Chương hai ĐỨNG LÊN
Đã tới lúc tôi cần đi tìm một căn hộ riêng cho mình sau khi ngủ nhờ trên chiếc đi văng trong phòng khách của Steve Bright suốt một năm rưỡi hành nghề luật sư ở Atlanta. Khi tôi mới tới Atlanta làm việc, đội ngũ ở đây đang phải vật lộn xử lý hết cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác. Tôi ngay lập tức bị ném vào các vụ kiện tụng với thời hạn sát sạt và không có thời gian để tìm chỗ ở - và mức lương 14.000 đô-la một năm cũng chẳng chừa cho tôi bao nhiêu để thuê nhà - vì vậy Steve tốt bụng cho tôi ở nhờ. Sống trong căn hộ nhỏ của Steve ở khu công viên Grant Park, tôi có thể liên tục hỏi anh về những thách thức và vấn đề phức tạp mà các hồ sơ và thân chủ của chúng tôi đặt ra. Hàng ngày chúng tôi mổ xẻ những vấn đề lớn nhỏ từ sáng tới tận đêm khuya. Việc đó làm tôi rất hứng thú. Nhưng khi một người bạn học cùng trường luật, Charles Bliss, chuyển tới Atlanta để làm việc cho Hội Trợ giúp Pháp lý Atlanta, chúng tôi tính rằng nếu gộp khoản lương khiêm tốn của cả hai thằng lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền thuê một căn hộ giá rẻ. Charlie và tôi học cùng khóa ở trường Luật Harvard và đã sống cùng ký túc xá hồi năm đầu đại học. Là một cậu da trắng quê ở North Carolina, cậu dường như có chung với tôi nỗi hoang mang về những trải nghiệm ở trường luật. Chúng tôi thường trốn đến phòng gym của trường để chơi bóng rổ và cố gắng giải nghĩa cuộc đời.
Charlie và tôi tìm thấy một chỗ ở gần công viên Inman của Atlanta. Một năm sau, tiền thuê nhà tăng khiến chúng tôi phải chuyển tới khu Virginia Highlands của thành phố. Chúng tôi ở đây được một năm thì tiền thuê nhà lại tăng, buộc chúng tôi chuyển tới khu Midtown Atlanta. Căn hộ hai phòng ngủ ở Midtown của tôi và Charlie là căn hộ đẹp nhất trong khu phố đẹp nhất mà chúng tôi từng kiếm được. Tuy nhiên, vì ngập đầu với khối lượng vụ án ở Alabama, tôi không ở đây nhiều.
Kế hoạch triển khai một dự án pháp lý mới đại diện cho các tử tù ở Alabama của tôi đã bắt đầu thành hình. Hy vọng của tôi là thực hiện tốt dự án ở Alabama và cuối cùng quay lại sống ở Atlanta. Danh sách dài các hồ sơ tử hình mới ở Alabama buộc tôi phải làm việc điên cuồng, lái xe đi đi về về giữa hai nơi, đồng thời phải cố gắng giải quyết một vài vụ liên quan đến điều kiện giam giữ mà tôi đã khởi kiện tại các bang khác nhau ở miền Nam.
Điều kiện giam giữ tù nhân ở khắp nơi ngày một xuống cấp. Vào thập niên 1970, những cuộc bạo loạn ở nhà tù Attica đã thu hút sự chú ý của cả nước đến tình trạng ngược đãi khủng khiếp trong các nhà tù. Sự việc tù nhân giành quyền kiểm soát Attica đã phơi bày những biện pháp tàn nhẫn thường được áp dụng trong các nhà tù, và biệt giam là một ví dụ. Khi bị biệt giam, tù nhân sẽ bị cô lập trong một không gian chật chội hàng tuần hoặc hàng tháng liền. Ở một số trại, tù nhân bị biệt giam trong “hộp mồ hôi,” tức một hốc nhỏ bằng cỡ chiếc quan tài hoặc một cái bốt, đặt ở nơi mà tù nhân phải chịu cái nóng suốt nhiều ngày, nhiều tuần trời. Có trại, tù nhân sẽ bị tra tấn bằng roi điện khi vi phạm nội quy. Có trại, tù nhân lại bị xích vào “cọc ngựa” với hai cánh tay bị trói chặt trên đầu, và họ phải đứng hàng giờ trong tư thế đau đớn đó. Đây là một trong nhiều hình phạt nguy hiểm và tàn bạo đối với tù nhân mà mãi tới năm 2002 mới bị coi là vi hiến. Điều kiện sống và ăn uống tồi tệ là chuyện rất đỗi phổ biến.
Cái chết của bốn mươi hai người trong những ngày cuối của cuộc nổi dậy ở nhà tù Attica đã phô bày hiểm họa của tình trạng ngược đãi và những điều kiện vô nhân đạo trong nhà tù. Nhờ sự quan tâm ngày càng mạnh mẽ của công chúng, một số phán quyết đã được Tối cao Pháp viện đưa ra nhằm cung cấp cho tù nhân sự bảo vệ cơ bản theo quy trình tố tụng công bằng. Cảnh giác trước nguy cơ xảy ra bạo lực, một vài bang đã tiến hành cải tổ, loại bỏ những biện pháp tàn bạo nhất. Tuy nhiên, một thập kỷ sau, dân số nhà tù bùng nổ, khiến điều kiện giam giữ xuống cấp trở thành một hệ quả không thể tránh khỏi.
Chúng tôi nhận được rất nhiều thư khiếu nại của tù nhân về điều kiện khủng khiếp trong tù. Các tù nhân cho biết họ bị các giám thị đánh đập, bị làm nhục và chịu các hình thức trừng phạt hạ thấp nhân phẩm khác. Số hồ sơ có liên quan tới các tù nhân tử vong trong buồng giam được gửi tới văn phòng chúng tôi tăng lên đến con số báo động.
Tôi đã giải quyết một số vụ như vậy, trong đó có một vụ ở Gadsden, Alabama. Các quản giáo ở đây tuyên bố một người đàn ông da đen ba mươi chín tuổi chết vì nguyên nhân tự nhiên sau khi anh này bị bắt giữ vì vi phạm luật giao thông. Gia đình anh khẳng định, anh bị cảnh sát và quản giáo đánh đập, đồng thời từ chối cung cấp bình hít và thuốc hen suyễn mặc cho anh van xin. Tôi đã dành rất nhiều thời gian ở bên gia đình đang chìm đắm trong đau thương của Lourida Ruffin, và được nghe họ kể anh là một người cha giàu tình cảm ra sao, tốt bụng như thế nào, nhưng người đời đã có những thành kiến sai lệch đến đâu về anh. Cao gần hai mét và nặng hơn 110 kg, anh trông lừng lững dễ sợ, nhưng vợ và mẹ anh quả quyết anh là người nhẹ nhàng, hiền lành.
Một đêm nọ, cảnh sát Gadsden dừng xe của Ruffin lại vì cho rằng xe của anh đã chuyển hướng đột ngột. Cảnh sát phát hiện ra giấy phép lái xe của anh đã hết hạn từ mấy tuần trước, vì thế anh bị tạm giữ. Khi tới trại giam thành phố trong tình trạng bầm dập, máu me, Ruffin kể với các tù nhân khác rằng anh đã bị đánh đập dã man và đang rất cần bình hít và thuốc hen. Khi tôi bắt tay điều tra vụ việc, các tù nhân trong trại kể cho tôi hay họ trông thấy các cảnh sát đánh Ruffin trước khi nhốt anh vào buồng biệt giam. Sau đó vài giờ, họ thấy nhân viên y tế cáng xác anh ra.
Mặc dù đã có những cuộc cải cách trong thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, song tình trạng tù nhân chết trong trại tạm giam và nhà tù vẫn rất nghiêm trọng. Tự tử, bạo lực giữa các tù nhân [1] , điều kiện chăm sóc y tế nghèo nàn, sự ngược đãi của nhân viên nhà tù và bạo lực của giám ngục đã tước đi sinh mạng của hàng trăm tù nhân mỗi năm.
Tôi sớm nhận được các khiếu nại khác từ người dân Gadsden. Cha mẹ của một thiếu niên da đen bị cảnh sát bắn chết kể với tôi câu chuyện của họ. Con trai họ bị dừng xe lại vì lỗi vượt đèn đỏ. Cậu bé mới lái xe và rất hoảng sợ khi thấy cảnh sát tiếp cận. Gia đình cho biết cậu đã cúi xuống sàn xe, với lấy chiếc túi đựng dụng cụ tập thể hình để tìm tấm bằng lái mà cậu mới được cấp. Cảnh sát tưởng cậu đang tìm vũ khí, và cậu thiếu niên bị bắn chết ngay khi đang ngồi trên xe. Về sau, không món vũ khí nào được tìm thấy. Viên cảnh sát cho rằng cậu thiếu niên có những dấu hiệu đe dọa, cậu lái xe quá nhanh và có thái độ hung hăng. Trong câu chuyện cha mẹ cậu kể với tôi, con trai họ là đứa trẻ hay lo lắng và yếu bóng vía, nhưng lại ngoan ngoãn và không bao giờ làm hại ai. Cậu rất mộ đạo và là một học sinh ngoan - tiếng tốt đó đã giúp gia đình thuyết phục được các nhà hoạt động dân quyền thúc đẩy cuộc điều tra về cái chết của cậu. Đơn khẩn cầu của họ được gửi đến văn phòng chúng tôi, và tôi đã điều tra về vụ việc này cùng các vụ liên quan đến điều kiện giam giữ.
Vừa tìm hiểu luật hình sự và dân sự bang Alabama, vừa giải quyết các bản án tử hình ở một số tiểu bang khác khiến tôi vô cùng bận rộn. Đồng thời, các khiếu nại về điều kiện giam giữ cũng buộc tôi thường xuyên phải lái xe đường dài nhiều giờ liền. Chiếc xe Honda Civic đời 1975 sương gió của tôi phải vật lộn ra trò để sinh tồn. Chiếc radio trên xe đã trục trặc từ năm ngoái. Nó chỉ hoạt động khi tôi lao phải ổ trâu hoặc phanh gấp, làm xe rung mạnh và kết nối trở lại.
Sau ba giờ đồng hồ lái xe từ Gadsden về vào buổi sớm rồi chạy thẳng tới văn phòng, ngày hôm đó, tôi lại từ chỗ làm về nhà lúc gần nửa đêm. Tôi lên xe, và mừng rỡ khi chiếc radio tự nhiên bật lên ngay khi tôi khởi động. Chỉ sau hơn ba năm làm nghề luật, tôi đã trở thành kiểu người mà chỉ một việc nho nhỏ như vậy cũng làm chỉ số hạnh phúc của tôi tăng vọt. Đêm hôm đó, không chỉ có chiếc radio hoạt động trở lại, mà nhà đài còn đang phát một chương trình hồi tưởng về thành tựu âm nhạc của nhóm Sly and the Family Stone. Nhạc Sly đã đi cùng tôi suốt thuở thiếu thời. Tôi hân hoan lướt qua các con phố Atlanta trong tiếng nhạc của “Dance to the Music” (Nhảy theo điệu nhạc), “Everybody Is a Star” (Mỗi người đều là một ngôi sao) và “Family Affair” (Chuyện gia đình).
Căn hộ của chúng tôi ở Midtown Atlanta nằm trên một con phố đông đúc dân cư. Có những đêm tôi phải đi xa tới nửa phố hoặc thậm chí phải xuống tít tận cuối phố mới tìm được chỗ đậu xe. Nhưng đêm nay tôi gặp may. Tôi có thể đậu chiếc Civic lọc xọc của mình cách nhà chỉ vài bước chân. Vừa khi ấy, Sly bắt đầu hát bài “Hot Fun in the Summertime” (Hè vui nồng cháy). Đêm đã khuya và tôi cần đi ngủ, nhưng giây phút này êm đềm quá đỗi, tôi không nỡ bỏ qua, nên tôi ngồi lại trong xe nghe nhạc. Mỗi lần một khúc nhạc kết thúc là tôi lại tự nhủ mình nên vào nhà, nhưng rồi một bài hát quyến rũ khác cất lên, níu chân tôi lại. Tôi đang hát theo bài “Stand!” (Đứng lên!), khúc “Sly ca” bay bổng với đoạn kết mang âm hưởng phúc âm tuyệt hay thì thấy ánh đèn loang loáng của xe cảnh sát tiến lại gần. Tôi đậu xe chỉ cách nhà một đoạn, vì vậy tôi nghĩ rằng xe cảnh sát chỉ đi ngang qua vì một sự vụ cấp bách nào đó. Khi họ dừng lại cách tôi chừng sáu mét, tôi mới tự hỏi chuyện gì đang xảy ra.
Đoạn phố chỗ nhà chúng tôi chỉ có một chiều. Xe tôi đang đậu đúng chiều, còn xe cảnh sát tiến lại từ chiều bên kia. Tôi nhận thấy đó không phải một chiếc xe cảnh sát thông thường, mà là một trong những chiếc xe đặc biệt của đơn vị chiến thuật SWAT Atlanta. Các sĩ quan có một chiếc đèn rọi gắn trên xe; chỉ đến lúc họ chĩa nó vào tôi, tôi mới hiểu họ ở đây là vì mình nhưng không thể tưởng tượng nổi lý do. Tôi đã đậu xe trên phố khoảng mười lăm phút để nghe Sly. Radio chỉ có một loa hoạt động được, âm thanh không phải tốt lắm. Tôi biết tiếng nhạc không thể nghe thấy được từ bên ngoài.
Các sĩ quan ngồi đó, họ cho đèn chiếu thẳng vào tôi khoảng một phút. Tôi tắt radio trước khi bài “Stand!” kết thúc. Trên xe là các tập hồ sơ vụ Lourida Ruffin và vụ cậu bé bị bắn chết ở Gadsden. Cuối cùng, hai sĩ quan bước ra khỏi xe. Tôi lập tức nhận thấy họ không mặc bộ đồng phục thông thường của cảnh sát Atlanta, mà phục trang kiểu quân đội, bốt đen, quần và áo khoác đen dữ dằn.
Tôi quyết định ra khỏi xe để về nhà. Mặc dù đang bị họ nhìn chằm chằm, tôi vẫn hy vọng rằng họ ở đây để làm việc gì đó không liên quan đến mình. Hoặc giả như họ tưởng tôi đang gặp chuyện gì không hay, tôi sẽ bảo họ rằng mọi việc đều ổn cả. Tôi không mảy may nghĩ rằng ra khỏi xe là sai lầm hoặc nguy hiểm.
Ngay khi tôi mở cửa xe và bước ra ngoài, một sĩ quan tiến lại gần và chĩa vũ khí vào tôi. Lúc đó chắc trông tôi hoảng hốt lắm.
Theo bản năng, ý nghĩ đầu tiên của tôi là bỏ chạy. Tôi nhanh chóng quyết định rằng đó không phải là hành động khôn ngoan. Rồi một ý nghĩ lóe lên trong đầu tôi rằng có thể họ không phải là cảnh sát thật.
“Cứ nhúc nhích đi rồi tao sẽ cho bay đầu mày luôn!” Viên sĩ quan hét lớn, nhưng tôi không thể hiểu nổi anh ta muốn nói gì. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh; đây là lần đầu tiên trong đời có người chĩa súng vào tôi.
“Giơ tay lên!” Viên cảnh sát này là một người da trắng, cao tầm như tôi. Trong bóng tối, tôi chỉ có thể nhìn rõ bộ đồng phục đen và vũ khí của anh ta.
Tôi giơ tay lên và nhận thấy anh ta có vẻ căng thẳng. Tôi không nhớ mình đã quyết định cất lời như thế nào, tôi chỉ nhớ mấy từ đã tuôn ra từ miệng tôi: “Được rồi. Được rồi.”
Giọng tôi chắc run lắm vì lúc ấy tôi đang rất hoảng.
Tôi cứ nói đi nói lại mấy từ đó. “Được rồi, được rồi.” Cuối cùng tôi nói, “Tôi sống ở đây, đây là căn hộ của tôi.”
Tôi nhìn viên sĩ quan đứng cách tôi chỉ tầm bốn mét và đang chĩa súng vào đầu tôi. Hình như tôi thấy tay anh ta run rẩy.
Tôi tiếp tục nói bằng giọng bình tĩnh nhất có thể: “Được rồi, được rồi.”
Viên sĩ quan thứ hai thận trọng nhích từng bước về phía tôi. Anh ta chưa rút vũ khí. Anh ta bước lên vỉa hè, đi vòng ra đằng sau xe rồi đứng sau lưng tôi trong khi người còn lại tiếp tục chĩa súng về phía tôi. Anh ta túm chặt cánh tay tôi và đẩy ghì tôi vào đuôi xe. Viên sĩ quan kia hạ súng.
“Anh đang làm gì ở đây?” viên sĩ quan thứ hai hỏi. Người này trông có vẻ nhiều tuổi hơn người đã rút súng. Giọng anh ta có vẻ giận dữ.
“Tôi sống ở đây. Tôi mới chuyển về đây vài tháng trước. Bạn cùng phòng của tôi đang ở trong nhà. Các anh có thể hỏi cậu ta.” Tôi ghét cái giọng sợ hãi run rẩy của mình.
“Anh đang làm gì ngoài đường?”
“Tôi chỉ đang nghe radio thôi.” Anh ta đặt tay tôi lên xe và đẩy ghì tôi vào đuôi xe. Ánh đèn chói gắt của chiếc xe SWAT vẫn rọi thẳng vào tôi. Tôi thấy dân tình bắt đầu bật đèn và ló ra khỏi cửa. Nhà hàng xóm thức dậy, một ông một bà da trắng trung tuổi bước ra ngoài, nhìn tôi chằm chằm lúc tôi bị ghì vào xe.
Viên sĩ quan đòi xem giấy phép lái xe nhưng không cho tôi nhúc nhích tay chân để lấy nó. Tôi bảo giấy phép lái xe ở trong túi quần sau, và anh ta móc chiếc ví khỏi quần tôi. Viên sĩ quan kia chui vào trong xe của tôi, lục lọi giấy tờ. Tôi biết anh ta không có lý do chính đáng để vào xe tôi và hành vi lục soát của anh ta là trái luật. Tôi đang định cất lời thì thấy anh ta mở ngăn đựng đồ linh tinh. Khám xét đồ đạc trong một chiếc xe đang đậu là hoàn toàn bất hợp pháp. Tôi nhận thấy anh ta không để ý gì đến luật, nên có nói cũng bằng thừa.
Xe tôi không có gì hay ho. Không ma túy, không rượu, thuốc lá cũng không. Tôi để một túi to có kẹo M&M và kẹo cao su Bazooka trong ngăn đựng đồ linh tinh để chống đói mỗi khi không kịp ăn uống tử tế. Trong túi chỉ còn vài viên M&M, nhưng viên sĩ quan kiểm tra rất cẩn thận. Anh ta thò mũi vào túi kẹo ngửi ngửi trước khi vứt trả về chỗ cũ. Thế là xong, tôi sẽ không thể ăn mấy viên M&M đó nữa rồi.
Tôi sống ở địa chỉ mới này chưa bao lâu để lấy bằng lái xe mới, vì thế địa chỉ trên bằng lái của tôi không khớp với chỗ ở hiện tại. Không có quy định nào về việc cập nhật thông tin trên bằng lái, nhưng điều đó vẫn khiến viên sĩ quan giữ tôi lại thêm mười phút nữa trong khi anh ta quay lại xe cảnh sát để tìm hiểu thêm về tôi. Láng giềng của tôi mỗi lúc một bạo dạn hơn. Mặc dù đã muộn, nhưng mọi người vẫn ra khỏi nhà để xem. Tôi nghe thấy họ nói về tất cả những vụ trộm cắp trong khu phố. Có một bà già da trắng rất mạnh mồm, lớn tiếng yêu cầu cảnh sát thẩm vấn tôi về những món đồ bị mất trộm của bà.
“Hỏi hắn về cái radio và máy hút bụi của tôi đi!” Một bà khác hỏi về con mèo đã mất tích ba ngày. Tôi tiếp tục chờ đèn nhà mình bật sáng, chờ Charlie bước ra và giúp tôi. Cậu đang hẹn hò với một cô gái làm cùng ở trung tâm Hỗ trợ Pháp lý và nhiều khi ngủ lại nhà cô ấy. Có vẻ như đêm đó cậu ta không có ở nhà.
Cuối cùng, viên sĩ quan quay lại và nói với đồng nghiệp: “Họ không có thông tin gì về gã này.” Anh ta tỏ ra thất vọng.
Tôi trấn tĩnh lại và nhấc tay mình khỏi xe. “Loạn quá. Tôi sống ở đây. Các anh không nên làm như thế này. Tại sao các anh làm thế?”
Viên sĩ quan lớn tuổi cau mày nhìn tôi. “Có người gọi điện thông báo về một nghi phạm trộm cắp. Khu này có nhiều vụ trộm lắm.” Anh ta nhe răng cười. “Chúng tôi sẽ để anh đi. Sướng nhé,” anh ta nói.
Rồi họ cất bước, chui vào chiếc SWAT và lái đi. Những người láng giềng nhìn tôi lần cuối trước khi quay vào nhà. Tôi không biết mình nên lao nhanh về để chứng minh cho họ thấy tôi là người ở đây, hay chờ cho họ về hết để không ai biết “nghi phạm” sống ở đâu. Cuối cùng, tôi quyết định đứng lại chờ.
Tôi thu dọn các loại giấy tờ mà cảnh sát đã lục tung tóe khắp trong xe và trên vỉa hè. Tôi bực bội ném túi M&M vào thùng rác bên lề đường, rồi đi về căn hộ của mình. Tôi thở phào, Charlie đang ở nhà. Tôi đánh thức cậu ta để kể chuyện.
“Bọn họ còn chả thèm xin lỗi lấy một lời,” tôi nói. Charlie chia sẻ cảm giác phẫn nộ của tôi nhưng rồi cậu ngủ lại ngay. Tôi thì không thể ngủ được.
Sáng hôm sau, tôi kể cho Steve nghe vụ việc. Anh rất tức giận và giục tội nộp đơn khiếu nại lên Sở Cảnh sát Atlanta. Một số người ở văn phòng nói tôi nên giải thích trong đơn rằng mình là một luật sư dân quyền đang giải quyết các vụ việc cảnh sát sai phạm. Tôi cảm thấy không ai cần đến những chức danh kiểu như vậy thì mới có thể khiếu nại về hành vi của cảnh sát.
Tôi bắt đầu soạn đơn khiếu nại, quyết định sẽ không tiết lộ mình là luật sư. Khi tôi hồi tưởng toàn bộ sự việc, điều làm tôi bận tâm nhất là thời điểm viên sĩ quan rút súng còn tôi thì có ý định bỏ chạy. Tôi là một luật sư hai mươi tám tuổi, có kinh nghiệm xử lý các trường hợp liên quan đến hành vi sai trái của cảnh sát. Tôi có đủ lý lẽ để có thể bình tĩnh nói chuyện với viên cảnh sát khi anh ta dọa bắn tôi. Khi tôi tự hỏi, mình sẽ làm gì khi mình mười sáu, mười chín hoặc thậm chí hai mươi tư tuổi, tôi sợ hãi nhận ra rằng khi ấy tôi có thể sẽ bỏ chạy. Càng suy nghĩ về điều đó, tôi càng lo cho những cậu bé và đàn ông da đen sống ở khu này. Họ có biết rằng không nên chạy không? Họ có biết nên bình tĩnh và nói “Được rồi” không?
Tôi viết ra hết những mối lo ngại của mình. Tôi tìm thấy báo cáo của Cục Thống kê Tư pháp [2] cho biết đàn ông da đen có nguy cơ bị cảnh sát giết cao gấp tám lần so với đàn ông da trắng. Đến cuối thế kỷ 20 [3] , dự báo tỷ lệ cảnh sát nổ súng sẽ giảm, nhờ đó nguy cơ đàn ông da màu bị nhà chấp pháp giết sẽ “chỉ” còn cao gấp bốn lần so với đàn ông da trắng. Nhưng vấn đề sẽ trầm trọng hơn [4] khi một số bang thông qua luật “Tự vệ”* khuyến khích công dân có vũ trang được sử dụng vũ lực gây chết người.
Nguyên văn: “Stand Your Ground” law, nghĩa là luật cho phép các cá nhân, trong một số trường hợp nhất định, có thể chủ động dùng vũ lực để tự bảo vệ mình, mà không nhất thiết phải thực hiện nghĩa vụ thoái lui (duty to retreat). Theo luật hình sự, nghĩa vụ thoái lui là một yêu cầu pháp lý, trong đó người gặp nguy hiểm trước tiên phải tìm cách thoái lui, tìm chỗ trú ẩn an toàn; chỉ khi nào không trốn tránh được, họ mới được phép sử dụng vũ lực để tự vệ. (ND.)
Tôi mải miết viết đơn khiếu nại gửi Sở Cảnh sát Atlanta mà không để ý rằng mình đã gõ gần chín trang liệt kê tất cả những điều tôi nghĩ là sai trái. Tôi dành hai trang miêu tả chi tiết hành vi lục soát xe hoàn toàn bất hợp pháp mà không có lý do chính đáng của cảnh sát. Tôi thậm chí còn trích dẫn khoảng sáu vụ việc khác. Tôi đọc lại tờ đơn một lượt và nhận ra rằng tôi đã viết tất cả những gì cần thiết, trừ việc tiết lộ “Tôi là luật sư”.
Tôi gửi đơn tới Sở Cảnh sát và cố quên vụ việc đó đi, nhưng không thể. Tôi nghĩ mãi về những chuyện đã xảy ra. Tôi bắt đầu cảm thấy hổ thẹn vì bản thân đã không kiểm soát tình hình tốt hơn trong vụ va chạm đó. Tôi đã không nói với cảnh sát rằng tôi là luật sư hay cho họ biết những điều họ đang làm là vi phạm pháp luật. Đáng lẽ tôi nên nói với họ nhiều hơn? Mặc dù tôi đã làm nhiều việc để hỗ trợ tử tù, song tôi băn khoăn không biết mình đã sẵn sàng đến mức nào để xử lý những vụ việc thực sự gai góc. Tôi thậm chí còn đang lưỡng lự về việc tới Alabama mở văn phòng luật. Tôi không thể thôi suy nghĩ về những rủi ro mà thanh thiếu niên phải đối mặt khi họ bị cảnh sát chặn đường.
Khiếu nại của tôi được Sở Cảnh sát Atlanta xem xét. Cứ sau vài tuần, tôi lại nhận được thư giải thích rằng các sĩ quan đã không làm gì sai, và rằng công việc của cảnh sát là rất vất vả. Tôi tiếp tục gửi khiếu nại lên các cấp cao hơn, nhưng không thành công. Cuối cùng, tôi yêu cầu được gặp cảnh sát trưởng và hai sĩ quan cảnh sát đã chặn đường tôi. Đề nghị đó bị từ chối, nhưng phó cảnh sát trưởng đồng ý gặp tôi. Tôi yêu cầu một lời xin lỗi và đề nghị Sở Cảnh sát có kế hoạch đào tạo làm sao để tránh tình trạng các sĩ quan lặp lại những sự cố tương tự. Phó cảnh sát trưởng lịch sự gật đầu trong khi tôi trình bày vụ việc. Khi tôi nói xong, ông ta xin lỗi, nhưng tôi ngờ rằng ông ta chỉ muốn tôi lượn đi cho nhanh. Ông ta hứa sẽ yêu cầu các sĩ quan phải “học thêm về quan hệ với cộng đồng”. Tôi không thấy thuyết phục lắm trước lời hứa ấy.
Khối lượng hồ sơ tôi nhận ngày càng chồng chất. Các luật sư bào chữa cho Trại tạm giam thành phố Gadsden cuối cùng cũng thừa nhận rằng các quyền của Ruffin đã bị vi phạm và rằng nhà tù đã phạm luật khi từ chối cung cấp thuốc hen. Chúng tôi đã giành được một khoản bồi thường kha khá cho gia đình Ruffin, như vậy ít nhất họ cũng được nhận chút hỗ trợ tài chính. Tôi chuyển các hồ sơ về sai phạm của cảnh sát cho các luật sư khác vì tôi đang nhận xử lý quá nhiều hồ sơ án tử hình.
Tôi không có thời gian để theo đuổi cuộc chiến với Sở Cảnh sát Atlanta trong khi các thân chủ của tôi đang phải đối mặt với cái chết. Tuy vậy, tôi không thể ngừng suy nghĩ về tình huống nguy hiểm và bất công đó, khi tôi không làm gì sai trái. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có ma túy trong xe? Có lẽ tôi sẽ bị bắt giữ và sau đó sẽ phải thuyết phục luật sư tin mình khi giải thích rằng cảnh sát đã khám xét xe tôi một cách bất hợp pháp. Liệu tôi có tìm được một luật sư tôn trọng những điều mình nói không? Liệu thẩm phán có tin rằng tôi đã không làm gì sai? Liệu họ có tin một người giống như tôi nhưng không phải là luật sư? Một người giống như tôi nhưng lại thất nghiệp và có tiền án tiền sự?
Tôi quyết định nói chuyện với các nhóm thanh niên, nhà thờ và các tổ chức cộng đồng về những thách thức đặt ra khi suy đoán có tội được gán cho người nghèo và người da màu. Tôi đã phát biểu tại cuộc gặp mặt ở các địa phương, cố gắng giúp mọi người ý thức hơn về việc phải yêu cầu các nhà thực thi luật pháp thực hiện trách nhiệm giải trình. Tôi lập luận rằng cảnh sát có thể tăng cường an ninh công cộng mà không ngược đãi người dân. Ngay cả khi tới Alabama, tôi cũng dành thời gian nói chuyện tại các sự kiện cộng đồng bất cứ khi nào được đề nghị.
Một lần khi tới Alabama để thu thập tài liệu cho một vụ chịu án tử hình, tôi được mời tới nói chuyện tại một nhà thờ nhỏ cho người Mỹ gốc Phi ở một hạt nông thôn nghèo, chỉ khoảng hơn hai chục người có mặt. Một trong những người đứng đầu cộng đồng giới thiệu tôi, và tôi bước lên phía trước giáo đường và bắt đầu nói về án tử hình, về tình trạng tỷ lệ giam giữ đang gia tăng, sự lạm quyền trong nhà tù, sự phân biệt đối xử từ phía lực lượng chấp pháp và nhu cầu cải cách. Đến một lúc, tôi quyết định kể về vụ chạm trán của tôi với cảnh sát ở Atlanta, và tôi nhận ra mình đang xúc động. Giọng tôi trở nên run run, và phải kiềm chế mình, tôi mới kết thúc được bài phát biểu.
Trong suốt buổi nói chuyện, tôi để ý đến một ông già da đen ngồi xe lăn xuất hiện ngay trước khi chương trình bắt đầu. Ông khoảng ngoài bảy mươi tuổi, mặc một bộ comple nâu cũ. Mái tóc xám của ông được cắt ngắn lởm chởm. Ông nhìn tôi chằm chằm suốt bài nói chuyện nhưng không biểu lộ cảm xúc hay phản ứng gì. Cái nhìn chằm chằm của ông làm tôi rợn rợn. Một cậu bé khoảng mười hai tuổi, có lẽ là cháu hoặc cháu họ, đã đẩy xe lăn đưa ông đến đây. Tôi thấy ông già thỉnh thoảng lại bảo cậu bé lấy giúp thứ nọ thứ kia. Ông chỉ im lặng gật đầu ra hiệu, nhưng dường như cậu bé đoán được ông cần khi thì cái quạt, lúc quyển sách thánh ca.
Khi tôi phát biểu xong, mọi người hát một bài thánh ca để kết thúc chương trình. Ông già không hát mà chỉ nhắm mắt ngồi dựa vào lưng ghế. Sau chương trình, mọi người đi tới chỗ tôi; đa số đều thân thiện và bày tỏ sự cảm kích vì tôi đã dành thời gian nói chuyện với họ. Một vài cậu bé da đen bước tới bắt tay tôi. Tôi rất vui vì mọi người có vẻ coi trọng những thông tin mà tôi chia sẻ. Ông già ngồi xe lăn đợi ở cuối giáo đường. Ông vẫn nhìn tôi đăm đăm. Khi tất cả mọi người ra về, ông ra hiệu cho cậu cháu, và cậu bé nhanh nhẹn đẩy xe đưa ông tiến về phía tôi.
Nét mặt ông lúc đó vẫn không thay đổi. Ông dừng lại trước mặt tôi, nhoài người về trước và gằn giọng, “Cậu có biết cậu đang làm gì không?” Trông ông rất nghiêm trọng, và không một nụ cười.
Câu hỏi của ông làm tôi chột dạ. Tôi không đoán được thực sự ông đang hỏi gì hoặc có phải ông đang căm hận gì không. Tôi không biết phải nói gì. Ông chỉ tay vào tôi và hỏi một lần nữa. “Cậu có biết cậu đang làm gì không?”
Tôi cố mỉm cười để làm dịu không khí nhưng quả thực tôi vô cùng bối rối. “Cháu nghĩ là có...”
Ông ngắt lời tôi và nói lớn, “Tôi sẽ nói cho cậu biết cậu đang làm gì. Cậu đang đánh trống vì công lý đấy!” Nét mặt ông đầy vẻ nhiệt thành. Ông nhấn mạnh một lần nữa, “Cậu phải đánh trống vì công lý.”
Ông ngả người trở lại xe, và tôi không cười nữa. Có điều gì đó trong lời ông nói làm tôi khựng lại. Tôi khẽ trả lời, “Vâng, thưa ông.”
Ông lại đưa người về trước và gằn giọng, “Cậu phải tiếp tục đánh trống vì công lý đấy nhé.” Ông giơ tay làm điệu bộ, và một lúc lâu sau lại nói, “Đánh trống vì công lý.”
Ông ngả người ra sau, và chợt có vẻ mệt mỏi, ông thở dốc. Ông nhìn tôi đầy cảm thông và vẫy tay gọi tôi lại gần. Tôi tiến lại, ông kéo lấy cánh tay tôi và nhoài người về phía trước. Ông nói rất khẽ, gần như một lời thì thầm, nhưng với sự dữ dội mà tôi không thể nào quên được.
“Cậu có thấy vết sẹo trên đỉnh đầu tôi không?” Ông cúi đầu cho tôi nhìn. “Vết sẹo này là ở hạt Greene, Alabama, khi tôi đang cố gắng ghi danh để được bỏ phiếu bầu cử năm 1964. Cậu có thấy vết sẹo ở bên này đầu tôi không?” Ông quay đầu sang trái, và tôi thấy một vết sẹo dài mười phân ở ngay trên tai phải. “Vết sẹo này là ở Mississippi khi tôi đi đòi quyền dân sự.”
Giọng ông sôi nổi hơn. Ông nắm chặt cánh tay tôi và cúi đầu thấp hơn nữa. “Cậu thấy vết này không?” Đó là một vòng tròn sẫm màu ở gần gáy. “Vết bầm này là ở Birmingham sau cuộc Thập tự chinh của Thiếu nhi.” *
Nguyên văn: Children’s Crusade, là cuộc tuần hành vì dân quyền của học sinh ở Birmingham, Alabama, diễn ra từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 5 năm 1963. Cuộc tuần hành đã bị cảnh sát đẩy lùi bằng vòi phun nước và cảnh khuyển, nhiều học sinh đã bị bắt giữ. (ND.)
Ông ngả người trở lại và nhìn tôi chằm chằm. “Mọi người nghĩ rằng đó chỉ là những vết sẹo, vết cắt, vết bầm tím.”
Tôi chợt nhận thấy đôi mắt của ông đã nhòe nước. Ông đưa tay ôm lấy đầu mình. “Đó không phải là những vết sẹo, vết cắt, vết bầm. Đó là những tấm huân chương danh dự của tôi.”
Ông nhìn tôi đăm đăm một lúc lâu, quệt nước mắt, rồi gật đầu ra hiệu với cậu bé. Cậu đẩy xe đưa ông về.
Tôi đứng đó, cổ họng nghèn nghẹn, nhìn theo ông.
Một lúc sau tôi nhận ra đã tới lúc tôi phải mở văn phòng luật ở Alabama.