn của Hồ Tôn Hiến đã có ý khuyên chồng giải binh nhưng vẫn sợ, thêm vào đó sự phân vân lựa chọn. Sau chót cái ý nghĩ được yên thân, xum họp với gia đình đã thắng thế. Biết ý Từ chưa quyết Kiều liền nói vào:

– Từ ngày được về hầu hạ tướng quân thật thiếp như kẻ được mang từ cõi chết ra cõi sống, nhưng chứng kiến cảnh binh đao thật nhiều khi thiếp lo sợ cho tính mệnh tướng quân. Nay triều đình đã biết đến tướng quân mà xin hòa, chức tước địa vị đợi sẵn tại sao tướng quân lại từ chối, với ý thiếp, được sống yên ổn vẫn hơn chứ nếu như ngày nay rồi nếu chẳng may lúc mình thua thì còn chi, thân tướng quân đã vậy, còn thân thiếp ra sao? Tại sao tướng quân lại không chấp nhận sự bình thường, nhận bổng lộc địa vị cho thiếp được mở mày mở mặt, được xum họp với cha mẹ và chúng ta có một đời sống yên vui lâu dài. Ở đây sung sướng nhưng mãi mãi vẫn mang danh phường giặc cỏ.

Từ Hải bị Kiều thuyết, chàng phân vân, tình cảm bị chế ngự nên hôm sau họp bộ hạ Từ quyết định nghị hòa. Chẳng mấy chốc tin đình chiến, giải binh loan truyền trong dân chúng, một vài kẻ chủ chiến mang gia đình rời đi còn lại thì binh sĩ trễ biếng chẳng còn nghĩ đến chuyện đánh nhau nữa, Từ Hải phúc đáp thư cho Hồ Tôn Hiến định ngày thúc giáp rồi cho quân sĩ vui chơi.

Hồ Tồn Hiến vui mừng liền sắp sẵn mưu kế chờ cho Từ ra hàng.

o O o

Từ Hải của Nguyên Khai

Từ đứng lên, vươn vai vẻ mệt nhọc, Kiều ngồi dưới thềm ngửa mặt lên hỏi:

– Tướng quân đi đâu, đêm vui chưa hết nửa cuộc.

Từ im lặng vuốt áo ra khỏi sảnh đường. Tiếng đàn hát vẫn còn quấn quít chạy theo.

Đêm đã khuya, cảnh tịch mịch trùm xuống khu thành. Thế là chỉ đêm nay nữa, mai thành này sẽ chẳng còn ở trong tay. Một thân vùng vẫy dọc ngang, làm vua một cõi mà chỉ còn là một tên quan ngày ngày củi lưng nơi thềm rồng bệ ngọc. Giây phút Từ thấy bâng khuâng buồn như sắp mất đi một cái gì lớn lắm... chắc chẳng bao giờ chàng lấy lại được nữa.

Một mình, Từ dạo qua những nơi quen thuộc, quân lính đều đã ngủ say, chỉ còn một vài tên lính canh đi lại dáng uể oải mệt nhọc. Từ qua kho lương, xuống chuồng ngựa... rồi theo bậc thang leo lên mặt thành. Đêm bao la chụp xuống cả một vùng đồi núi, trong thành đêm nay nhiều ánh đèn hơn mọi đêm, trại quân của Hồ Tôn Hiến đã rút hẳn ra ngoài xa chừng như đang mở hội ăn mừng. Từ bước thảnh thơi thở hít không khí gây gây lạnh, không phải là thi sĩ để có thể làm một bài thơ tức cảnh, Từ thấy tiếc làm sao. Tiếng trống canh rời rạc, một vài trạm chừng như lính đã ngủ, hay bỏ về nhà với vợ con không thấy điểm trống. Giá như lúc khác đã có kẻ phải rơi đầu, nhưng đêm nay không cần thiết nữa. Mai này... bất chợt Từ thở dài...

– Thưa tướng quân, tướng quân chưa đi nghỉ.

Từ giật mình quay lại, rồi lại lặng yên đưa mắt nhìn ra xa.

– Nếu tiểu tốt không lầm, tướng quân đang buồn vì sớm mai này tướng quân ra hàng giặc. Hàng giặc, sao lại là hàng giặc? Ngươi là ai?

– Tiểu tốt là ai? Thưa tướng quân, tiểu tốt là bộ hạ của tướng quân, kẻ đã nghĩ triều đình là giặc, tướng quân là bậc đế vương. Thế mà mai này, khi mặt trời lên bậc đế vương đó sẽ dẫn tất cả đoàn quân dưới trưởng này ra khỏi thành, quỳ gối, khom lưng, nhận giặc là minh chúa để nguyện trung thành tận tụy suốt đời... Thưa tướng quân, có phải vì thế mà tướng quân buồn?

– Buồn, ta không hiểu ý nhà ngươi.

– Có lẽ tướng quân cố ý không hiểu đó thôi... đáng buồn lắm chứ...

Từ bâng khoảng, tiếng nói của người đối diện như xoáy vào trong tâm tư của mình. Nhưng ít nhất cũng có người hiểu được rằng Từ buồn, tự nhiên Từ lấy được sự thân mật dễ chịu. Ngay sau đó một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người Từ. Thôi thế là không còn gì nữa. Mai này sẽ chỉ còn lại hai bàn tay trắng và một thái độ chịu thua, thái độ chấp nhận, thái độ đầu hàng…

– Sao người lại nói với ta như vậy. Ta buồn thật sao?

Từ quay lại nhìn người đang đối diện với mình chờ đợi. Người thanh niên mỉm cười, dáng ngạo mạn lì lợm. Anh ta vào khoảng trên hai mươi, khoẻ mạnh, nước da ngăm đen tóc búi ngược, y phục một tên cận vệ. Từ cố gắng để nhớ xem có phải người đối diện mình là một tên cận vệ hay không. Thanh niên xoay người chống tay lên mặt thành nhìn ra bãi cỏ phía trước.

– Tiểu tốt biết tướng quân buồn. Buồn thật hay không điều đó tướng quân tự biết.

– Bây giờ ta cũng chẳng còn là tướng quân gì nữa. Anh cũng chẳng còn là tiểu tốt nữa. Mình thua rồi.

Từ Hải của Nguyễn Trung

Thanh niên xoay phắt người lại, đứng thẳng. Trong ánh sáng mập mờ Từ chẳng như thấy khuôn mặt kẻ đối diện thay đổi, mặt nghiêm lại, mắt mở lớn đôi mày rậm dướn lên vẻ dữ dằn.

– Sao lại thua, mình đâu có thua.

Từ huýt người ngồi lên tường thành hơi cúi đôi vai lớn, ngước mặt lên:

– Đó là sự thật. Anh có lấy làm buồn không.

– Nói không là dối lòng minh. Nhưng tôi không lấy đó làm thất vọng. Tôi còn trẻ... Tướng quân có thấy là tôi còn trẻ không.

Từ gật gật đầu.

– Đúng, anh còn trẻ, như vậy có phải ta già rồi không?

– Tướng quân cũng còn trẻ.

– Thôi anh đừng gọi ta là tướng quân nữa, còn quân đâu nữa mà tướng. Ta cũng chỉ như anh. Ta đâu còn như hồi xưa. Phải không?

– Cũng vẫn như hồi xưa, cũng có thể làm lại như ngày xưa...

– Ngày xưa. Anh đừng nói đến làm chi nữa.

– Sao lại vậy... Chỉ có ngày xưa. Cũng chính cái ngày xưa đó mà tôi gặp được tướng quân, đã hào hùng và bây giờ...

– Thất vọng?

– Tướng quân có biết, nhưng mà thôi... Biết sao, anh hãy nói ta nghe, anh hãy coi ta như một người bạn... Ai hiểu được ta? Có lẽ chỉ có anh? Mà sao ta trông anh cũng buồn vậy?

– Tôi nhớ lại lúc còn sống tại quê nhà ở Giang Nam nghe tin tướng quân nổi dậy, đốt thuyền bè, chống quan lại... Tôi đã lặn lội từ đó lên Việt Đồng. Tự xung vào làm sĩ tốt... Tướng quân còn nhớ những ngày đó.

– Nhớ, mới như vừa xảy ra mà đã năm sáu năm trời rồi còn gì. Dãy lên với hai bàn tay không, với những tấm lòng hào hiệp... Mà này sao ta không bao giờ được gặp anh?

– Có chứ, nhưng chắc tướng quân quên, làm sao để tướng quân nhận ra từng người trong nghìn vạn quân tướng...

Người thanh niên buồn bã:

– Trong nghìn vạn quân tướng ấy đã có bao nhiêu người ngã xuống chiến trường, trải thây trên con đường hành quân, những người xông pha ở Việt Đồng, Triết Giang, hạ năm thành ở cỏi Nam, cướp Châu Thai, lấy Vô Tích, chiếm Lâm Truy... để cho tới lúc tướng quân có một giang sơn như ngày nay, có thành quách như hiện nay... Và tôi đã sống sót để mai này chứng kiến cái công lao của những ngày gây dựng không còn nữa...

– Thôi anh đừng nhắc chuyện đó. Ta đã thua rồi. Anh có tiếc công, tiếc sức đã theo ta không. Anh có cho rằng ta đã phản bội lòng tin cậy của anh, của các bạn đã theo ta không?

Câu hỏi của Từ dội đi, tiếng trống canh rời rã. Từ bước đi loanh quanh. Giọng người thanh niên mơ hồ:

– Lúc sống tại quê nhà, cha tôi nói: bây giờ là thời loạn. Kỷ cương của nước không còn nữa, lòng người ly tán, kẻ sĩ mất truyền thống trở thành hèn hạ, con còn dùng bút nghiên làm gì nữa, ta muốn thấy con hành động như một tên du côn còn hơn. Câu chuyện ấy vẫn làm cho tôi băn khoăn suy nghĩ. Không có thời loạn mà chỉ có lòng người loạn. Cha tôi cũng là kẻ khoa cử nhưng từ chối công danh sự nghiệp, cha tôi nhận làm một kẻ câm điếc đui mù, ngoảnh mặt đi với cuộc sống mà lại muốn con như một tên thảo khấu du côn. Cha tôi cũng loạn sao? Cha tôi bảo kỷ cương không còn, trật tự bị phá hủy, sách vở thánh hiền đã lu mờ còn đâu kẻ sĩ với tinh thần hào hiệp. Lòng người đã phụ với trời, kiến văn chỉ làm người ta đê hèn, bần tiện đi. Kẻ có học dùng sở học vào đường bất chánh, như vậy thất học còn hơn, vì thất học không phải nhiễm độc bởi những cặn bã của tư tưởng thì với lương tâm may ra còn sống được ngay thẳng. Làm thằng du côn có chí thì cứu được đời... Tôi đã ngẫm lại và thấy có phần đúng. Trong xã hội tôi không còn thấy ai là kẻ sĩ nữa. Bọn thư sinh mặt trắng đi vào con đường hư danh, tư lợi... Có nghĩa thời loạn còn kéo dài lâu lắm. Giữa lúc ấy nghe tên Từ Hải, một tên con nhà thuyền chài vô học dấy lên, lòng người ngã theo, tôi nghĩ cha tôi đã đúng, và tôi vứt bút nghiên đi theo một tên du côn.

– Một tên du côn. Anh đi theo một tên du côn mà anh nghĩ còn phải. Bây giờ anh có hối hận không?

– Không, tôi không hề hối hận.

– Tại anh kiêu ngạo không chịu nhận.

– Không phải tôi kiêu ngạo mà tôi không nhận.

– Hay anh cho định mệnh của lịch sử nó phải thế?

– Không, không bao giờ tôi lấy một thứ số phận, một thứ định mệnh nào để trốn chạy. Chính là tại tôi, tại tướng quân. Tôi muốn hỏi tướng quân: tướng quân đâu muốn ép thân thuần phục, đâu tướng quân có kính nể Kiều, đâu tướng quân có nghe lời bàn của bọn hèn nhát, chủ hòa.

– Sao anh lại cho rằng ta không kính nể nàng Kiều, không kính nể mà sao ta có thể cưới nàng làm vợ. Anh nghĩ nàng là một con điếm sao? Nếu quả vậy thì anh đã nhầm, anh đã cho rằng du côn còn khá thì với ta ngày nay trong giới dàn bà chỉ có bọn làm điếm là khá. Du côn dám nhận là du côn, làm điếm dám nhận là làm điếm, còn ai hơn nữa. Cả thiên hạ làm điếm mà không dám nhận là điếm. Như vậy ai được quyền khinh nàng Kiều. Ta chẳng sợ gì mà không nói với anh. Ta kính nể con điếm là vợ ta đó.

Còn cái bọn ở chung quanh ta, cái bọn Từ Văn Trường, cái bọn văn hay chữ tốt, khoa bảng ta đâu có coi bằng một con ngựa ta nuôi. Bọn họ đâu sánh được nàng Kiều. Ta nuôi bọn nó để bọn nó nịnh bợ, ca tụng, xu phụng ta. Ai cũng muốn có kẻ nịnh bợ mình, muốn có kẻ đóng kịch làm hề cho mình coi... Bọn nó theo ta chẳng phải như anh, như quân sĩ của ta. Bọ