Chương một NHỮNG DIỄN VIÊN ‘CHIM NHẠI’
Nhân viên lễ tân tạm thời là một phụ nữ gốc Phi thanh lịch trong bộ veste công sở tối màu sang trọng - trông khác hẳn với phần đông nhân viên của Ủy ban Bảo vệ Tù nhân miền Nam ở Atlanta, nơi tôi trở lại làm việc toàn thời gian sau khi tốt nghiệp. Ngày đầu tiên cô đến làm, tôi lảng vảng gần cô trong bộ quần jean giày thể thao quen thuộc và đề nghị sẵn lòng trả lời bất kỳ câu hỏi nào để giúp cô thích nghi. Cô nhìn tôi lạnh lùng và xua tôi đi sau khi nhắc nhở tôi rằng cô thực ra là một thư ký pháp lý chuyên nghiệp. Sáng hôm sau, khi tôi đến văn phòng trong bộ quần jean giày thể thao khác, cô tỏ vẻ kinh ngạc cứ như tôi là một gã hành khất từ đâu đi lạc tới. Cô ngập ngừng, rồi gọi tôi lại để bật mí rằng một tuần nữa cô sẽ nghỉ ở đây để đi làm cho một “văn phòng luật thật sự”. Tôi chúc cô may mắn. Một giờ sau, cô gọi điện báo tôi hay có “Robert E. Lee” đang chờ máy. Tôi mỉm cười, mừng thầm vì mình đã đánh giá sai cô; rõ ràng cô có khiếu hài hước đấy chứ.
“Buồn cười thật đấy.”
“Tôi không đùa đâu. Ông ta nói thế mà,” cô trả lời, giọng chán chường. “Máy lẻ số 2 nhé.”
Tôi nhấc máy.
“Xin chào, tôi là Bryan Stevenson. Tôi có thể giúp gì ông?”
“Chào Bryan, tôi là Robert E. Lee Key. Anh nghĩ cái quái gì mà lại muốn đại diện cho một người như Walter McMillian? Anh có biết hắn ta là một trong những tay buôn ma túy khét tiếng ở Nam Alabama không? Tôi đã nhận được thông báo rằng anh sẽ tham gia buổi hầu tòa, nhưng anh sẽ không muốn dính gì đến vụ này đâu.”
“Ông nói sao?”
“Tôi là thẩm phán Key. Anh sẽ không muốn dính gì đến vụ McMillian này đâu. Không ai, kể cả tôi, thật sự hiểu vụ này khốn nạn như thế nào, nhưng tôi biết nó rất tởm. Mấy tay này có khi chính là Dixie Mafia* đấy.”
Dixie Mafia là một tổ chức tội phạm hoạt động chủ yếu ở miền Nam nước Mỹ. (ND.)
Giọng điệu dạy dỗ và cách dùng từ gây hoang mang của một thẩm phán tôi chưa từng gặp mặt khiến tôi bối rối. “ Dixie Mafia sao?” Tôi đã gặp Walter McMillian hai tuần trước, sau một ngày ở trại tử tù để khởi sự xử lý năm hồ sơ. Tôi chưa xem biên bản phiên tòa, nhưng tôi nhớ thẩm phán mang họ Key. Chưa ai nói với tôi về cái tên Robert E. Lee. Tôi cố gắng mường tượng ra hình ảnh của một Dixie Mafia phù hợp với Walter McMillian.
“Dixie Mafia sao?”
“Chứ còn gì nữa. Này, con trai, ta không định bổ nhiệm một luật sư ngoài bang, lại không phải là thành viên của Đoàn Luật sư Alabama đảm nhiệm một trong những vụ tử hình này đâu, con nên rút lui đi.”
“Tôi là thành viên Đoàn Luật sư Alabama.”
Tôi sống ở Atlanta, Georgia, nhưng đã được kết nạp vào Đoàn Luật sư Alabama một năm trước sau khi xử lý một số vụ liên quan đến điều kiện giam giữ ở Alabama.
“Hừm, tôi hiện đang làm thẩm phán ở hạt Mobile. Tôi không còn làm việc ở Monroeville nữa. Nếu chúng tôi phải xếp lịch xử kháng nghị của anh, anh sẽ phải đi từ Atlanta tới tận Mobile đấy. Tôi cũng không định giúp gì anh đâu.”
“Tôi hiểu, thưa ngài. Tôi có thể tới Mobile nếu cần.”
“Và này, tôi cũng sẽ không bổ nhiệm anh làm luật sư chỉ định của tòa vì tôi không nghĩ McMillian là kẻ bần hàn gì. Tôi nghe được thông tin hắn chôn tiền trên khắp hạt Monroe ấy.”
“Ngài thẩm phán, tôi không định xin tòa bổ nhiệm. Tôi đã nói với McMillian là chúng tôi sẽ...” Tiếng tút tút của điện thoại ngắt lời khẳng định đầu tiên của tôi trong cuộc gọi này. Tôi mất mấy phút tưởng điện thoại có vấn đề, rồi mới nhận ra tôi vừa bị vị thẩm phán chủ động dập máy.
Tuổi tôi đang ở cuối đầu hai, và tôi đang chuẩn bị bước vào năm thứ tư làm việc ở SPDC thì tôi gặp Walter McMillian. Hồ sơ của anh là một trong cả núi hồ sơ mà tôi đang điên cuồng xử lý sau khi nhận ra cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng ở Alabama. Bang này có gần 100 tử tù và có số người bị kết án tăng nhanh nhất cả nước, nhưng lại không có lấy một hệ thống bào chữa công. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều tử tù không có người đại diện pháp lý dưới bất kỳ hình thức nào. Một người bạn của tôi tên là Eva Ansley đang thực hiện một dự án liên quan đến nhà tù, dự án đảm nhiệm việc theo dõi các vụ án và sắp xếp luật sư cho những người bị kết án ở Alabama. Năm 1988, chúng tôi tìm thấy một cơ hội xin tài trợ liên bang để thành lập một trung tâm pháp lý đại diện cho tử tù. Kế hoạch của chúng tôi là sử dụng tiền tài trợ thành lập một tổ chức phi lợi nhuận mới. Chúng tôi hy vọng sẽ mở được trung tâm ở Tuscaloosa và bắt đầu xử lý các sự vụ vào năm tiếp theo. Tôi đã xử lý nhiều trường hợp tử hình ở một số bang miền Nam, vài lần còn giành được lệnh đình chỉ thi hành án chỉ vài phút trước khi cuộc xử tử được định ngày. Nhưng tôi không nghĩ mình đã sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm điều hành một văn phòng luật phi lợi nhuận. Tôi dự định sẽ giúp tổ chức hoạt động trong những ngày đầu, tìm một giám đốc, rồi trở lại Atlanta.
Vài tuần trước khi nhận được cuộc gọi của Robert E. Lee Key, tôi đã đến thăm trại tử tù và gặp năm người bị kết án hiện đang rất tuyệt vọng: Willie Tabb, Vernon Madison, Jesse Morrison, Harry Nicks, và Walter McMillian. Đó là một ngày mệt mỏi và rối bời, các vụ án và thân chủ cứ ám ảnh tâm trí tôi suốt chặng đường dài về Atlanta. Nhưng tôi đặc biệt nhớ Walter. Anh hơn tôi ít nhất mười lăm tuổi, sinh tại một ngôi làng nhỏ và không được học hành nhiều. Điều khiến tôi nhớ về Walter là sự quả quyết của anh về bản án oan mà anh đang phải chịu.
“Bryan, tôi biết điều này có thể chẳng là gì với cậu, nhưng tôi cần phải cho cậu biết rằng tôi vô tội, tôi không làm những việc mà họ kết tội tôi,” anh nói với tôi ở phòng thăm viếng. Giọng anh đều đều nhưng nghẹn lại vì xúc động. Tôi gật đầu. Tôi đã học được cách chấp nhận tất cả những điều thân chủ kể với mình là sự thật cho đến khi có bằng chứng xác thực chứng tỏ một điều khác.
“Chắc chắn rồi, tôi hiểu chứ. Khi tôi xem xét hồ sơ vụ này, tôi sẽ hiểu hơn về những chứng cứ họ có, và lúc đó chúng ta có thể bàn tiếp.”
“Nhưng này, tôi biết tôi không phải là tử tù đầu tiên nói với cậu rằng mình vô tội, nhưng tôi thật sự rất mong cậu tin tôi. Cuộc đời tôi đã bị hủy hoại! Sự dối trá mà họ đặt lên tôi thật quá sức chịu đựng, và nếu tôi không được ai tin, không được giúp đỡ...”
Môi anh bắt đầu run lên, và anh nắm chặt tay lại để khỏi bật khóc. Tôi ngồi im lặng trong khi anh cố lấy lại bình tĩnh.
“Tôi xin lỗi, tôi biết cậu sẽ làm mọi điều có thể để giúp tôi,” anh nói, giọng dịu lại. Hành động bản năng của tôi là an ủi anh bởi nỗi đau của anh có vẻ rất thật. Nhưng tôi không thể làm gì nhiều. Sau vài giờ đồng hồ nói chuyện với quá nhiều người, tôi chỉ còn đủ năng lượng để trấn an anh rằng tôi sẽ xem lại hồ sơ thật cẩn thận.
Tôi có một vài biên bản phiên tòa* chất ở văn phòng Atlanta, sẵn sàng chờ chuyển về Tuscaloosa khi văn phòng mới kia mở cửa. Với những lời bình luận đặc biệt của thẩm phán Robert E. Lee Key văng vẳng trong đầu, tôi lật giở chồng tài liệu cho tới khi tìm thấy biên bản phiên tòa xử Walter McMillian. Chỉ có bốn tập biên bản xét xử, điều này có nghĩa là phiên tòa diễn ra rất nhanh. Cảnh báo gay gắt của vị thẩm phán khiến lời kêu oan khẩn khoản của McMillian thôi thúc tôi, khiến tôi không thể trì hoãn thêm nữa. Tôi bắt đầu đọc.
Nguyên văn: transcript, là bản ghi từng chữ những gì được nói ra trong phiên tòa. (ND.)
Mặc dù sống cả đời ở hạt Monroe nhưng Walter McMillian chưa bao giờ nghe nói đến Harper Lee hay cuốn tiểu thuyết Giết con chim nhại *. Monroeville, bang Alabama tung hô người con gái của quê hương, Harper Lee, sau khi cuốn sách đoạt giải thưởng của bà trở thành cuốn sách bán chạy nhất toàn nước Mỹ những năm 1960. Bà trở về hạt Monroe, nhưng sống khép mình và hiếm khi xuất hiện trước công chúng. Cuộc sống kín đáo của Lee không thể ngăn cản hạt Monroe ra sức quảng bá cho cuốn sách, hay sử dụng danh tiếng của cuốn sách để quảng bá cho chính mình. Rồi bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết này được sản xuất, đưa Gregory Peck tới Monroe để diễn cảnh phiên tòa tai tiếng, và diễn xuất của ông giành giải Oscar. Các nhà lãnh đạo địa phương sau đó đã biến tòa án cũ thành một bảo tàng “Chim nhại”. Nhóm “Những diễn viên Chim nhại của Monroeville” cũng được thành lập ở đây để trình diễn phiên bản sân khấu của câu chuyện. Vở kịch được ưa chuộng đến nỗi họ phải tổ chức các tour diễn khắp trong và ngoài nước để phục vụ khán giả khắp nơi.
Giết con chim nhại, tiểu thuyết của Harper Lee, Phạm Viêm Phương - Huỳnh Kim Oanh dịch, Nhà xuất bản Văn học 2016.
Tình cảm dành cho câu chuyện của Lee vẫn cứ phát triển ổn định trong khi những sự thật nghiệt ngã hơn mà cuốn sách miêu tả lại không được dân tình để mắt tới. Câu chuyện về một người da đen vô tội được một luật sư da trắng can đảm bào chữa vào những năm 1930 đã làm rung động trái tim của hàng triệu độc giả, dù nó miêu tả trần trụi những cáo buộc sai lạc về một vụ hãm hiếp liên quan đến một phụ nữ da trắng. Những nhân vật đáng yêu của Lee, Atticus Finch và cô con gái lanh lợi của ông, Scout, đã thu hút độc giả, đồng thời bày ra trước mắt họ thực trạng chủng tộc và công lý ở miền Nam. Một thế hệ luật sư tương lai đã lớn lên với hy vọng trở thành Atticus dũng cảm để một ngày nào đó sẽ bảo vệ một nghi phạm da đen không có khả năng tự vệ trước đám đông da trắng giận dữ đang lăm le tìm cách hành hình* anh ta.
Nguyên văn: lynch, nghĩa là việc đám đông tự ý hành hình một người nào đó mà không qua xét xử hoặc không được pháp luật cho phép. (ND.)
Ngày nay, hàng chục tổ chức pháp lý trao giải thưởng mang tên vị luật sư hư cấu để ca ngợi tinh thần bào chữa được miêu tả trong cuốn tiểu thuyết của Lee. Chi tiết thường bị bỏ qua là Atticus không thể bào chữa trắng án cho người đàn ông da đen bị oan trong truyện. Tom Robinson, bị cáo da đen chịu hàm oan, vẫn bị kết án. Về sau, anh chết khi liều mình vượt ngục trong tuyệt vọng. Anh bị truy đuổi và bị bắn mười bảy phát đạn vào lưng. Một cái chết thảm thương nhưng hợp pháp.
Walter McMillian, giống như Tom Robinson, cũng lớn lên tại một khu định cư nghèo của người da đen nằm ở ngoại ô Monroeville, nơi cậu bắt đầu làm việc đồng áng cùng gia đình trước cả khi đủ tuổi đến trường. Con cái của những người lĩnh canh miền nam Alabama được cho học “cày cấy, trồng trọt và thu hoạch” ngay khi chúng đến tuổi thể hiện sự hữu ích của mình trên đồng ruộng. Các cơ hội học tập cho trẻ em da đen vào những năm 1950 rất hạn chế, nhưng mẹ của Walter đã cho cậu học tại một ngôi trường tồi tàn “dành cho trẻ da màu” hai năm. Khi Walter được tám, chín tuổi, cậu trở nên đắc dụng cho công việc thu hoạch bông hơn nhiều so với những lợi ích mơ hồ của con đường học hành. Năm mười một tuổi, Walter có thể điều khiển chiếc cày khéo léo không thua gì các anh chị mình.
Thời thế thay đổi - tốt lên và xấu đi. Hạt Monroe vốn được các chủ đồn điền gầy dựng vào thế kỷ 19 để sản xuất bông. Nằm ở vùng đồng bằng duyên hải tây nam Alabama, vùng đất màu mỡ, trù phú này đã thu hút những di dân da trắng từ Bắc và Nam Carolina. Những người này đã tích lũy được những đồn điền trù phú và một lực lượng nô lệ đông đảo. Hàng thập kỷ sau Nội chiến, một lượng lớn người Mỹ gốc Phi, những người lĩnh canh và tá điền, đã làm việc cật lực trên những cánh đồng thuộc “Vành Đai Đen,” lệ thuộc vào những địa chủ da trắng để tồn tại. Trong cuộc Đại Di cư những năm 1940, hàng nghìn người Mỹ gốc Phi đã rời bỏ khu vực này tới miền Trung Tây và bờ Tây để kiếm việc làm. Những người ở lại tiếp tục bán mặt cho đất, nhưng cuộc di cư của những người Mỹ gốc Phi kết hợp với các yếu tố khác đã khiến nông nghiệp truyền thống, nền móng kinh tế của khu vực, lung lay.
Tới những năm 1950, canh tác bông quy mô nhỏ không còn sinh lời như trước, dù có nguồn lao động giá rẻ là những người lĩnh canh và tá điền da đen. Bang Alabama đồng ý hỗ trợ các địa chủ da trắng trong vùng chuyển đổi sang trồng rừng và khai thác lâm sản bằng những gói ưu đãi thuế đặc biệt cho các nhà máy giấy và bột giấy. Mười ba trong số mười sáu nhà máy giấy và bột giấy của bang [1] đã được mở ra trong giai đoạn này. Dọc theo Vành Đai Đen, ngày càng nhiều thửa đất được chuyển sang trồng thông để phục vụ các nhà máy giấy và các mục đích công nghiệp. Phần lớn người Mỹ gốc Phi bị loại ra khỏi ngành công nghiệp mới này, và họ phải đương đầu với những thách thức kinh tế mới dù họ đã giành được những quyền dân sự cơ bản. Thời đại dã man của chế độ lĩnh canh và luật Jim Crow đang đi đến hồi kết, nhưng hệ quả của nó là nạn thất nghiệp dai dẳng và tình trạng nghèo đói mỗi lúc một thêm cùng kiệt. Các hạt trong vùng vẫn nằm trong số những hạt nghèo nhất cả nước.
Walter đủ thông minh để nhìn thấy xu hướng này. Anh khởi sự kinh doanh bột gỗ theo đà phát triển của ngành công nghiệp gỗ những năm 1970. Anh khôn khéo và mạnh dạn vay tiền mua cho mình một chiếc cưa điện, máy kéo và xe tải chở gỗ. Tới những năm 1980, anh đã gây dựng được một mối làm ăn ổn định, dù không nhiều lợi nhuận nhưng cũng đem lại cho anh một cuộc sống tự chủ đáng hài lòng. Nếu anh làm tại nhà máy bột giấy hoặc những công việc chân tay khác như hầu hết những người da đen nghèo ở Nam Alabama, anh sẽ phải làm thuê cho chủ da trắng và chịu sức ép phân biệt chủng tộc nặng nề ở Alabama trong các thập niên 1970, 1980. Walter không thể né tránh thực tại phân biệt chủng tộc, nhưng nhờ tự mình làm chủ trong một lĩnh vực kinh tế đang tăng trưởng, anh có được sự tự do mà nhiều người Mỹ gốc Phi không có được.
Sự độc lập của Walter khiến mọi người phần nào nể trọng và ngưỡng mộ, nhưng nó cũng nhen nhóm sự khinh thị và ngờ vực, đặc biệt từ bên ngoài cộng đồng người da đen ở Monroeville. Đối với một số người da trắng trong vùng, tự do mà Walter đang hưởng nằm ngoài tầm với của một người Mỹ gốc Phi ít học, làm ăn chính đáng. Thế nhưng, bất chấp những nghi kỵ ấy, Walter vẫn hòa nhã, khiêm cung, hào phóng và tốt bụng, điều này khiến anh được bạn làm ăn quý mến, bất kể họ là người da trắng hay da đen.
Walter không phải là một người hoàn hảo. Từ lâu anh đã được mệnh danh là gã phong tình. Mặc dù anh đã kết hôn và có ba người con với Minnie, song ai cũng biết Walter còn có quan hệ tình ái với những phụ nữ khác. “Nghề rừng” là công việc có tiếng là khó khăn, nguy hiểm. Khi cuộc sống không có nhiều niềm an ủi, sự quan tâm của phụ nữ là điều Walter khó lòng cưỡng lại. Vẻ ngoài thô ráp - râu tóc rậm rạp, xồm xoàm - cùng với tính cách hào phóng, quyến rũ của Walter đã thu hút sự chú ý của một vài chị em.
Từ nhỏ Walter đã thấu hiểu rằng việc đàn ông da đen gần gũi phụ nữ da trắng là điều cấm kỵ, nhưng tới những năm 1980, anh tự cho phép mình mường tượng ra một sự thay đổi. Có lẽ nếu không thành công tới mức có thể sống tốt nhờ tự chủ kinh doanh, anh đã giữ được hàng rào chủng tộc kiên cố đó trong tâm trí. Ban đầu, Walter không nghĩ nhiều về mấy lời đong đưa của Karen Kelly, một phụ nữ da trắng anh gặp ở quán Waffle House, nơi anh thường ghé ăn sáng. Cô khá hấp dẫn, nhưng anh không thật sự để ý. Khi trò tán tỉnh của Karen trở nên lộ liễu hơn, Walter ngần ngại nhưng rồi tự nhủ rằng sẽ chẳng ai biết chuyện này.
Sau vài tuần, mối quan hệ của Walter với Karen trở nên phiền toái, ở tuổi hai mươi lăm, Karen kém Walter tới mười tám tuổi, và cô đã có chồng. Khi tin đồn lan nhanh rằng họ là “bạn bè”, cô tỏ ra sung sướng và kiêu hãnh về sự thân thiết của mình với Walter. Khi chồng cô phát hiện ra, mọi thứ nhanh chóng trở nên rắc rối. Karen và Joe, chồng cô, vốn đã không hòa hợp từ trước và đang chuẩn bị ly hôn, nhưng mối tình động trời của cô với một gã da đen đã chọc giận Joe và cả gia đình anh ta. Joe chuẩn bị các thủ tục pháp lý để giành quyền nuôi con và chủ định công khai bôi nhọ vợ mình bằng cách tiết lộ vụ dan díu của cô với gã da đen.
Về phần mình, Walter luôn tránh dây dưa với tòa án và pháp luật. Nhiều năm trước, anh dính vào một vụ gây gổ ở quán bar, và hậu quả là anh nhận một bản án tiểu hình và một đêm trong trại giam. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất anh gặp rắc rối. Kể từ đó, anh không dính dáng gì đến hệ thống tư pháp hình sự nữa.
Khi nhận được trát đòi hầu tòa từ chồng của Karen Kelly đòi anh làm chứng tại phiên tòa nơi vợ chồng Kelly sẽ đấu tranh giành quyền nuôi con, Walter biết vụ này sẽ gây cho anh những rắc rối nghiêm trọng. Không thể hỏi ý kiến vợ mình, Minnie, vốn là người tỉnh táo hơn trước những khủng hoảng kiểu này, anh tới tòa án trong tâm trạng thấp thỏm. Luật sư của chồng Kelly yêu cầu Walter bước lên bục nhân chứng, và anh quyết định thừa nhận mình là “bạn” của Karen. Luật sư của Karen phản đối những câu hỏi thô lỗ mà luật sư của chồng cô đặt ra cho Walter về bản chất của tình bạn này, tránh cho anh khỏi phải kể chi tiết. Nhưng khi Walter rời phòng xử, sự giận dữ và thù hận nhằm vào anh hiển hiện rõ ràng. Walter muốn lãng quên sự việc, nhưng những lời đồn thổi lan đi rất nhanh và làm danh tiếng của anh biến đổi. Không còn là anh thợ gỗ chăm chỉ, được người da trắng biết đến thuần túy nhờ tài đốn cây điệu nghệ nữa, Walter giờ đây đã trở thành cái gai trong mắt họ.
Nỗi sợ hãi về tình dục và hôn nhân liên chủng tộc đã bắt rễ sâu trên đất Mỹ. Cuộc hội lưu của chủng tộc và tình dục là một lực lượng mạnh mẽ phá hoại công cuộc Tái thiết thời hậu Nội chiến, duy trì luật Jim Crow suốt một thế kỷ, và nuôi dưỡng nền chính trị phân biệt chủng tộc trong suốt thế kỷ 20. Sau chế độ nô lệ, hệ thống phân rẽ và phân biệt chủng tộc chủ yếu được thiết lập để ngăn chặn những mối quan hệ thân mật như của Walter và Karen - những mối quan hệ mà trên thực tế đã bị pháp luật cấm đoán bởi những đạo luật “chống lai chủng” (từ lai chủng, nguyên văn: miscegenation, bắt đầu được sử dụng vào những năm 1860, khi những người ủng hộ chế độ nô lệ đặt ra thuật ngữ này để reo rắc nỗi sợ hãi đối với tình dục và hôn nhân liên chủng tộc cùng sự pha tạp chủng tộc sẽ xảy ra nếu chế độ nô lệ bị xóa bỏ). Trong vòng hơn một thế kỷ, các nhà chấp pháp ở nhiều cộng đồng miền Nam đã nhận lãnh sứ mệnh điều tra và trừng phạt những gã da đen có quan hệ tình ái với phụ nữ da trắng.
Mặc dù chính quyền liên bang đã cam kết bảo đảm quyền bình đẳng cho những cựu nô lệ được giải phóng trong thời kỳ Tái thiết ngắn ngủi, song chủ nghĩa thượng tôn da trắng và phân rẽ chủng tộc lại tái xuất không lâu sau khi quân đội liên bang rời Alabama trong những năm 1870. Quyền bỏ phiếu của người Mỹ gốc Phi bị tước bỏ, và hàng loạt các đạo luật nghiêm khắc được thực thi để củng cố thứ bậc chủng tộc. Các đạo luật “Thuần nhất chủng tộc” là một phần của kế hoạch phục dựng hệ thống phân rẽ chủng tộc của chế độ nô lệ và tái lập địa vị hèn kém của người Mỹ gốc Phi. Khi hình sự hóa tình dục và hôn nhân liên chủng tộc, các bang miền Nam cũng sử dụng những đạo luật này để hợp thức hóa chủ trương triệt sản cưỡng bức đối với phụ nữ nghèo và thuộc các cộng đồng thiểu số. Ngăn cấm tình dục giữa phụ nữ da trắng và đàn ông da đen trở thành nỗi ám ảnh nặng nề trên khắp miền Nam.
Những năm 1880, một vài năm trước khi hành hình trở thành hình phạt chuẩn đối với các cuộc tình liên chủng tộc, và một thế kỷ trước khi Walter và Karen bắt đầu chuyện tình của họ, Tony Pace, một người đàn ông người Mỹ gốc Phi, và Mary Cox, một phụ nữ da trắng, đã yêu nhau ở Alabama. Họ bị bắt giữ và kết tội, cả hai đều bị tuyên án hai năm tù giam vì vi phạm đạo luật thuần nhất chủng tộc của bang Alabama. Luật sư John Tompkins, một trong số ít các chuyên gia da trắng coi các đạo luật thuần nhất chủng tộc là vi hiến, đã đồng ý đại diện cho Tony và Mary để kháng án. Tòa án Tối cao bang Alabama xem xét lại vụ việc vào năm 1882. Với một lập luận được viện dẫn thường xuyên trong nhiều thập kỷ sau, Tòa án Tối cao Alabama tuyên y án, sử dụng thứ ngôn ngữ đầy thù nghịch đối với quan hệ tình cảm liên chủng tộc.
Khuynh hướng phạm tội [2] [ngoại tình hay thông dâm] sẽ càng xấu xa hơn khi xảy ra giữa những người thuộc hai chủng tộc khác nhau... Hậu quả của nó có thể là sự pha trộn hai chủng tộc, sản sinh ra một dân số lai tạp và một nền văn minh suy đồi. Việc ngăn chặn tệ nạn này được điều chỉnh bởi một chính sách đúng đắn, hướng đến lợi ích cao nhất của xã hội và chính phủ.
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã xem xét lại quyết định của tòa án Alabama. Sử dụng thứ ngôn ngữ “tách biệt nhưng bình đẳng”* báo trước phần nào quyết định tai tiếng của Tối cao Pháp viện trong vụ Plessy v. Ferguson * hai mươi năm sau đó, Tối cao Pháp viện nhất trí ủng hộ bang Alabama cấm tình dục và hôn nhân liên chủng tộc, và tuyên y án đối với Tony Pace và Mary Cox. Nối tiếp quyết định của Tối cao Pháp viện, nhiều bang khác cũng thông qua các đạo luật thuần nhất chủng tộc, quy định hành vi kết hôn hoặc quan hệ tình dục với người da trắng của người Mỹ gốc Phi, thậm chí cả người Mỹ bản địa và người Mỹ gốc Á, là phạm pháp. Ngoài miền Nam, lệnh cấm này cũng được áp dụng khá phổ biến ở miền Tây và Trung Tây. Năm 1921, bang Idaho ra lệnh cấm hôn nhân và tình dục liên chủng tộc [3] giữa người da trắng và người da đen, mặc dù 99,8% dân số bang lúc đó không phải là người da đen.
Nguyên văn: Separate but equal, là một học thuyết trong luật hiến pháp Hoa Kỳ theo đó sự phân rẽ chủng tộc không vi phạm Tu chính án 14 vốn bảo đảm “sự bảo vệ bình đẳng” cho mọi công dân trước luật pháp. (ND.)
Cách viết tên vụ án trong tiếng Anh, bao gồm tên của những bên liên quan trong vụ án: tên đứng trước là tên nguyên đơn, tên đứng sau là tên bị đơn, v. là viết tắt của từ versus, nghĩa là kiện, chống lại. Trong cuốn sách này, tên các vụ án được giữ nguyên văn tiếng Anh để phù hợp với quy ước quốc tế và cũng để bạn đọc dễ tra cứu. (ND.)
Mãi tới năm 1967 [4] , Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ mới tuyên bố các đạo luật chống lai chủng là vi hiến trong phán quyết Loving V. Virginia, nhưng sự cấm cản hôn nhân liên chủng tộc vẫn tồn tại dai dẳng sau quyết định mang tính bước ngoặt đó. Năm 1986 khi Walter gặp Karen Kelly, hiến pháp bang Alabama vẫn cấm hành vi này. Điều 102 của hiến pháp bang ghi như sau:
Cơ quan lập pháp sẽ không bao giờ thông qua bất cứ một đạo luật nào [5] cho phép hoặc hợp pháp hóa hôn nhân giữa bất cứ một người da trắng nào với một người da đen hoặc con cháu của một người da đen.
Không ai trông đợi một người có cuộc sống tương đối độc lập và thành công như Walter phải tuân thủ mọi phép tắc. Thỉnh thoảng say rượu, ẩu đả, hay ngoại tình - những hành động bồng bột đó không nghiêm trọng đến nỗi có thể hủy hoại thanh danh hay vị thế của một người đàn ông da đen trung thực, chăm chỉ, và đáng tin cậy. Nhưng đối với nhiều người da trắng, một người đàn ông da đen yêu đương liên chủng tộc, đặc biệt với một phụ nữ da trắng đã có chồng, là một hành vi không thể dung thứ. Ở miền Nam, những tội trạng như giết người hoặc hành hung có thể khiến bạn ngồi tù, nhưng tình dục liên chủng tộc lại là một loại hiểm họa đặc biệt mà hình phạt dành cho nó vô cùng khắc nghiệt. Hàng trăm đàn ông da đen đã bị hành hình bởi những kẻ cực đoan chỉ vì những cáo buộc vô căn cứ rằng họ có dấu hiệu thân mật với phụ nữ da trắng.
Walter không biết gì về lịch sử luật pháp, nhưng giống như tất cả những người da đen ở Alabama, anh luôn khắc cốt ghi tâm mối họa từ tình cảm liên chủng tộc. Chỉ riêng ở hạt Moroe, có khoảng chục người da đen đã bị hành hình không thông qua xét xử [6] kể từ khi hạt này chính thức thành lập. Hàng chục vụ hành hình tương tự đã xảy ra ở những hạt lân cận, và con số này mới chỉ thể hiện một phần nhỏ tác động của chúng. Đó hẳn là những hành động khủng bố, gieo rắc nỗi sợ hãi rằng bất cứ tiếp xúc nào với người da trắng, bất cứ va vấp xã hội nào với người khác chủng tộc, bất cứ sự xúc phạm vô ý nào, bất cứ ánh nhìn hay lời bình luận dại dột nào cũng đưa đến nguy cơ phải chịu hình phạt ghê rợn chết người.
Từ khi còn nhỏ, Walter đã nghe cha mẹ và người thân nói về hành hình. Hồi anh mười hai tuổi, người ta tìm thấy xác của Russell Charley, một người đàn ông da đen ở hạt Monroe, bị treo trên cây ở Vredenburgh, Alabama. Họ tin rằng Charley đã bị giết chết vì tội yêu đương liên chủng tộc. Walter nhớ như in nỗi khiếp sợ lan khắp cộng đồng người da đen ở hạt Monroe khi thấy cái xác bất động, lỗ chỗ vết đạn của Charley lủng lẳng trên cây.
Và lúc này Walter cảm thấy tất cả mọi người ở hạt Monroe đang nói về quan hệ của anh với Karen Kelly. Chưa có điều gì từng làm anh lo lắng đến thế.
Vài tuần sau đó, một vụ việc khủng khiếp hơn làm rúng động toàn Monroeville. Sáng muộn ngày 1 tháng Mười một năm 1986, Ronda Morrison, cô con gái xinh đẹp của một gia đình gia giáo trong vùng, được phát hiện nằm chết trên sàn hiệu giặt là Jackson, nơi cô sinh viên mười tám tuổi đang làm việc. Cô bị bắn ba phát đạn vào lưng.
Án mạng hiếm khi xảy ra ở Monroeville. Một vụ giết người cướp của tại một cửa hiệu nổi tiếng ở trung tâm thị trấn như thế này là chưa từng có tiền lệ. Vụ giết hại Ronda không giống với bất cứ điều gì mà người dân nơi đây từng chứng kiến. Cô là con một, được nhiều người biết tới và không có bất kỳ một vết nhơ nào. Cô là mẫu người mà cả cộng đồng da trắng ở đây yêu mến, coi như con gái cưng. Ban đầu cảnh sát tin rằng không ai trong cộng đồng, dù da trắng hay da đen, có thể ra tay tàn bạo như vậy.
Vào ngày thi thể Ronda Morrison được phát hiện, người ta trông thấy hai người đàn ông gốc Latin đi tìm việc làm ở Monroeville, và họ đã trở thành những nghi phạm đầu tiên. Cảnh sát truy bắt họ đến tận bang Florida, nhưng rồi kết luận rằng họ không phải là kẻ gây án. Người chủ cũ của cửa hiệu, một người đàn ông da trắng đứng tuổi tên là Miles Jackson, bắt đầu bị tình nghi, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy ông ta là thủ phạm. Người chủ hiện tại, Rick Blair, bị thẩm vấn nhưng cũng được coi là ngoại phạm. Chỉ trong vòng vài tuần, cảnh sát đã cạn kiệt manh mối.
Người dân Monroe bắt đầu bàn tán về sự kém cỏi của cảnh sát. Vài tháng sau, khi vẫn không có vụ bắt giữ nào, người ta càng bàn tán nhiều hơn; những lời chỉ trích công khai đối với cảnh sát, cảnh sát trưởng và công tố viên được đăng trên báo chí và phát đi trên các kênh phát thanh địa phương. Tom Tate được bầu làm cảnh sát trưởng của hạt sau khi vụ án mạng xảy ra, và người dân bắt đầu đặt câu hỏi liệu ông ta có đang làm tốt nhiệm vụ của mình. Sở điều tra bang Alabama (ABI) được huy động để điều tra vụ án mạng, nhưng kết quả không khả quan hơn so với các nỗ lực trước đó của cảnh sát địa phương. Người dân Monroeville trở nên hoang mang. Các công ty trong vùng treo giải thưởng hàng nghìn đô-la cho những thông tin về thủ phạm. Doanh thu từ súng, vốn dĩ luôn dồi dào, cũng tăng vọt.
Trong khi đó, Walter phải vật lộn với những vấn đề của riêng mình. Anh đã cố gắng hàng tuần liền để chấm dứt quan hệ với Karen Kelly. Các thủ tục giành quyền nuôi con và scandal tình ái động trời đã tàn phá cô. Cô làm quen với ma túy và gần như sụp đổ hoàn toàn. Cô bắt đầu qua lại với Ralph Myers, một người đàn ông da trắng có gương mặt biến dạng xấu xí và một đống thành tích bất hảo như một biểu trưng cho sự sa ngã của cô. Việc Karen qua lại với Ralph là bất bình thường, nhưng cô đang tuột dốc thảm hại đến nỗi gia đình và bạn bè không thể hiểu nổi những việc cô làm nữa. Quan hệ với Ralph đã nhấn chìm Karen, cô không dừng lại ở scandal và ma túy mà còn dấn bước tới những hành vi phạm tội nghiêm trọng. Họ cùng nhau dính dáng đến các cuộc buôn bán ma túy và vụ sát hại Vickie Lynn Pittman, một phụ nữ trẻ sống ở hạt Escambia lân cận.
Cảnh sát sớm điều tra thành công vụ sát hại Pittman, nhanh chóng kết luận rằng Ralph Myers có liên can. Khi thẩm vấn Ralph, cảnh sát phát hiện thấy tâm lý của y cũng phức tạp như những vết sẹo chằng chịt trên người y. Ralph đa cảm, yếu ớt và khao khát sự chú ý - công cụ phòng thân hiệu quả duy nhất của y là kỹ năng lôi kéo và đánh lạc hướng người khác. Ralph tin rằng tất cả những điều y nói đều hoành tráng, gây sốc và giàu tình tiết. Hồi nhỏ khi sống trong trại trẻ cơ nhỡ, y đã bị bỏng nặng trong một vụ hỏa hoạn. Những vết bỏng để lại nhiều sẹo, làm biến dạng phần mặt và cổ đến nỗi y đã phải trải qua rất nhiều lần phẫu thuật để phục hồi những chức năng cơ bản. Y đã quen với việc bị người lạ nhìn chằm chằm vào đám sẹo với ánh mắt thương hại. Bị ruồng bỏ và sống thảm hại bên lề xã hội, song y cố gắng bù đắp cho điều đó bằng cách tỏ vẻ biết hết nội tình của mọi câu chuyện bí ẩn trên đời.
Ban đầu Myers phủ nhận mọi liên can trực tiếp tới vụ sát hại Pittman, sau đó y lại thừa nhận mình vô tình có liên đới, nhưng rồi y nhanh chóng chuyển sang buộc tội những nhân vật đặc biệt khác trong vùng. Lúc đầu y buộc tội một người da đen có quá khứ bất hảo tên là Isaac Dailey, nhưng cảnh sát nhanh chóng phát hiện ra rằng Dailey bị giam trong trại vào đêm xảy ra án mạng. Sau đó Myers thú nhận mình đã bịa chuyện vì sát thủ thực sự không ai khác chính là cảnh sát trưởng một hạt gần đó.
Không ngờ các nhân viên ABI lại xem xét nghiêm túc cáo buộc nghe có vẻ điên rồ này. Họ tiếp tục thẩm vấn Myers, nhưng Myers càng nói, câu chuyện của y càng có vẻ khó tin. Các viên chức bắt đầu nghi vấn Myers chính là sát thủ duy nhất và y chỉ đang cố gắng lôi kéo người khác vào câu chuyện nhằm che giấu tội lỗi của mình.
Mặc dù vụ giết hại Vickie Pittman là tin tức nóng hổi, nhưng nó vẫn không thể so sánh với cái chết bí ẩn chưa có lời giải của Ronda Morrison. Vickie sinh ra trong một gia đình da trắng nghèo có vài người đi tù, và cô không có được vị thế như Ronda Morrison. Vụ sát hại Morrison vẫn là tâm điểm chú ý của dư luận suốt hàng tháng trời.
Ralph Myers không biết chữ, nhưng y biết vụ án Morrison mới là vụ khiến các nhà điều tra bận tâm. Khi lời cáo buộc nhằm vào cảnh sát trưởng tỏ ra không đi đến đâu, y lại thay đổi cốt truyện một lần nữa và khai với điều tra viên rằng y đã tham gia vào vụ giết Vickie Pittman cùng với Karen Kelly và gã tình nhân da đen Walter McMillian của cô. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Y cũng tố với cảnh sát rằng McMillian cũng là thủ phạm gây ra cái chết của Ronda Morrison. Cáo buộc này thu hút sự chú ý mạnh mẽ của các nhà chấp pháp.
Các vị này nhanh chóng nhận ra sự thật hiển nhiên rằng Walter McMillian chưa bao giờ gặp Ralph Myers, huống hồ cùng y gây ra hai vụ giết người. Để kiểm tra liệu có đúng hai người đã thông đồng với nhau không, một nhân viên ABI yêu cầu Myers đến gặp Walter McMillian tại một cửa hiệu trong khi các đặc vụ giám sát tương tác giữa họ. Tính đến thời điểm đó, đã vài tháng trôi qua kể từ khi Ronda Morrison bị giết hại.
Khi bước vào hiệu, Myers không thể xác định được ai là Walter McMillian trong số vài người đàn ông da đen có mặt ở đó (y phải nhờ chủ tiệm chỉ giúp ai là McMillian). Sau đó y đưa cho McMillian một mẩu giấy nhắn được cho là do Karen Kelly viết. Theo các nhân chứng, Walter có vẻ bối rối, vừa vì Myers, người mà anh chưa bao giờ gặp, vừa vì mẩu giấy nhắn. Walter vứt mẩu giấy đi và quay lại tiếp tục công việc đang làm. Anh không chú ý gì mấy đến cuộc gặp gỡ kỳ quặc này.
Các nhân viên giám sát của ABI không tìm được bằng chứng gì về mối quan hệ của Myers và McMillian; ngược lại có nhiều bằng chứng cho thấy họ chưa bao giờ gặp nhau. Tuy nhiên, họ vẫn kiên trì với giả thuyết McMillian là thủ phạm. Thời gian cứ trôi - bảy tháng đã qua, tới lúc này - cộng đồng vẫn sợ hãi và phẫn nộ. Những lời chỉ trích ngày càng gay gắt hơn. Người dân khẩn thiết mong muốn thủ phạm phải bị bắt giữ.
Cảnh sát trưởng Tom Tate của hạt Monroe không có nhiều kinh nghiệm chấp pháp. Ông ta tự miêu tả mình là người địa phương chính cống và rất hãnh diện vì chưa bao giờ đi đâu xa quá khỏi Monroeville. Bấy giờ, bốn tháng đã trôi qua kể từ khi nhậm chức cảnh sát trưởng, Tom Tate đang phải đối mặt với một vụ giết người nan giải và áp lực mạnh mẽ từ công chúng. Khi Myers kể với cảnh sát về quan hệ giữa McMillian và Karen Kelly, có thể Tate đã biết rõ mối tình liên chủng tộc tai tiếng này sau khi phiên tòa giành quyền nuôi con của vợ chồng Kelly thu hút nhiều lời bàn tán. Nhưng không có bằng chứng nào chống lại McMillian - ngoại trừ việc anh là một người Mỹ gốc Phi có dính đến một vụ ngoại tình liên chủng tộc. Điều này có nghĩa anh là một kẻ liều lĩnh và nguy hiểm, cho dù anh không có tiền án tiền sự và có danh tiếng tốt. Có lẽ bằng chứng như vậy là đủ.