Chương mười sáu KHÚC BI CA CỦA NHỮNG NGƯỜI HỨNG ĐÁ
Ngày 17 tháng Năm năm 2010 [1] , Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ tuyên bố quyết định: Mức án tù chung thân không ân xá đối với trẻ em bị kết án vì những tội phi sát hại là một hình phạt độc ác và bất thường và không thể được hiến pháp cho phép. Lúc đó, tôi đang hồi hộp ngồi chờ tại văn phòng. Cả văn phòng chúng tôi nhảy cẫng lên vui sướng. Chỉ một lát sau, chúng tôi ngập trong các cuộc gọi từ báo chí, thân chủ, các gia đình và những người bảo vệ quyền trẻ em. Đây là lần đầu tiên Tối cao Pháp viện ban hành lệnh cấm đối với một hình phạt khác ngoài án tử hình. Vậy là Joe Sullivan sẽ có quyền xin giảm án. Rất nhiều người, bao gồm cả Antonio Nuñez và Ian Manuel, cũng có quyền xin giảm án và có cơ hội được phóng thích.
Hai năm sau đó, tháng Sáu năm 2012 [2] , chúng tôi giành được lệnh cấm theo hiến pháp về mức án chung thân không ân xá bắt buộc đối với trẻ em bị kết tội giết người. Tối cao Pháp viện đã đồng ý xem xét lại vụ việc của Evan Miller cũng như của Kuntrell Jackson, một thân chủ khác của chúng tôi ở Arkansas. Tháng Ba năm đó, tôi bào chữa cho cả hai trường hợp và hồi hộp chờ đợi một phán quyết thuận lợi. Quyết định của Tối cao Pháp viện có nghĩa là sẽ không có thêm một đứa trẻ nào có thể nghiễm nhiên bị kết án tù chung thân nữa bất kể bị cáo buộc tội danh gì. Hơn 2.000 người bị kết án tù chung thân không ân xá vì những tội lỗi họ gây ra khi còn nhỏ nay có khả năng được giảm án. Một số tiểu bang đã sửa đổi các đạo luật để quy định những mức án vị tha hơn đối với tội phạm trẻ em. Các công tố viên ở nhiều nơi phản đối việc áp dụng hồi tố phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ Miller v. Alabama, nhưng bất kể thế nào, tất cả mọi người giờ đây đều có hy vọng mới, bao gồm cả Ashley Jones và Trina Garnett.
Chúng tôi tiếp tục công việc giải quyết các vấn đề liên quan đến trẻ em bằng cách đảm nhận nhiều sự vụ hơn. Tôi tin rằng cần phải cấm hoàn toàn việc giam giữ chung trẻ em dưới mười tám tuổi với người trưởng thành trong các trại tạm giam hoặc nhà tù. Chúng tôi đã tiến hành nhiều vụ kiện nhằm chấm dứt thực hành này. Tôi cũng tin rằng những em còn nhỏ tuổi không bao giờ nên bị xét xử tại tòa án dành cho người trưởng thành, bởi các em là đối tượng dễ bị tác động trước đủ loại vấn đề có thể làm tăng nguy cơ bị kết án oan sai. Không một đứa trẻ mười hai, mười ba hay mười bốn tuổi nào có thể tự bảo vệ mình trong hệ thống tư pháp hình sự dành cho người thành niên. Những bản án oan và phiên tòa bất hợp pháp liên quan đến trẻ em là chuyện đã xảy ra như cơm bữa.
Mấy năm trước, chúng tôi đã thắng kiện và giải thoát được cho Phillip Shaw, một cậu bé bị buộc tội oan và phải chịu mức án tù chung thân không ân xá tại Missouri khi mới mười bốn tuổi. Quá trình lựa chọn bồi thẩm đoàn cho phiên xử của cậu đã loại trừ người Mỹ gốc Phi một cách phi pháp. Tôi cũng bào chữa cho hai trường hợp tại Tòa án Tối cao Mississippi, trong đó Tòa phán quyết rằng việc buộc tội và kết án trẻ nhỏ là bất hợp pháp. Năm mười ba tuổi, Demarious Banyard bị ép tham gia vào một vụ cướp của giết người ở Jackson, Mississippi. Cậu phải nhận bản án tù chung thân bắt buộc [4] sau khi bồi thẩm đoàn đưa ra một yêu cầu phi pháp rằng cậu phải chứng minh được sự vô tội của mình vượt ra khỏi sự nghi ngờ hợp lý*, trong khi phía công tố đưa ra những chứng cứ không thể chấp nhận được. Cậu đã được giảm án xuống một mức án có thời hạn rõ ràng và giờ đã có hy vọng được trả tự do.
“Beyond a reasonable doubt” là chuẩn mực chứng minh (Standard of proof) trong hệ thống tư pháp hình sự Mỹ. Theo luật, bên công tố phải chứng minh được bằng chứng của họ đã vượt qua tất cả sự nghi ngờ hợp lý mà bồi thẩm đoàn có thể có, tức là không có bất kỳ sự nghi ngờ nào, chắc chắn 100% là bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở đây, chuẩn mực này bị đảo ngược, bị cáo lại phải chứng minh là anh ta vô tội với chuẩn mực hầu như không thể nào thực hiện được. Anh ta phải thuyết phục tất cả bồi thẩm đoàn tin rằng anh ta 100% vô tội, không được để ai có một chút hoài nghi nào là anh ta có thể là hung thủ. Đây là một điều vi hiến trầm trọng vì nó chuyển toàn bộ trách nhiệm của công tố lên bị cáo. (B.B.T.)
Năm mười bốn tuổi, Dante Evans sống cùng với người cha thô bạo trong một căn nhà lưu động do FEMA tài trợ ở Guliport, Mississippi, sau cơn bão Katrina. Người cha, từng hai lần đánh mẹ Dante suýt chết, đã bị cậu bắn khi đang nằm ngủ trên ghế. Dante đã nhiều lần kể với các thầy cô ở trường về hành vi bạo lực của cha mình nhưng không ai can thiệp. Trong cuộc tranh biện trước Tòa án Tối cao Mississippi, tôi đã trình bày kết quả chẩn đoán trước đó về chứng rối loạn stress sau sang chấn của Dante sau khi mẹ cậu bị giết hại. Tòa án Tối cao nhấn mạnh chi tiết tòa sơ thẩm [5] không cho phép đưa ra bằng chứng này và quyết định tổ chức một phiên xử mới cho Dante.
Sứ mệnh phản đối án tử hình của chúng tôi cũng có một bước ngoặt đầy hy vọng. Chúng tôi đã giúp 100 tử tù ở Alabama được giảm án. Chúng tôi đã tạo ra một cộng đồng mới cho những cựu tù nhân Alabama bị buộc tội hoặc bị kết án phi pháp mà nay đã được xét xử hoặc kết án lại. Phần lớn họ không bao giờ phải quay lại trại tử tù thêm lần nào nữa. Bắt đầu từ năm 2012, chúng tôi đã có mười tám tháng liên tiếp không có cuộc xử tử nào ở Alabama. Các vụ kiện tụng liên miên về phương thức xử tử bằng tiêm thuốc độc và những câu hỏi khác về độ tin cậy của bản án tử hình đã góp phần hãm lại đáng kể tốc độ xử tử ở Alabama. Năm 2013, Alabama ghi nhận số lượng bản án tử hình mới thấp nhất kể từ khi hình phạt này được khôi phục vào giữa những năm 1970. Đó là những bước tiến đầy hy vọng.
Tất nhiên, những thách thức vẫn còn đó. Tôi một lần nữa mất ngủ vì một tử tù vô tội ở Alabama. Anthony Ray Hinton đã ngồi trại tử tù Alabama khi Walter McMillian nhập trại vào những năm 1980. Ông Hinton bị buộc tội gây ra hai vụ cướp của giết người ở ngoại ô Birmingham sau khi các nhân viên pháp y của tiểu bang lầm tưởng rằng khẩu súng tìm được tại nhà mẹ ông đã được sử dụng để gây án. Luật sư biện hộ mà tòa chỉ định cho ông Hinton chỉ được tòa cấp cho 500 đô-la để thuê một chuyên gia về súng phản bác cáo buộc của Nhà nước, vì vậy ông ta đã thuê một kỹ sư cơ khí mù một mắt và hầu như không hề có kinh nghiệm làm chứng với tư cách chuyên gia về súng.
Bằng chứng chính yếu mà Nhà nước dùng để chống lại ông Hinton liên quan đến một tội ác thứ ba, trong đó một nhân chứng xác định ông là kẻ tấn công. Tuy nhiên, chúng tôi đã tìm thấy sáu người cùng những hồ sơ an ninh chứng minh rằng Hinton bị giữ chân bên trong một nhà kho kiên cố của một siêu thị cách đó mười lăm dặm để làm việc ca đêm vào thời điểm xảy ra vụ án. Chúng tôi đã mời một số chuyên gia giỏi nhất trên cả nước xem xét bằng chứng về súng, và họ kết luận rằng vũ khí của Hinton không khớp với các vụ án mạng. Tôi hy vọng Nhà nước có thể xét xử lại, nhưng họ vẫn nhất quyết tiến hành cuộc xử tử. Giới truyền thông không quan tâm đến câu chuyện vì họ đã “chán ngấy chủ đề án oan”. “Chúng tôi từng đưa tin về câu chuyện này rồi” là câu trả lời chúng tôi phải nghe đi nghe lại. Chúng tôi tiếp tục nhận được những quyết định sát sạt từ chối giảm án từ các tòa phúc thẩm, và ông Hinton vẫn chờ chết ở trại tử tù. Ông sắp ngồi tù được 30 năm. Ông luôn lạc quan và động viên mỗi khi gặp tôi, nhưng tôi ngày càng cảm thấy vô vọng khi cố gắng tìm cách đảo ngược bản án của ông.
Tôi cảm thấy được khích lệ khi tốc độ giam giữ hàng loạt trên toàn quốc cuối cùng đã chậm lại. Năm 2011, lần đầu tiên trong gần bốn mươi năm, số lượng tù nhân trên cả nước không tăng. Năm 2012, lần đầu tiên sau hàng thập kỷ, Hoa Kỳ chứng kiến sự sụt giảm dân số nhà tù. Trong năm đó, tôi đã dành nhiều thời gian ở California để ủng hộ những sáng kiến trưng cầu dân ý và cảm thấy được khích lệ khi tuyệt đại đa số cử tri quyết định xóa bỏ luật “bất quá tam” áp đặt các bản án bắt buộc đối với những người phạm tội phi bạo lực. Sáng kiến này đã nhận được sự ủng hộ của đa số trên tất cả các hạt của tiểu bang này. Cử tri California cũng tiến rất gần đến việc cấm hình phạt tử hình; sáng kiến trưng cầu dân ý chỉ thua hai điểm phần trăm. Nếu là vài năm trước, chẳng ai có thể tưởng tượng nổi rằng bản án tử hình suýt được xóa bỏ thông qua một cuộc trưng cầu dân ý phổ thông ở một tiểu bang Hoa Kỳ.
Sau cùng, chúng tôi cũng có thể công bố sáng kiến chống đói nghèo và kỳ thị chủng tộc, một sáng kiến mà tôi vẫn hằng mong khởi động tại EJI. Nhiều năm qua, tôi vẫn muốn thực hiện một dự án góp phần thay đổi cách chúng ta nói về lịch sử sắc tộc và lý giải các vấn đề chủng tộc đương đại. Chúng tôi đã xuất bản niên biểu lịch sử chủng tộc cho năm 2013 và 2014. Chúng tôi bắt đầu làm việc với những trẻ em và gia đình nghèo trên các hạt thuộc Vành Đai Đen ở miền Nam. Chúng tôi đã đưa hàng trăm học sinh trung học đến văn phòng EJI để các em có thể tìm hiểu thêm và thảo luận về nhân quyền và công lý. Ngoài ra, chúng tôi cũng biên soạn các báo cáo và tài liệu nhằm đào sâu thêm cuộc đối thoại quốc gia về di sản của chế độ nô lệ, hành hình và lịch sử phân biệt chủng tộc của nước Mỹ.
Tôi cảm thấy được tiếp thêm nhiều sức mạnh từ hành trình đấu tranh chống đói nghèo và phân biệt chủng tộc. Nó liên quan chặt chẽ với công việc giải quyết các vấn đề tư pháp hình sự của chúng tôi. Tôi tin rằng chính những ngộ nhận về sự khác biệt chủng tộc đã khiến nhiều suy nghĩ của chúng ta về công lý trở nên tiêu cực. Như tôi thấy, lịch sử nước Mỹ có bốn thiết chế [6] đã định hình cách chúng ta tiếp cận các vấn đề chủng tộc và công lý, nhưng cả bốn thiết chế này vẫn chưa được hiểu tới nơi tới chốn. Đầu tiên tất nhiên là chế độ nô lệ. Sau đó là thời kỳ khủng bố định hình nên cuộc sống của những người da màu từ sau khi cuộc Tái thiết sụp đổ cho đến Thế chiến II. Cuối các buổi tối nói chuyện, những người da màu lớn tuổi ở miền Nam thỉnh thoảng lại tìm gặp tôi để phàn nàn về thái độ thù ghét mà họ cảm nhận được khi nghe các nhà bình luận tin tức nói về cách chúng ta đối phó với nạn khủng bố trong nước sau vụ tấn công 11/9 lúc đầu.
Một cụ ông người Mỹ gốc Phi từng nói với tôi, “Cậu phải làm sao cho họ bỏ cái kiểu nói ấy đi! Cuộc đời chúng ta lúc nào chả có khủng bố. Cảnh sát, đảng Klan hay bất cứ người da trắng nào cũng có thể khủng bố ta. Chúng ta luôn phải lo lắng về các vụ đánh bom, hành hình, và đủ loại bạo lực chủng tộc.”
Xét trên nhiều phương diện, chính nạn khủng bố chủng tộc bằng hành hình đã sản sinh ra hình phạt tử hình hiện đại. Việc nước Mỹ ưa thích những cuộc xử tử thần tốc phần nào là một nỗ lực vừa giúp tản bớt nguồn năng lượng bạo lực từ hành hình, vừa bảo đảm được với những người da trắng miền Nam rằng người da đen phải trả cái giá đắt nhất.
Cơ chế cho thuê lao động là tù nhân được khai sinh vào cuối thế kỷ 19 nhằm biến cựu nô lệ thành tội phạm, gán cho họ những tội danh phi lý để cuối cùng những người đàn ông, đàn bà và trẻ em tự do bị đem cho các doanh nghiệp “thuê” và nghiễm nhiên bị buộc quay trở lại làm nô dịch. Các ngành công nghiệp tư nhân trên khắp cả nước đã kiếm được hàng triệu đô-la nhờ lao động miễn phí là tù nhân, trong khi có hàng ngàn người Mỹ gốc Phi phải chết trong điều kiện làm việc khủng khiếp. Hành vi tái nô dịch hóa lan rộng ở một số tiểu bang đến mức nó được Douglas Blackmon miêu tả trong cuốn sách đoạt giải Pulitzer của ông, Chế độ nô lệ dưới một cái tên khác *. Nhưng đa số người Mỹ không hay biết gì về thực tế này.
Tựa đề gốc: Slavery by Another Name. Cuốn sách đã đem lại cho Douglas Blackmon giải Pulitzer năm 2009. (ND.)
Trong thời kỳ khủng bố này, có đến hàng trăm cách để gán cho người da màu những tội như vi phạm chuẩn mực xã hội hay xúc phạm người khác, buộc họ phải trả giá bằng cả mạng sống.
Khủng bố chủng tộc và mối đe dọa thường hằng từ việc áp đặt thô bạo hệ thống thứ bậc chủng tộc là nỗi ám ảnh sâu sắc đối với người Mỹ gốc Phi. Sự hấp thụ những thực tại về tâm lý xã hội này đã tạo ra những biến chứng và thách thức mà ngày nay đang bộc lộ ra theo nhiều cách khác nhau.
Thiết chế thứ ba, “Jim Crow”, là sự phân rẽ chủng tộc và triệt bỏ một cách hợp pháp các quyền căn bản của người Mỹ gốc Phi, định hình nên thời kỳ apartheid của nước Mỹ. Nó diễn ra gần đây hơn và được công nhận trong nhận thức của người dân cả nước, nhưng vẫn chưa được hiểu rõ. Tôi cảm thấy rằng chúng ta đã vội vàng ăn mừng những thành tựu của Phong trào Dân quyền nhưng lại chậm nhận ra những tổn thất xảy ra trong thời kỳ đó. Chúng ta đã không sẵn sàng cam kết với tiến trình tìm kiếm sự thật và hòa giải, trong đó mọi người được quyền nói lên những khó khăn do sự phân rẽ chủng tộc, hạ bệ chủng tộc và chính sách gạt sang lề gây ra. Vì được sinh ra trong thời đại mà sự kỳ thị sắc tộc và chế độ Jim Crow gây ra hậu quả thực sự đối với cách cha anh tôi hành động hoặc phản ứng trước bất công, nên tôi luôn để ý đến quá trình tích tụ của nỗi tủi hổ và sự lăng nhục hàng ngày.
Hành vi phân biệt chủng tộc của nhà thực thi pháp luật cũng để lại nhiều biến chứng tương tự. Đảm nhận tất cả các vụ việc của trẻ vị thành niên trên khắp cả nước có nghĩa là tôi thường xuyên có mặt tại các phòng xử án và xuất hiện ở những cộng đồng mà tôi chưa bao giờ biết tới trước đây. Một lần nọ, tôi ngồi tại bàn bào chữa trong một phòng xử án vắng hoe trong khi chuẩn bị cho phiên tòa tại một tòa sơ thẩm ở miền Trung Tây. Tôi mặc comple màu đen, sơ mi trắng, thắt cà vạt. Thẩm phán và công tố viên vào phòng xử từ cửa sau, họ vừa đi vừa cười chuyện gì đó.
Khi thấy tôi ngồi ở bàn bào chữa, thẩm phán nói rất gay gắt: “Này, anh không nên tự tiện ngồi đây nhé. Mời anh ra ngoài kia và đợi ở hành lang cho đến khi luật sư của anh đến.”
Tôi đứng dậy và tươi cười, “Ồ, xin lỗi Quý tòa, chúng ta chưa gặp nhau bao giờ. Tôi tên là Bryan Stevenson, tôi là luật sư của vụ việc sắp được xử sáng nay.”
Thẩm phán cười chữa ngượng, ngài công tố viên cũng cười góp. Tôi cố cười vì không muốn thân chủ trẻ tuổi của tôi, một cậu bé da trắng bị truy tố như người trưởng thành, phải chịu bất lợi vì một xích mích giữa tôi và thẩm phán trước phiên tòa. Nhưng sự việc này làm tôi không khỏi chùng lòng. Tất nhiên những nhầm lẫn vô tư có thể xảy ra, song sự sỉ nhục chồng chất và nỗi phẫn uất do thành kiến chủng tộc gây ra đã để lại những hậu quả khôn lường. Thường xuyên bị tình nghi, buộc tội, theo dõi, nghi ngờ, không tin tưởng, bị cho là có tội và thậm chí bị ghê sợ là gánh nặng đè lên vai những người da màu mà ta sẽ không thể thấu hiểu hoặc đối diện nếu thiếu một cuộc đối thoại sâu sắc hơn về lịch sử bất công chủng tộc ở đất nước chúng ta.
Thiết chế thứ tư là giam giữ hàng loạt. Nếu ghé thăm bất cứ nhà tù nào và biết chút ít về các thông tin nhân khẩu học sắc tộc ở Mỹ, chắc bạn sẽ không khỏi trăn trở. Thực trạng tù nhân da màu chiếm số lượng đông đảo, những người thuộc sắc tộc thiểu số bị kết án tràn lan, cuộc truy quét tội phạm ma túy nhằm vào các cộng đồng nghèo khó, việc hình sự hóa những người mới nhập cư và những người không có giấy tờ, tác dụng phụ của việc tước quyền bầu cử, và những rào cản đối với việc tái hòa nhập, tất cả đều chỉ có thể được hiểu đầy đủ thông qua lăng kính lịch sử chủng tộc.
Chúng tôi rất mừng khi rốt cuộc cũng có thể thảo luận những vấn đề này thông qua dự án mới và nói lên được những thách thức do lịch sử chủng tộc và tình trạng đói nghèo có tính cơ cấu gây ra. Các tài liệu do chúng tôi biên soạn đã nhận được phản hồi tích cực và tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ có thể đẩy lùi sự lấp liếm đối với lịch sử phân biệt chủng tộc đầy gai góc này.
Tôi cũng cảm thấy được khích lệ từ những nhân viên mới. Chúng tôi đang thu hút được các luật sư trẻ tài năng từ khắp nơi trên cả nước. Chúng tôi đã khởi động một chương trình cho phép các sinh viên mới tốt nghiệp đại học tới EJI làm việc với tư cách nghiên cứu sinh pháp lý. Nhờ có đội ngũ nhân viên đông đảo hơn với rất nhiều nhân tài trong số đó, việc đáp ứng những thách thức do khối lượng lớn hồ sơ đặt ra trở nên khả thi đối với chúng tôi.
Đông nhân viên hơn, có thêm nhiều hồ sơ phải giải quyết hơn, cùng các vụ án lớn hơn đôi khi cũng đồng nghĩa với nhiều khó khăn hơn. Mặc dù rất vui mừng và phấn khởi trước phán quyết của Tối cao Pháp viện đối với trường hợp của trẻ vị thành niên, song chúng tôi vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức mới mà phán quyết này tạo ra. Giờ đây hàng trăm người đã có quyền theo đuổi các mức án mới, song phần lớn họ lại đang ngụ tại các tiểu bang nơi quyền được bào chữa của họ không được bảo đảm. Các bang như Louisiana, Alabama, Mississippi và Arkansas có hàng trăm người nằm trong tầm tác động của những phán quyết gần đây, nhưng không có luật sư nào sẵn sàng trợ giúp những tù nhân chung thân vị thành niên này. Cuối cùng, chúng tôi đã đảm nhận tới gần 100 vụ việc mới sau khi Tối cao Pháp viện ban hành lệnh cấm áp dụng mức án tù chung thân không ân xá đối với trẻ em bị kết án vì những tội phi sát hại. Rồi chúng tôi nhận thêm 100 hồ sơ nữa sau quyết định cấm tù chung thân không ân xá bắt buộc đối với trẻ vị thành niên. Cùng với hàng chục trường hợp vị thành niên đã nhận trước đó, chúng tôi nhanh chóng bị quá tải.
Cấm hẳn mức án chung thân không ân xá đối với trẻ em bị kết tội phi sát hại lẽ ra phải là quyết định dễ thực thi nhất, nhưng thực tế là việc thi hành phán quyết của Tối cao Pháp viện gặp nhiều trở ngại hơn dự liệu của tôi rất nhiều. Thời gian tôi phải ở Louisiana, Florida, và Virginia, ba bang chiếm tới gần 90% trường hợp phạm tội phi sát hại, ngày càng nhiều hơn. Các tòa sơ thẩm không suy nghĩ thấu đáo về sự khác biệt giữa trẻ em và người trưởng thành như kỳ vọng của chúng tôi, và chúng tôi thường xuyên phải kiện tụng phản đối sự bất công căn bản khi trẻ em bị đối xử như người trưởng thành, sự bất công mà chính Tối cao Pháp viện đã phải công nhận.
Một số thẩm phán dường như muốn lợi dụng vấn đề tuổi thọ hoặc cái chết tự nhiên trước khi tạo cơ hội phóng thích cho tội phạm trẻ em. Thẩm phán xử Antonio Nuñez tại Quận Cam, California, đã thay thế án tù chung thân không ân xá của cậu bằng án tù 175 năm. Tôi đã phải trở lại một tòa phúc thẩm [7] ở California và tranh cãi để bản án đó được thay thế bằng một bản án hợp lý hơn. Chúng tôi cũng gặp phải phản ứng chống đối trong trường hợp của Joe Sullivan và Ian Manuel. Sau cùng, chúng tôi cũng giành được những mức án mà theo đó cả hai cậu có thể sẽ được trả tự do sau khi thi hành án thêm vài năm nữa.
Ở một số trường hợp khác, các thân chủ đã ngồi tù hàng chục năm và hầu như không có cơ chế hỗ trợ để giúp họ tái hòa nhập với xã hội. Chúng tôi quyết định xây dựng một chương trình tái hòa nhập để giúp đỡ những thân chủ này. Chương trình của EJI được phát triển dành riêng cho những người đã ngồi tù nhiều năm sau khi bị bắt giam từ thời thơ ấu. Chúng tôi cam kết cung cấp dịch vụ, nhà ở, các khóa đào tạo nghề, kỹ năng sống, tư vấn, và bất cứ thứ gì mà những người ra tù cần có để tiến bước. Chúng tôi tuyên bố với các thẩm phán và hội đồng ân xá rằng chúng tôi cam kết đáp ứng các yêu cầu hỗ trợ từ phía thân chủ.
Cụ thể, các thân chủ chịu án tù chung thân không ân xá vì những tội phi sát hại ở Louisiana phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Chúng tôi tiến hành đại diện cho tất cả sáu mươi người đủ điều kiện được giảm án ở Louisiana. Hầu như tất cả bọn họ đều bị giam tại Angola, một nhà tù nổi tiếng khắc nghiệt - đặc biệt vào thời điểm những năm 1970 và 1980 khi có nhiều người mới gia nhập lực lượng tù nhân. Trong nhiều năm, tình trạng bạo lực ở Angola tồi tệ đến mức gần như không ai bị giam giữ mà không bị kỷ luật - phải chịu thêm hình phạt hoặc bị tăng hạn tù - do xung đột với tù nhân khác hoặc với cai tù. Tù nhân bị bắt phải lao động chân tay trong môi trường vô cùng khắc nghiệt; nếu phản đối, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị biệt giam hoặc các hình thức kỷ luật khác. Chuyện tù nhân bị thương nặng, mất tay chân sau khi làm việc hàng giờ trong điều kiện tàn bạo và nguy hiểm không phải là chuyện hiếm gặp.
Từng là một đồn điền nô lệ trước khi Nội chiến kết thúc, suốt nhiều năm, Angola đã bắt ép tù nhân phải đi hái bông trên đồng.
Những tù nhân kháng cự sẽ bị “phê” vào hồ sơ và bị biệt giam hàng tháng trời. Điều kiện giam giữ khủng khiếp cùng với việc liên tục bị đe dọa về nguy cơ phải bỏ mạng trong tù bất kể họ hành xử tốt như thế nào khiến hầu hết các thân chủ của chúng tôi thường xuyên bị kỷ luật. Tại các phiên tòa tái kết án mà chúng tôi đang chuẩn bị, các luật sư nhà nước đã viện dẫn những lần bị kỷ luật để phản đối những mức án mới có lợi hơn cho tù nhân.
Ngoại lệ là có một số cựu tù vị thành niên đã có thành tích cải tạo xuất sắc với rất ít lần bị kỷ luật, mặc dù họ ngồi tù mà không hề có hy vọng được trả tự do hay được xem xét thành tích cải tạo. Một số đã trở thành tù nhân ủy thác*, cố vấn và nhà vận động chống bạo lực giữa các tù nhân. Một số khác đã trở thành thủ thư chuyên về luật, nhà báo, người làm vườn. Angola đã chuyển biến qua thời gian với nhiều chương trình tuyệt vời cho những tù nhân cải tạo tốt, và nhiều thân chủ của chúng tôi đã tận dụng được những chương trình này.
Theo chế độ ủy thác (trusty System) được áp dụng trong nhiều nhà tù Mỹ, những tù nhân cải tạo tốt, được quản giáo tin tưởng có thể được ủy thác cho làm các công việc khác nhau, bao gồm cả công việc giám sát các bạn tù. Không chỉ có vậy, tù nhân ủy thác cũng được hưởng tự do ở mức độ nhất định và không bị quản lý quá nghiêm ngặt như tù nhân thường. Do không tìm được từ tương đương trong tiếng Việt, chúng tôi tạm dịch từ “trusty” nguyên gốc thành “tù nhân ủy thác” để thể hiện ý nghĩa đây là tù nhân được tin tưởng, ủy thác.(B.B.T.)
Chúng tôi quyết định ưu tiên thực hiện các phiên tòa tái kết án tại Louisiana cho những bậc “lão làng” - những tù nhân mang án chung thân ở tuổi vị thành niên đã ở đó hàng thập kỷ. Joshua Carter và Robert Caston là hai trường hợp đầu tiên chúng tôi quyết định tiến hành tố tụng. Năm 1963, khi mới mười sáu tuổi, Joshua Carter bị buộc tội cưỡng hiếp ở New Orleans và nhanh chóng bị kết án tử hình. Thời đó, một đứa trẻ da đen bị kết án đang chờ xử tử không có lý gì để mong được giảm án. Nhưng để ép buộc ông nhận tội [8] , cảnh sát đã đánh đập Joshua tàn nhẫn đến nỗi ngay từ năm 1965, Tòa án Tối cao Louisiana đã cảm thấy cần phải đảo ngược bản án của ông. Carter bị kết án tù chung thân không ân xá và được chuyển tới Angola. Sau nhiều năm vật lộn khổ sở, ông trở thành một tù nhân gương mẫu và là tù nhân ủy thác. Vào những năm 1990, ông bị bệnh tăng nhãn áp nhưng không được điều trị y tế theo nhu cầu, và không lâu sau ông bị hỏng cả hai mắt. Chúng tôi cố gắng thuyết phục các công tố viên của bang New Orleans rằng Carter, lúc này đã vào độ tuổi lục tuần và mù lòa, cần được phóng thích sau gần năm mươi năm ngồi tù.
Robert Caston thì đã ngồi ở Angola được bốn mươi lăm năm. Ông bị mất mấy ngón tay khi làm việc trong một nhà máy của nhà tù và giờ trở thành người tàn tật do lao động cưỡng bức tại Angola.
Tôi đã nhiều lần chạy tới chạy lui giữa các tòa sơ thẩm ở Giáo xứ* Orleans khi xử lý vụ của Carter và Caston. Tòa án của Giáo xứ Orleans là một tòa nhà khổng lồ với kiến trúc đầy vẻ thị uy. Các phòng xử án ở đây nằm san sát dọc theo một sảnh lớn có trần cao và sàn đá cẩm thạch rộng thênh thang. Mỗi ngày đều có hàng trăm người tụ tập tại sảnh, hối hả đi qua đi lại giữa các phòng xử. Các phiên xử trong tòa án uy nghi này không bao giờ được lên kế hoạch tử tế. Theo lệ thường, buổi tái kết án Carter và Caston có ngày giờ cụ thể, nhưng điều này dường như chẳng có nghĩa lý gì với bất cứ ai. Lần nào tôi đến đây, cũng có cả đống vụ việc với các thân chủ và luật sư tụ tập trong một phòng xử đông đúc, chờ được xét xử cùng thời điểm với phiên xử của chúng tôi. Bị quá tải, các thẩm phán cố gắng xử lý tiến trình tố tụng bằng các cuộc hội bàn chóng vánh với hàng chục thanh niên - phần lớn là người da đen - ngồi cùng lúc trước tòa trong bộ quần áo tù màu cam đặc trưng, tay bị còng. Các luật sư bào chữa và gia đình thân chủ đứng rải rác khắp phòng xử án hỗn loạn.
Đơn vị hành chính ở bang Louisiana tương đương với cấp hạt. (ND.)
Sau ba chuyến đi tới New Orleans để tham gia phiên xử tái kết án, chúng tôi vẫn chưa giành được mức án mới cho Carter và Caston. Chúng tôi đã gặp công tố viên, nộp giấy tờ cho thẩm phán và tham khảo ý kiến của nhiều quan chức địa phương nhằm đạt được một bản án mới phù hợp với hiến pháp. Vì Carter và Caston đều đã ngồi tù được gần năm mươi năm, nên chúng tôi muốn họ được trả tự do ngay lập tức.
Hai tuần trước lễ Giáng sinh, tôi trở lại tòa lần thứ tư, cố gắng giành cho được lệnh phóng thích cho cả hai người. Hai vụ việc được xử ở hai phòng xử án khác nhau với hai thẩm phán khác nhau, nhưng chúng tôi phán đoán nếu chúng tôi giành được lệnh phóng thích cho một người, việc giành lệnh phóng thích cho người kia sẽ trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi đang hợp tác với Dự án Tư pháp Vị thành niên Louisiana, và luật sư Carol Kolinchak của dự án đã đồng ý làm luật sư địa phương của chúng tôi trong tất cả các trường hợp được xét xử ở đây. Tại phiên xử lần thứ tư này, Carol và tôi bận rộn xử lý giấy tờ và giải quyết hàng loạt những vấn đề mới nảy sinh đang kìm chân Carter và Caston tại nhà tù.
Hàng chục năm qua, đại gia đình Carter vẫn duy trì quan hệ gần gũi với ông. Sau cơn bão Katrina kinh hoàng, nhiều người trong gia đình ông đã rời bỏ New Orleans và hiện đang sống cách đó hàng trăm dặm. Nhưng khoảng mười mấy người đã chăm chỉ tới dự các phiên tòa, có những người ở những nơi xa tít như California cũng lặn lội đến dự. Mẹ của Carter đã gần một trăm tuổi. Hàng chục năm qua, cụ đã thề với Carter rằng cụ sẽ không nhắm mắt cho đến khi ông được trở về nhà.
Có vẻ như cuối cùng chúng tôi cũng sắp giành chiến thắng. Chúng tôi đã giải quyết được mọi vấn đề để tòa có thể chấp nhận kiến nghị của chúng tôi và trả tự do cho Caston ngay lập tức. Chính quyền thường không đưa tù nhân từ Angola đến New Orleans hầu tòa, mà để họ theo dõi diễn biến phiên xử từ nhà tù qua màn hình video. Sau khi tôi hoàn thành phần tranh luận trong phòng xử án lộn xộn, ồn ào, thẩm phán chấp nhận kiến nghị của chúng tôi. Bà nêu lại các luận cứ về ngày Caston bị kết án, và rồi một chuyện bất ngờ đã xảy ra. Khi thẩm phán nói về hàng chục năm ngồi tù của Caston, phòng xử - lần đầu tiên sau nhiều lần tôi có mặt ở đó - đột nhiên im lặng như tờ. Các luật sư ngừng thảo luận, các công tố viên của các vụ việc khác tập trung theo dõi, và các thân nhân ngừng nói chuyện. Ngay cả những tù nhân bị còng tay đang ngồi chờ quyết định về vụ việc của họ cũng im lặng và chăm chú lắng nghe. Thẩm phán nêu chi tiết về bốn mươi lăm năm ngồi tù của Caston ở Angola vì một tội không làm ai phải chết khi ông mới mười sáu tuổi. Bà nhấn mạnh rằng Caston đã được gửi đến Angola vào những năm 1960. Sau đó thẩm phán tuyên bố mức án mới, điều này có nghĩa là Caston sẽ được phóng thích ngay lập tức.
Tôi nhìn Carol và mỉm cười. Mọi người trong phòng xử tĩnh lặng đã làm một điều mà tôi chưa từng thấy trước đó: Họ vỗ tay vang dội. Các luật sư bào chữa, các công tố viên, gia đình các tù nhân, và phó cảnh sát trưởng đều vỗ tay. Thậm chí các tù nhân cũng vỗ tay dù bị còng.
Carol lau nước mắt. Ngay cả thẩm phán, vốn thường không chấp nhận sự gián đoạn, dường như cũng hòa vào khoảnh khắc xúc động này. Nhiều sinh viên cũ của tôi hiện đang làm việc cho văn phòng bào chữa công ở New Orleans cũng tới tòa án để cổ vũ. Tôi phải gọi điện cho Caston và kể lại chuyện đã xảy ra vì màn hình video không cho ông thấy hết mọi diễn biến. Ông vui mừng khôn xiết. Ông trở thành người đầu tiên được phóng thích nhờ lệnh cấm án tù chung thân đối với trẻ vị thành niên của Tối cao Pháp viện.
Sau đó, chúng tôi đi dọc hành lang tới phòng xử án của Carter và giành thêm một chiến thắng nữa; bản án mới sẽ giúp Carter được trả tự do ngay lập tức. Gia đình của Carter vui mừng ngây ngất. Có những cái ôm và lời hứa về những bữa ăn nhà nấu cho tôi và nhân viên của EJI.
Carol và tôi bắt đầu bận rộn chuẩn bị cho cuộc phóng thích của Caston và Carter sẽ diễn ra tối hôm đó. Thông lệ của Angola là tù nhân sẽ được phóng thích vào lúc nửa đêm và họ được cho vé xe buýt đến New Orleans hoặc một thành phố tùy chọn ở Louisiana. Chúng tôi cử nhân viên tới Angola đón các thân chủ khi họ được thả, đỡ cho họ chuyến xe buýt đêm.
Mệt nhoài, tôi đi lang thang trong sảnh tòa án trong khi chờ đợi một văn bản nữa được fax và phê duyệt, mở đường cho việc phóng thích Caston và Carter. Một bà da đen lớn tuổi ngồi trên các bậc thang bằng đá cẩm thạch trong sảnh tòa án khổng lồ. Bà có vẻ mệt mỏi, đầu bà đội một chiếc mũ mà chị tôi và tôi hay gọi là “mũ đi lễ”. Bà có làn da sẫm mịn, và tôi nhận ra bà đã ở trong phòng xử khi Carter được kết án lại. Thực ra, tôi nghĩ mình vẫn thường trông thấy bà mỗi lần đến tòa án New Orleans. Tôi đồ rằng bà là họ hàng hoặc người quen của một trong các thân chủ, mặc dù tôi không nhớ gia đình họ đã bao giờ đề cập đến bà chưa. Có lẽ tôi đã nhìn bà chằm chằm bởi bà bắt gặp ánh mắt của tôi và vẫy tay gọi tôi lại gần.
Khi tôi tiến lại, bà mỉm cười. “Tôi mệt lắm, không gượng dậy nổi đâu, thế nên cậu phải ghé vào đây để tôi ôm cậu một cái.” Bà có giọng nói khàn khàn ngọt ngào.
Tôi mỉm cười với bà. “Vâng, vâng, thưa bà. Cháu thích được ôm, cảm ơn bà.” Bà quàng tay quanh cổ tôi.
“Ngồi đi, ngồi xuống đi. Tôi muốn nói chuyện với cậu,” bà nói.
Tôi ngồi xuống cạnh bà trên những bậc thang. “Cháu đã thấy bà ở đây mấy lần, có phải bà là người nhà của ông Caston hay ông Carter không?” Tôi hỏi.
“Không, không, không, tôi không liên quan gì đến ai ở đây cả. Theo như tôi biết thì không.” Bà cười phúc hậu và nhìn tôi chăm chú. “Tôi chỉ tới đây để giúp đỡ mọi người. Chốn này đầy đau khổ, mọi người ở đây cần được giúp đỡ nhiều lắm.”
“Ồ, bà thật tốt quá.”
“Không, đấy là những việc tôi phải làm, thế nên tôi cứ làm thôi.” Bà quay đi rồi lại nhìn vào mắt tôi. “Thằng cháu mười sáu tuổi của tôi đã bị sát hại mười lăm năm trước,” bà nói, “và tôi yêu nó hơn cả mạng sống của mình.”
Tôi bất ngờ trước câu trả lời đó và sực tỉnh. Bà nắm lấy tay tôi.
“Tôi đau lắm, đau lắm, đau lắm cậu ạ. Tôi đã hỏi Chúa tại sao Người lại để người ta mang cháu tôi đi như thế. Nó bị mấy thằng bé khác giết hại. Tôi đến phòng xử án này lần đầu tiên là để dự phiên tòa, hôm nào cũng ngồi đó và khóc suốt gần hai tuần. Thật chả có nghĩa lý gì. Mấy thằng bé đó bị buộc tội giết cháu tôi, và thẩm phán đã bắt chúng ngồi tù vĩnh viễn. Tôi tưởng rằng điều đó sẽ làm tôi cảm thấy khá hơn nhưng thực ra tôi lại cảm thấy tồi tệ hơn.”
Bà nói tiếp, “Tôi ngồi trong phòng xử sau khi chúng bị kết án, chỉ biết khóc và khóc. Có một cô đã đến bên tôi, ôm tôi và để tôi dựa vào cô ấy. Cô ấy hỏi có phải những đứa trẻ bị kết án là con tôi không, và tôi trả lời là không. Tôi bảo cô ấy rằng cậu bé mà chúng đã giết là cháu tôi.” Bà ngập ngừng. “Tôi nghĩ cô ấy đã ngồi với tôi gần hai tiếng đồng hồ. Suốt hơn một tiếng đồng hồ, không ai trong chúng tôi nói một lời. Tôi cảm thấy khá hơn khi cuối cùng cũng có một người để dựa vào hôm ấy, và tôi chưa bao giờ quên người phụ nữ đó. Tôi không biết cô ấy là ai, nhưng cô ấy đã làm một việc thật ý nghĩa.”
“Cháu rất tiếc về chuyện của cháu bà,” tôi thì thầm. Đó là tất cả những gì tôi có thể nói được.
“Ừm, tôi không bao giờ có thể hồi phục hoàn toàn, nhưng tôi phải sống tiếp, tôi phải sống tiếp thôi. Tôi không biết phải làm gì với cuộc đời mình sau những phiên tòa đó, nên khoảng một năm sau, tôi bắt đầu tới đây. Tôi không thực sự biết tại sao mình làm vậy. Có lẽ tôi cảm thấy mình có thể là một người cho ai đó đang bị tổn thương có thể dựa vào.” Bà khoác tay tôi.
Tôi mỉm cười với bà. “Thật tuyệt vời.”
“Đúng, rất tuyệt vời. Tên cậu là gì nhỉ?”
“Cháu là Bryan.”
“Rất tuyệt vời, Bryan ạ. Khi lần đầu tiên đến đây, tôi muốn tìm kiếm những người đã mất người thân vì bị giết hoặc vì một tội ác bạo lực nào đó. Sau đó, tôi nhận thấy đôi khi những người đau buồn nhất lại là những người có con cái hoặc cha mẹ phải ra hầu tòa, vì vậy tôi bắt đầu để cho bất cứ ai dựa vào mình khi họ cần. Tất cả những đứa trẻ đó sẽ phải ngồi tù suốt đời, tất cả những nỗi đau và bạo lực này. Mấy vị thẩm phán đó ném người ta đi cứ như họ không phải người; con người ta cứ bắn nhau, làm tổn thương nhau mà không mảy may động lòng. Tôi không biết nữa, thật quá đau lòng. Tôi quyết định rằng mình phải ở đây để bắt lấy những viên đá mà người ta ném vào nhau.”
Tôi cười khúc khích khi bà nói câu đó. Giữa các phiên tòa của McMillian, một mục sư địa phương đã tổ chức một cuộc gặp mặt ở nhà thờ để nói về vụ việc, và ông mời tôi đến nói chuyện. Một số người trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi không ủng hộ Walter, không phải vì họ nghĩ anh có tội mà vì anh ngoại tình và không hoạt động tích cực ở nhà thờ. Trong cuộc gặp mặt, tôi chủ yếu nói về vụ án của Walter, nhưng tôi cũng kể lại câu chuyện về một người đàn bà bị buộc tội gian dâm được đưa đến trước Chúa Jêsus; và Chúa đã nói với những kẻ buộc tội muốn ném đá cô cho đến chết, “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.”* Những kẻ tố cáo người phụ nữ rút lui, còn Chúa Jêsus tha thứ cho cô và khuyên cô đừng phạm tội nữa. Nhưng ngày nay, sự tự mãn, nỗi sợ hãi và tức giận của chúng ta đã khiến cho ngay cả những người Kitô cũng ném đá vào những kẻ lầm lạc, kể cả khi chúng ta biết mình nên tha thứ hoặc tỏ lòng từ bi. Tôi đã nói với giáo đoàn rằng chúng ta không thể cứ đứng khoanh tay nhìn điều đó xảy ra. Tôi bảo họ rằng chúng ta phải là những người hứng đá.
Tân ước, Ga 8:7. (Bản dịch của nhóm phiên dịch Giờ Kinh Phụng Vụ) (B.B.T.)
Lúc tôi cười khúc khích khi bà lão viện dẫn câu chuyện ngụ ngôn đó, bà cũng bật cười. “Hôm nay tôi đã nghe cậu nói trong phòng xử án. Tôi thậm chí đã trông thấy cậu ở đây một vài lần trước. Tôi biết cậu cũng là một người hứng đá.”
Tôi cười nhiều hơn. “Vâng, có lẽ cháu đang cố gắng trở thành một người như vậy.”
Bà nắm và xoa lòng bàn tay tôi. “Ừm, cậu sẽ bị đau khi phải bắt tất cả những hòn đá người ta ném ra đấy.” Bà tiếp tục vuốt bàn tay tôi, còn tôi không biết nói gì. Tôi cảm thấy yên lòng lạ thường trước người phụ nữ này. Tôi sẽ mất gần năm tiếng đồng hồ để lái xe trở lại Montgomery sau khi sắp xếp xong cho Caston và Carter. Tôi phải tiếp tục di chuyển, nhưng tôi cảm thấy thật dễ chịu khi được ngồi đây với người phụ nữ đang xoa nắn đôi bàn tay tôi một cách ân cần, mặc dù việc này có vẻ lạ lùng.
“Bà đang cố làm cho cháu khóc đấy à?” Tôi hỏi và gượng cười.
Bà vòng tay quanh tôi và mỉm cười. “Không, hôm nay cậu đã làm tốt lắm. Tôi rất mừng khi thẩm phán tuyên bố người đàn ông đó có thể về nhà. Tôi sởn cả da gà. Năm mươi năm tù, anh ta thậm chí còn không thể nhìn được nữa. Không, tôi tạ ơn Chúa vì Người đã nghe thấy điều đó. Cậu không việc gì phải khóc. Tôi chỉ muốn cho cậu dựa vào một chút, bởi vì tôi biết công việc hứng đá là như thế nào mà.”
Bà khẽ nắm chặt tay tôi rồi nói, “Bây giờ, cậu phải đi tiếp và rồi cậu sẽ giống như tôi, hát lên mấy bài hát buồn. Đừng làm mấy việc chúng ta đang làm mà không biết thưởng thức một bài hát buồn nhưng tuyệt hay nhé.”
“Tôi đã hát những khúc bi ca suốt cả cuộc đời. Phải hát, Bryan ạ. Khi cậu hứng đá, ngay cả các bài hát vui cũng có thể làm cậu buồn.” Bà dừng lại và im lặng. Tôi nghe thấy bà cười khúc khích trước khi nói tiếp. “Nhưng cậu vẫn phải hát. Các bài hát sẽ làm cậu mạnh mẽ hơn, thậm chí có thể làm cậu vui nữa.”
Mọi người vẫn hối hả qua lại trên những hành lang náo nhiệt của tòa án trong khi chúng tôi ngồi đó im lặng.
“Bà thật khéo an ủi,” tôi nói. “Cháu cảm thấy khá hơn nhiều rồi.
Bà đánh đùa vào tay tôi. “Ồ, cậu nịnh tôi đấy à, chàng trai. Trước khi gặp tôi trông cậu vẫn ổn đấy chứ. Hai người đàn ông đó đã được thả, và cậu có thể thoải mái dạo bước ở đây. Tôi chỉ làm những gì tôi làm, không hơn.”
Khi tôi cáo từ, hôn lên má bà và bảo bà rằng tôi phải đi ký giấy tờ phóng thích cho các thân chủ, bà dừng tôi lại. “Này, chờ đã.” Bà lục chiếc túi cho đến khi tìm thấy một chiếc kẹo bạc hà. “Đây, cậu cầm lấy đi.”
Cử chỉ đó làm cho tôi hạnh phúc theo cách mà tôi không thể lý giải được.
“Ồ, cháu cảm ơn bà.” Tôi mỉm cười và cúi xuống để hôn lên má bà một lần nữa.
Bà vẫy tay chào tôi, mỉm cười. “Đi đi, cứ đi tiếp đi nhé.”