← Quay lại trang sách

Chương mười lăm VỤN VỠ

Walter tuột dốc nhanh chóng. Những lúc anh lẫn lộn ngày một dài thêm. Chỉ chừng vài giờ là anh bắt đầu quên những việc mình vừa làm. Các chi tiết của công việc kinh doanh cứ trượt khỏi tay anh, và việc quản lý trở nên phức tạp theo những lối mà anh không hiểu nổi. Có lúc tôi xem lại sổ sách cùng anh, và phát hiện anh đã bán các thứ với giá tiền chỉ bằng một phần nhỏ giá trị của chúng và đang thua lỗ nặng.

Một đoàn làm phim từ Ireland đã tới Alabama làm một bộ phim tài liệu ngắn về án tử hình, bộ phim tập trung vào vụ việc của Walter cùng hai tử tù nữa ở Alabama. James “Bo” Cochran đã được phóng thích [1] sau gần hai mươi năm bóc lịch trong trại tử tù Alabama; một phiên xử mới được tiến hành sau khi các tòa án liên bang lật ngược bản án của anh vì có những dấu hiệu cho thấy có sự phân biệt chủng tộc trong quá trình lựa chọn bồi thẩm đoàn ở phiên sơ thẩm. Tại phiên xử mới, một bồi thẩm đoàn đa dạng về chủng tộc kết luận anh không phạm tội giết người, và anh được trả tự do. Người thứ ba được nhắc tới trong bộ phim, Robert Tarver, cũng kiên quyết khẳng định sự vô tội của mình. Về sau công tố viên phải thừa nhận rằng bồi thẩm đoàn đã được lựa chọn bất hợp pháp với thái độ phân biệt chủng tộc rõ ràng, nhưng các tòa án từ chối xem xét lại bản án vì lập luận phản đối của luật sư bào chữa không thỏa đáng. Và thế là Tarver bị xử tử hình.

Chúng tôi tổ chức một buổi chiếu ra mắt bộ phim tại văn phòng; tôi mời Walter và Bo tới giao lưu với khán giả. Có khoảng 75 người trong cộng đồng có mặt tại phòng họp EJI để xem phim. Walter có vẻ căng thẳng. Anh trả lời vắn tắt hơn mọi khi và hốt hoảng nhìn tôi mỗi khi có người đặt câu hỏi. Tôi bảo anh sẽ không phải thực hiện thêm bất cứ một bài trình bày nào nữa. Chị gái của anh kể cho tôi hay tối tối anh bắt đầu đi lang thang và bị lạc đường. Anh uống nhiều rượu, dù trước kia anh chưa bao giờ như vậy. Anh tâm sự với tôi rằng lúc nào anh cũng lo lắng và chất cồn giúp anh bình tĩnh hơn. Thế rồi một hôm, anh quỵ ngã. Lúc tôi nhận được tin báo, anh đang nằm viện ở Mobile. Tôi lái xe tới gặp bác sĩ của anh, ông cho biết Walter mắc hội chứng sa sút trí tuệ tăng nặng có lẽ là do sang chấn tâm lý gây ra, và anh sẽ cần được chăm sóc liên tục. Bác sĩ cũng nói chứng sa sút trí tuệ sẽ mỗi lúc một nặng thêm và Walter có thể sẽ mất năng lực nhận thức.

Chúng tôi gặp gia đình Walter ở văn phòng và thống nhất rằng anh nên chuyển tới Huntsville sống cùng một người họ hàng có thể thường xuyên chăm sóc anh. Mọi việc ổn thỏa được một thời gian, nhưng ở đó Walter thành ra bị kích động, vả lại anh cũng hết tiền. Vì vậy, anh quay lại Monroeville, nơi cô em gái Katie Lee đồng ý trông nom anh. Ở Monroeville, tình trạng của anh khá lên được một thời gian, rồi lại sa sút trở lại.

Không lâu sau, Walter cần được chuyển vào một cơ sở chăm sóc dành cho những người già yếu. Đa số các cơ sở không chịu nhận anh vì anh từng bị kết tội đại hình. Kể cả khi chúng tôi giải thích rằng anh bị kết án oan và giờ đã được minh oan, chúng tôi vẫn không thể thuyết phục bất cứ nơi nào tiếp nhận anh. EJI lúc này đã có một nhân viên công tác xã hội là Maria Morrison, cô bắt đầu làm việc với Walter và gia đình để tìm một nơi phù hợp cho anh. Đó là một quá trình mệt mỏi và quay cuồng. Cuối cùng Maria tìm được một chỗ ở Montgomery đồng ý nhận Walter một thời gian ngắn - không quá 90 ngày. Anh tới đó trong khi chúng tôi tính xem nên làm gì tiếp theo.

Tất cả những việc này làm tôi buồn bã vô hạn. Khối lượng công việc của chúng tôi tăng quá nhanh. Tôi vừa mới bào chữa cho vụ của Joe Sullivan trước Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và đang hồi hộp chờ đợi phán quyết. Tòa án Tối cao Alabama đã ấn định ngày xử tử một vài tử tù đã kết thúc quá trình kháng cáo. Nhiều năm qua chúng tôi vẫn lo ngại về viễn cảnh sẽ xảy ra khi số lượng tù nhân bị kết án quá lớn khiến việc tiến hành kháng cáo trở nên quá tải. Hơn một chục người đang phải đối mặt với ngày thi hành án, và chúng tôi biết sẽ cực kỳ khó chặn các vụ xử tử này trong bối cảnh pháp lý hiện tại ở Alabama, đó là chưa kể đến quy định giới hạn số lượng bản án tử hình có thể được tòa án liên bang thẩm định. Tôi đã họp với đội ngũ nhân viên của mình, và chúng tôi đưa ra một quyết định khó khăn là EJI sẽ đại diện cho tất cả những người đã bị định ngày xử tử mà chưa có luật sư bào chữa.

Vài tuần sau, tôi cảm thấy kiệt sức. Tôi lo lắng về những ngày tử hình cứ sau hai tháng lại được ấn định một lần ở Alabama. Tôi lo lắng không biết Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ sẽ làm gì với tất cả những đứa trẻ bị kết án tù chung thân, khi giờ đây đó là vấn đề mà Tối cao Pháp viện phải xem xét. Tôi lo lắng cho ngân quỹ của chúng tôi, và không biết liệu chúng tôi có đủ nhân viên và nguồn lực để kham hết số lượng vụ án ngày càng phình ra trong sổ ghi án hay không. Tôi cũng lo cho một số thân chủ đang gặp khó khăn. Khi đến viện điều dưỡng Montgomery để thăm Walter một tuần sau khi anh vào đó, tôi cảm tưởng như không có lúc nào là mình không lo lắng.

Walter ngồi trong phòng sinh hoạt chung xem TV với những người già yếu, phải thuốc thang nhiều hơn anh. Tôi run người khi thấy anh trong bộ đồ bệnh nhân giữa những người yếu ớt và bệnh tật ấy. Tôi dừng lại quan sát anh trước khi bước vào phòng; anh vẫn chưa trông thấy tôi. Nằm thượt trên chiếc ghế ngả, đầu gối lên tay, anh trông có vẻ buồn ngủ và chán chường. Anh nhìn đăm đăm về hướng TV nhưng không có vẻ gì là đang xem. Râu anh để nguyên không cạo, những mẩu vụn thức ăn vẫn dính trên cằm. Mắt anh đượm một vẻ buồn bã mà tôi chưa bao giờ thấy. Nhìn anh, tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống; tôi nửa muốn quay đi. Thấy tôi đứng bên ngoài, một cô y tá hỏi tôi tìm gặp ai. Tôi đáp, và cô mỉm cười thông cảm.

Khi cô y tá dẫn tôi vào phòng, tôi bước tới chỗ Walter và đặt tay lên vai anh. Anh cựa người nhìn lên rồi cười hớn hở.

“À, cậu đây rồi!” Anh có vẻ rất vui, rồi bỗng chốc anh trở lại thành con người trước kia. Anh bắt đầu cười nói và đứng lên. Tôi ôm anh. Tôi thấy nhẹ lòng; gần đây anh đã không nhận ra được một vài người họ hàng.

“Anh thế nào rồi?” Tôi hỏi trong khi anh khẽ dựa vào tôi.

“À, cậu thấy đấy, tôi ổn.” Chúng tôi bắt đầu đi về phòng anh để có thể nói chuyện riêng tư.

“Anh có cảm thấy khá hơn không?”

Đó không phải là một câu hỏi hợp lý, nhưng tôi hơi lo lắng khi thấy Walter thế này. Anh sút đi trông thấy, chiếc áo choàng chưa thắt dây lưng mà anh cũng chẳng để ý. Tôi bảo anh dừng lại.

“Chờ chút, để tôi giúp anh.”

Tôi thắt lại dây lưng cho anh, và chúng tôi tiếp tục đi về phòng. Anh di chuyển chậm chạp, thận trọng, và lê dép trên sàn như thể anh không nhớ phải nhấc chân lên như thế nào. Đi được vài bước dọc hành lang, anh bám lấy cánh tay tôi và dựa vào tôi trong khi chúng tôi đi chầm chậm.

“Này, tôi bảo họ là tôi có nhiều xe. Rất nhiều xe.” Anh nhấn mạnh với vẻ háo hức hơn lúc nãy. “Đủ màu sắc, kiểu dáng, kích cỡ. Gã đó bảo, ‘Xe của ông không chạy được.’ Tôi bảo xe của tôi chạy được.” Anh nhìn tôi. “Có lẽ cậu phải nói chuyện với gã đó về những chiếc ô tô của tôi nhé, được không?”

Tôi gật đầu và nghĩ về bãi phế liệu của anh. “Đúng rồi, anh có rất nhiều xe...”

“Tôi biết mà!” Anh ngắt lời tôi và cười lớn. “Thấy chưa, tôi đã bảo mà họ không tin. Tôi đã bảo mà.” Anh cười khúc khích nhưng có vẻ ngờ nghệch, không còn là chính mình. “Mấy người đó tưởng tôi không biết mình đang nói cái gì, nhưng tôi biết đích xác mình đang nói gì.” Anh kiêu hãnh nói.

Về đến phòng, anh ngồi xuống giường trong khi tôi lấy ghế. Anh trở nên bất động, im lặng và đột nhiên trông anh rất lo lắng.

“Thế đấy, trông như tôi đã quay lại đó rồi,” anh thở dài nặng nề. “Họ đã đưa tôi quay lại trại tử tù rồi.”

Giọng anh rất sầu não.

“Tôi đã cố. Tôi đã cố. Tôi đã cố lắm mà họ chẳng để tôi được yên.” Anh nhìn thẳng vào mắt tôi. “Tôi sẽ chẳng bao giờ hiểu nổi tại sao họ lại đối xử với một số người như họ đang đối xử với tôi. Tại sao lại có những người như vậy? Tôi chỉ làm việc của mình thôi mà. Tôi có làm hại ai đâu. Lúc nào tôi cũng cố gắng sống tử tế, nhưng bất kể tôi làm gì, người ta lại tới và đưa tôi trở lại trại tử tù... chẳng vì lý do gì. Chẳng vì lý do gì sất. Tôi chưa bao giờ làm hại ai. Chưa bao giờ, chưa bao giờ, chưa bao giờ.”

Anh trở nên quá đỗi xúc động, vì vậy tôi nắm lấy cánh tay anh.

“Anh, mọi chuyện vẫn ổn mà,” tôi cố nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Tình hình đâu đến nỗi thế. Tôi nghĩ là...”

“Cậu sẽ cứu tôi thoát khỏi đây đúng không? Cậu sẽ giúp tôi thoát khỏi trại tử tù một lần nữa chứ?”

“Walter, đây không phải trại tử tù. Sức khỏe của anh không được tốt, vì vậy anh ở đây cho khỏe. Đây là bệnh viện.”

“Họ lại bắt tôi rồi, cậu phải cứu tôi.”

Anh bắt đầu hoảng loạn, còn tôi không biết phải làm gì. Rồi anh bắt đầu khóc. “Làm ơn đưa tôi ra khỏi đây. Làm ơn! Họ sẽ giết tôi chẳng vì lý do gì, tôi không muốn chết trên ghế điện.” Anh gào khóc thảm thiết làm tôi phát hoảng.

Tôi ngồi xuống bên cạnh và khoác vai anh. “Rồi sẽ ổn thôi, rồi sẽ ổn thôi. Walter, mọi việc sẽ đâu vào đấy. Rồi sẽ đâu vào đấy.”

Anh run rẩy, tôi đứng dậy để anh nằm xuống. Anh thôi khóc khi đặt đầu xuống gối. Tôi bắt đầu nói chuyện nhẹ nhàng về việc thu xếp để anh được về nhà, nhưng trước hết chúng tôi cần tìm người giúp vì nếu để anh ở một mình thì thật sự không an toàn. Tôi mới ở thăm chưa được hai mươi phút mà mắt anh đã díp lại khi tôi nói, và chỉ mấy phút sau, anh đã ngủ say. Tôi kéo chăn lên và nhìn anh ngủ.

Ra ngoài hành lang, tôi hỏi một y tá về tình hình của anh.

“Anh ấy rất dễ mến,” cô nói. “Chúng tôi rất vui khi có anh ấy ở đây. Anh ấy nhã nhặn với các nhân viên, cư xử rất lịch sự và hòa nhã. Thỉnh thoảng anh ấy buồn và bắt đầu nói về nhà tù và bản án tử hình. Ban đầu chúng tôi không hiểu anh ấy đang nói gì, nhưng rồi có người đã tìm kiếm thông tin về anh ấy trên Internet, đến lúc đó chúng tôi mới biết về chuyện đã xảy ra với anh ấy. Có người nói rằng một người như thế thì không nên ở đây, nhưng tôi bảo họ rằng công việc của chúng tôi là giúp đỡ bất cứ ai cần được giúp đỡ.”

“Vâng, Nhà nước đã thừa nhận rằng anh ấy không làm bất kỳ điều gì sai trái. Anh ấy vô tội.”

Người y tá nhìn tôi trìu mến. “Tôi biết chứ, anh Stevenson, nhưng nhiều người ở đây cho rằng một khi anh đi tù, thì bất kể anh có đáng phải chịu tội đó hay không, anh cũng trở thành một người nguy hiểm, và họ không muốn dính dáng gì tới anh.”

“Vâng, thật đáng tiếc.” Đó là tất cả những gì tôi có thể kết luận.

Tôi rời bệnh viện trong tâm trạng bàng hoàng và lo lắng. Tôi vừa bước ra ngoài thì điện thoại di động đổ chuông. Tòa án Tối cao Alabama đã định ngày cho một cuộc tử hình nữa. Phó giám đốc hiện tại của EJI là Randy Susskind, một trong những luật sư giỏi nhất của chúng tôi. Cậu tập sự với chúng tôi từ khi còn là sinh viên luật của Đại học Georgetown rồi trở thành luật sư của văn phòng ngay sau khi tốt nghiệp. Randy đã chứng tỏ mình là một luật sư xuất sắc và là một người quản lý dự án cực kỳ hiệu quả. Tôi gọi cho Randy, thảo luận những việc cần làm để ngăn chặn vụ xử tử, mặc dù cả hai chúng tôi đều hiểu sẽ rất khó để giành được lệnh hoãn thi hành án ở giai đoạn này. Tôi kể với Randy về chuyến thăm Walter và tâm sự rằng tôi đã đau lòng như thế nào khi gặp anh. Chúng tôi im lặng trên điện thoại một lúc, như thường xảy ra mỗi khi chúng tôi nói chuyện.

Tỷ lệ xử tử gia tăng tại Alabama đang đi ngược lại xu hướng chung của cả nước. Tỷ lệ kết án tử hình ở Mỹ bắt đầu giảm vào năm 1999, dưới tác động của việc truyền thông đưa tin về tất cả những người vô tội bị kết án oan. Tuy nhiên, các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào thành phố New York ngày 11 tháng Chín năm 2001 cùng các mối đe dọa khủng bố và xung đột toàn cầu dường như đã làm gián đoạn tiến trình xóa bỏ án tử hình. Dù vậy, sau đó mấy năm, tỷ lệ xử tử và kết án tử hình lại sụt giảm [2] lần nữa. Đến năm 2013 [3] , số vụ tử hình hàng năm đã giảm xuống, còn chưa bằng một nửa con số của năm 1999. Một số tiểu bang đã tranh luận nghiêm túc về việc xóa bỏ án tử hình. Các bang New Jersey, New York, Illinois [4] , New Mexico, Connecticut, và Maryland đều đã xóa bỏ hình phạt này. Ngay cả ở Texas, nơi diễn ra gần 40% [5] trong số gần 1.400 cuộc xử tử ở Hoa Kỳ thời hiện đại, tỷ lệ tuyên án tử hình cũng đã giảm đáng kể, và tần suất tiến hành xử tử cũng giãn ra. Tỷ lệ kết án tử hình của Alabama [6] giảm từ cuối những năm 1990, nhưng vẫn ở mức cao nhất cả nước. Tới cuối năm 2009, Alabama có tỷ lệ xử tử trên đầu người cao nhất nước Mỹ.

Cứ sau hai tháng lại có một người phải đối mặt với ngày thi hành án, và chúng tôi phải chật vật chạy theo tốc độ này. Jimmy Callahan, Danny Bradley, Max Payne, Jack Trawick và Willie McNair đều bị xử tử vào năm 2009. Chúng tôi đã tích cực tìm cách ngăn chặn những vụ xử tử này, chủ yếu bằng cách tranh luận về cách thức thực hiện cuộc xử tử. Năm 2004, tôi đã bào chữa cho một vụ việc tại Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và đặt câu hỏi về tính hợp hiến của một số phương thức xử tử. Hiện nay, các bang hầu như đã xóa bỏ các hình thức xử tử bằng ghế điện, phòng hơi ngạt, xử bắn, treo cổ; và tiêm thuốc độc được lựa chọn làm hình thức thay thế. Được coi là sạch sẽ và êm đềm hơn, tiêm thuốc độc đã trở thành cách thức giết người theo luật phổ biến nhất ở hầu hết các bang còn giữ án tử hình. Tuy nhiên, người ta bắt đầu nghi ngờ về hiệu quả của biện pháp này cũng như đặt dấu hỏi về việc liệu nó có thật sự không gây đau đớn hay không.

Trong một cuộc tranh biện trước Tối cao Pháp viện, chúng tôi đã thách thức tính hợp hiến trong thủ tục tiêm thuốc độc của bang Alabama. Vì David Nelson đã ở độ tuổi lục tuần và nghiện ma túy từ lâu, nên tĩnh mạch của ông bị tổn thương nghiêm trọng; việc lấy ven cho Nelson trở thành một nhiệm vụ khó khăn. Các nhân viên cải huấn không thể chọc kim tiêm tĩnh mạch vào cánh tay ông mà không gây biến chứng. Lời thề Hippocrates không cho phép các bác sĩ và nhân viên y tế tham gia vào cuộc thi hành án tử hình, vì vậy các quan chức Alabama đã lên kế hoạch để các cán bộ cải huấn chưa qua đào tạo y tế dùng dao rạch 5 cm ở cánh tay hoặc háng của Nelson để tìm tĩnh mạch và tiêm độc tố giết ông. Chúng tôi lập luận rằng nếu không gây tê, thủ tục này sẽ đau đớn và tàn nhẫn một cách không cần thiết.

Tiểu bang Alabama phản biện rằng các quy định về thủ tục không cho phép ông Nelson thách thức tính hợp hiến của phương thức xử tử này. Vụ việc được Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ can thiệp. Câu hỏi đặt ra là liệu những tù nhân bị kết án có thể tiến hành khởi kiện đòi quyền công dân để phản đối các phương pháp xử tử có thể cho là vi hiến hay không. Thẩm phán Sandra Day O’Connor tham gia đặc biệt tích cực vào cuộc tranh luận, bà đặt cho tôi rất nhiều câu hỏi về tính hợp thức của việc cán bộ cải huấn trực tiếp tiến hành các thủ tục y tế. Tối cao Pháp viện đã nhất trí ra phán quyết ủng hộ chúng tôi [7] , theo đó, một tù nhân bị kết án có thể phản đối các phương thức xử tử vi hiến bằng cách đệ đơn kiện đòi quyền công dân. David Nelson qua đời vì những nguyên nhân tự nhiên một năm sau khi chúng tôi thắng kiện.

Sau vụ kiện của Nelson, các câu hỏi về sự kết hợp thuốc mà hầu hết các bang đang sử dụng để xử tử cũng được đặt ra. Nhiều bang đang sử dụng các loại thuốc [8] đã bị cấm dùng để giết súc vật vì chúng gây ra cái chết đau đớn không khác nào tra tấn. Những loại thuốc này không sẵn có ở Mỹ, nên các tiểu bang phải nhập khẩu chúng từ châu Âu. Nhưng rồi các nhà sản xuất châu Âu cũng ngừng cung cấp khi biết tin các loại thuốc này được sử dụng [9] cho các cuộc xử tử ở Mỹ. Khi thuốc độc trở nên khan hiếm, các cơ quan cải huấn tiểu bang phải tìm mua chúng một cách bất hợp pháp, bất chấp các quy tắc của FDA về việc mua bán và vận chuyển thuốc giữa các tiểu bang. Các cuộc truy quét dược phẩm trái phép [10] của các cơ sở cải huấn tiểu bang là một hệ quả kỳ quái của hoạt động mua bán thuốc phục vụ cuộc xử tử. Về sau, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ, trong vụ Baze v. Rees, [11] đã kết luận rằng thủ tục xử tử và các cách kết hợp thuốc đó không vi hiến. Sau phán quyết đó, các cuộc xử tử tiếp tục được thực hiện.

Điều đó có nghĩa là trong ba mươi tháng, các tử tù ở Alabama và nhân viên EJI sẽ phải đối mặt với 17 vụ xử tử. Nó xảy ra cùng thời điểm chúng tôi đại diện cho những trẻ em bị kết án tù chung thân không ân xá trên khắp cả nước. Suốt từ nhiều tháng trước đó, tôi đã bay đến Nam Dakota, Iowa, Michigan, Missouri, Arkansas, Virginia, Wisconsin và California để bào chữa cho những em thiếu niên bị kết án. Các tòa án, thủ tục và quan chức ở mỗi nơi lại một khác, và việc di chuyển đường xa rất mệt mỏi. Cùng thời điểm, chúng tôi cũng tích cực kiện tụng cho những em nhỏ bị kết án ở Mississippi, Georgia, North Carolina, Florida và Louisiana - những bang miền Nam mà chúng tôi đã khởi kiện từ trước. Và dĩ nhiên, cuốn sổ ghi hồ sơ thụ lý ở Alabama của chúng tôi chưa bao giờ chồng chất hay đòi hỏi nhiều sự chú ý như lúc này. Trong hai tuần, tôi đã đến California để thăm Antonio Nuñez tại một nhà tù xa xôi ở miền trung bang này trước khi tranh biện cho vụ việc của cậu tại một tòa phúc thẩm địa phương, đồng thời tích cực tìm cách để Trina Garnett ở Pennsylvania và Ian Manuel ở Florida được giảm án. Tôi đã tới một nhà tù ở Florida thăm Ian và Joe Sullivan, cả hai đều đang phải cố chống chọi với tình cảnh ngặt nghèo. Các quản giáo không cho Joe được sử dụng xe lăn thường xuyên, khiến cậu nhiều lần bị ngã và bị thương. Ian thì vẫn bị biệt giam. Còn tình trạng sức khỏe của Trina thì ngày một xấu đi.

Việc quản lý tất cả các sự vụ ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với tôi, mà thời gian Walter được ở viện điều dưỡng Montgomery lại sắp kết thúc. Chúng tôi quay cuồng thu xếp để anh được về nhà, nơi em gái anh hứa sẽ làm hết sức mình để chăm sóc anh. Đó là một tình huống đáng lo ngại cho anh và gia đình, và cho tất cả chúng tôi.

Đến khi Jimmy Dill bị định ngày xử tử ở Alabama, thì toàn bộ nhân viên EJI đã kiệt sức. Ngày xử tử được ấn định vào một quãng thời gian không thể khó khăn hơn. Vì chưa từng nghiên cứu vụ của Dill, chúng tôi phải tăng tốc trong ba mươi ngày trước thời điểm thi hành án đã định. Đó là một vụ phạm tội bất thường. Anh Dill bị buộc tội bắn một người sau một cuộc cãi cọ liên quan đến giao dịch ma túy. Nạn nhân không chết; anh Dill bị bắt và bị buộc tội tấn công nghiêm trọng. Anh bị tạm giam chín tháng để chờ xét xử trong khi nạn nhân ra viện và hồi phục nhanh chóng. Nhưng sau mấy tháng chăm sóc chồng tại nhà, vợ nạn nhân đã bỏ mặc anh ta, và nạn nhân trở bệnh thập tử nhất sinh. Khi anh ta qua đời, các công tố viên của bang thay đổi cáo buộc nhằm vào Dill; từ hành hung, anh bị đổi sang cáo buộc giết người.

Anh Jimmy Dill là người chậm trí; suốt thời thơ ấu, anh thường xuyên bị tấn công tình dục và ngược đãi. Cho đến khi bị bắt, anh luôn ở tình cảnh phải vật lộn với những cơn nghiện ma túy. Tòa chỉ định cho anh một luật sư bào chữa, nhưng vị này chuẩn bị bào chữa rất sơ sài. Hầu như chẳng ai điều tra về điều kiện chăm sóc y tế nghèo nàn dành cho nạn nhân, dù đó là nguyên nhân thực sự dẫn đến tử vong. Nhà nước đề nghị anh Dill nhận tội để đổi lấy mức án hai mươi năm, nhưng đề nghị ấy chưa bao giờ được thông báo đầy đủ cho Dill. Và thế là anh ra tòa, bị buộc tội và kết án tử hình. Các tòa án phúc thẩm tuyên y án đối với anh. Anh không tìm được luật sư thiện nguyện giúp anh kháng cáo hậu kết án, bởi vậy hầu hết các khiếu nại pháp lý của anh đều không được chấp nhận vì đã quá hạn nộp.

Chúng tôi bắt đầu tìm hiểu vụ việc của Dill khi chỉ còn vài tuần nữa là đến ngày xử tử anh, và đến tận khi ấy, vẫn chưa có tòa án nào xem xét độ tin cậy của lời buộc tội cũng như bản án dành cho anh. Để một hành vi được coi là tội giết người với mức án tử hình, bị cáo phải có chủ định giết người, nhưng trong trường hợp này, chúng tôi có thể chứng minh Dill không cố ý giết người, và chính điều kiện chăm sóc sức khỏe nghèo nàn mới là nguyên nhân gây ra cái chết của nạn nhân. Ít có người nào bị bắn mà chín tháng sau mới qua đời vì vết bắn, và thật ngạc nhiên khi nhà nước lại nhắm tới mức án tử hình trong trường hợp này. Hơn nữa, Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã cấm áp dụng mức án tử hình đối với những người chậm trí, vì vậy đáng lẽ với tình trạng khuyết tật trí tuệ của mình, anh Dill không phải chịu bản án tử hình, nhưng không ai điều tra hoặc đưa ra bằng chứng để ủng hộ luận điểm này.

Bên cạnh những trở ngại khác, Dill cũng gặp khó khăn lớn khi giao tiếp. Anh mắc tật nói lắp nặng. Khi anh hào hứng hoặc kích động, tật này càng tệ hơn. Vì trước đây chưa từng có luật sư nào tới gặp hoặc nói chuyện với anh, nên Dill coi sự can thiệp của chúng tôi như một phép màu. Tôi cử các luật sư trẻ tới gặp anh thường xuyên sau khi chúng tôi bắt tay xử lý vụ việc, và Dill thường xuyên gọi cho tôi.

Chúng tôi đã cố gắng điên cuồng để thuyết phục các tòa án ra lệnh đình chỉ thi hành án dựa trên những vấn đề mới mà chúng tôi phát hiện ra, nhưng vô ích. Các tòa án đều không muốn xem xét đơn khiếu nại khi thủ tục kháng cáo lần đầu đã hoàn tất. Ngay cả khiếu nại của chúng tôi về tình trạng thiểu năng trí tuệ của anh cũng bị bác bỏ vì không tòa án nào muốn mở phiên xử ở giai đoạn muộn như vậy. Dù biết cơ hội của chúng tôi rất mong manh, song tôi vẫn thầm hy vọng rằng có thể một vị thẩm phán nào đó sẽ quan tâm đến những khuyết tật trầm trọng của anh Dill và ít nhất sẽ cho chúng tôi cơ hội trình bày chứng cứ bổ sung. Nhưng tất cả các tòa án đều nói, “Đã muộn rồi.”

Vào ngày xử tử theo kế hoạch, một lần nữa tôi sẽ lại phải nói chuyện với một người sắp sửa bị trói lại và giết chết. Tôi đã bảo Dill gọi điện liên tục bởi chúng tôi đang đợi quyết định của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ về bản kiến nghị đình chỉ thi hành án cuối cùng mà chúng tôi gửi đi. Sớm hôm đó, anh có vẻ lo lắng nhưng vẫn nhất nhất khẳng định rằng mọi chuyện sẽ ổn. Anh nói với tôi rằng anh sẽ không từ bỏ hy vọng. Anh cố gắng bày tỏ sự cảm kích đối với những việc chúng tôi đã làm trong những tuần qua. Anh cảm ơn tôi vì đã cử nhân viên xuống thăm anh thường xuyên. Chúng tôi đã tìm được người thân của anh để anh kết nối lại với họ. Chúng tôi nói với anh rằng chúng tôi tin anh đã bị buộc tội và kết án bất công. Mặc dù chúng tôi vẫn chưa thuyết phục được tòa án nào đình chỉ thi hành án, song những nỗ lực của chúng tôi dường như cũng giúp anh chống chọi với nghịch cảnh. Nhưng rồi chúng tôi chẳng thể làm gì thêm nữa khi Tối cao Pháp viện từ chối kiến nghị đình chỉ thi hành án cuối cùng của chúng tôi. Chỉ chưa đầy một giờ nữa anh sẽ bị xử tử, và tôi phải báo với anh về quyết định của Tối cao Pháp viện. Tôi cảm thấy rợn ngợp.

Chúng tôi nói chuyện điện thoại ngay trước khi anh được đưa vào buồng thi hành án. Tôi khó có thể nghe được lời anh nói. Anh lắp bắp hơn bình thường và gặp khó khăn khi phát âm. Anh hoảng sợ trước cuộc xử tử sắp diễn ra, nhưng vẫn cố gắng giữ bình tĩnh để bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực của chúng tôi. Tôi ngồi một lúc lâu, giữ máy trong khi anh cố nặn ra từng chữ. Thật đau lòng. Rồi bỗng nhiên tôi nhớ tới một câu chuyện mà mình đã hoàn toàn quên lãng cho đến giây phút đó.

Hồi tôi còn nhỏ, chừng mười tuổi, mẹ thường cho tôi đến nhà thờ. Một lần nọ, tôi đứng chơi bên ngoài nhà thờ cùng với đám bạn, trong đó có một đứa rủ theo một chú em họ từ xa tới dự lễ. Chú bé lạ mặt đó là một cậu nhóc nhút nhát, gầy gò, cao tầm bằng tôi, cậu ta cứ sợ hãi bám dính lấy anh mình. Cậu không nói gì cả khi nhóm chúng tôi ngồi tán gẫu. Tôi hỏi nhà cậu ở đâu, và khi cậu cố cất tiếng trả lời, cậu ngắc ngứ khủng khiếp. Cậu có tật nặng khi nói và không thể điều khiển được miệng mình. Cậu thậm chí còn không thể nói được tên thị trấn nơi cậu sống. Tôi chưa bao giờ gặp người nào nói lúng búng đến thế. Nghĩ rằng cậu đang đùa hoặc giả vờ, tôi cười phá lên. Đứa bạn lo ngại nhìn tôi, nhưng tôi vẫn không thể nhịn được cười. Rồi tôi thoáng thấy mẹ đang nhìn mình với nét mặt tôi chưa bao giờ thấy. Đó là sự pha trộn giữa nỗi kinh hoàng, tức giận và xấu hổ, tất cả đều xoáy vào tôi. Thái độ đó của mẹ làm tôi im bặt ngay lập tức. Tôi luôn cảm thấy mình được mẹ cưng chiều, thế nên tôi rất lo sợ khi mẹ gọi tôi lại.

Khi tôi lại gần, mẹ tức giận hỏi tôi, “Con đang làm gì vậy?”

“Dạ? Con không...”

“Con không bao giờ được cười ai vì họ không thể nói năng gãy gọn. Đừng bao giờ làm thế!”

“Con xin lỗi.” Tôi cảm thấy vô cùng đau khổ khi bị mẹ khiển trách nặng nề. “Mẹ, con không cố ý làm gì sai.”

“Lẽ ra con phải biết rõ hơn, Bryan.”

“Con xin lỗi. Con tưởng...”

“Mẹ không muốn nghe nữa, Bryan. Đừng lấp liếm, mẹ rất thất vọng về con. Bây giờ, mẹ muốn con quay lại đó và xin lỗi bạn.”

“Vâng, thưa mẹ.”

“Sau đó mẹ muốn con ôm bạn.”

“Gì cơ ạ?”

“Sau đó mẹ muốn con nói với bạn rằng con quý mến cậu ấy.” Tôi ngước nhìn mẹ và kinh hoàng khi thấy nét mặt mẹ đang rất nghiêm trọng. Tôi đã tỏ ra hối lỗi hết sức có thể, nhưng như thế này thì thật quá đáng.

“Mẹ, con không thể tới nói với cậu ấy là con yêu quý cậu ấy. Mọi người sẽ...” Mẹ lại nhìn tôi với ánh mắt kia. Tôi ủ rũ quay trở lại với đám bạn. Bọn nó rõ ràng đã trông thấy mẹ mắng tôi. Tôi biết thế vì tất cả đều nhìn tôi chằm chằm. Tôi đi đến chỗ cậu bạn nói lắp.

“Cậu à, tớ xin lỗi.”

Tôi thực sự hối lỗi vì đã cười nhạo cậu và thậm chí còn hối hận hơn nữa vì đã tự đặt mình vào tình thế này. Tôi quay ra nhìn mẹ, bà vẫn nhìn tôi chằm chằm. Tôi ào tới và trao cho cậu một cái ôm gượng gạo. Tôi nghĩ mình đã làm cậu giật mình khi túm lấy cậu như thế, nhưng khi cậu nhận ra rằng tôi đang cố ôm cậu, người cậu chùng xuống và cậu ôm lấy tôi.

Lũ bạn nhìn tôi như thể tôi là sinh vật lạ.

“Ừ... tớ cũng, ừ... tớ quý cậu!” Tôi cười gượng và cố nói vờ vịt cho xong. Tôi vẫn ôm cậu, vì thế cậu không thể nhìn thấy sự thiếu thành thật trên gương mặt tôi.

Nhờ vậy, tôi cảm thấy đỡ chối hơn và mỉm cười như thể đó là một trò đùa. Nhưng rồi cậu ôm chặt tôi và thì thầm vào tai tôi. Cậu phát âm trơn tru, không lắp bắp và không do dự.

“Tớ cũng quý cậu.” Trong giọng nói của cậu có sự dịu dàng và chân thật, và chỉ như thế thôi, tôi nghĩ mình sắp khóc.

Tôi đang ở văn phòng, nói chuyện với Jimmy Dill vào đêm anh bị xử tử, và tôi nhận ra mình đang nghĩ về một chuyện đã xảy ra gần bốn mươi năm trước. Tôi cũng nhận ra mình đang khóc. Những giọt nước mắt lăn xuống má tôi - những kẻ đào tẩu ấy đã thoát ra lúc nào không biết. Vật lộn để thốt ra từng từ, Dill đang nỗ lực hết sức để cảm ơn tôi vì đã cố gắng cứu mạng anh. Giờ thi hành án càng đến gần, anh càng ấp úng hơn. Các giám thị đang nói chuyện ồn ào phía sau anh, và tôi biết anh đang khó chịu vì không thể phát âm đúng, nhưng tôi không muốn ngắt lời anh. Tôi cứ ngồi đó và để mặc những giọt nước mắt lăn trên má.

Anh càng cố gắng nói thành lời, tôi càng muốn khóc. Khoảng lặng kéo dài đã cho tôi quá nhiều thời gian để suy nghĩ. Anh sẽ chẳng bao giờ bị buộc tội giết người nếu anh có tiền thuê một luật sư giỏi. Anh sẽ chẳng bao giờ bị kết án tử hình nếu có người chịu điều tra quá khứ của anh. Đây thật là một bi kịch. Nỗ lực phát âm từng lời và sự kiên quyết bày tỏ lòng biết ơn của anh đã củng cố niềm tin trong tôi về nhân tính nơi anh, và nó khiến tôi không thể chịu nổi ý nghĩ về cuộc xử tử sắp tới. Tại sao họ không hiểu được điều ấy? Tối cao Pháp viện đã cấm áp dụng án tử hình đối với những người thiểu năng trí tuệ, nhưng các tiểu bang như Alabama lại không chịu đánh giá trung thực về tình trạng khuyết tật của những người bị kết án. Đáng lẽ chúng ta phải xét xử mọi người một cách công bằng sau khi xem xét toàn diện hoàn cảnh sống của họ, nhưng thay vào đó, chúng ta lại lợi dụng thực tế rằng người nghèo không thể có được sự trợ giúp pháp lý mà họ cần để giết họ một cách xuôi chèo mát mái.

Khi ngồi nghe điện thoại của Dill, tôi đã suy nghĩ về tất cả những cuộc chống chọi của anh, tất cả những điều khủng khiếp anh đã trải qua, và vì khuyết tật mà cuộc đời anh đã bị hủy hoại như thế nào. Chẳng điều gì có thể biện minh cho chuyện anh đã bắn ai đó, nhưng việc giết anh cũng đâu có nghĩa lý gì. Tôi cảm thấy giận dữ. Tại sao chúng ta muốn giết bỏ tất cả những con người vụn vỡ đó? Chúng ta bị làm sao vậy, khi ta nghĩ rằng một điều như thế là đúng đắn?

Tôi cố không để Dill biết là tôi khóc. Tôi cố không cho anh thấy rằng trái tim tôi đang tan nát vì anh. Cuối cùng, Dill cũng nói được thành lời.

“Anh Bryan, tôi chỉ muốn cảm ơn anh vì đã đấu tranh cho tôi. Cảm ơn anh đã quan tâm đến tôi. Tôi yêu quý tất cả các anh vì đã cố gắng cứu giúp tôi.”

Đến lúc gác máy, khuôn mặt tôi đã ướt nhòa, còn trái tim thì vỡ vụn. Sự thiếu vắng tình thương mà tôi chứng kiến mỗi ngày cuối cùng cũng làm tôi kiệt sức. Tôi nhìn quanh văn phòng ngổn ngang, chật chội của mình, nhìn những chồng hồ sơ và giấy tờ, mỗi chồng đều chứa đầy những câu chuyện bi thảm, và đột nhiên tôi không muốn sống giữa những nỗi khổ đau, bi kịch này nữa. Khi ngồi đó, tôi nghĩ mình là một thằng ngốc vì cứ cố cứu vãn những tình huống tan hoang đến nhường ấy. Đến lúc phải dừng lại rồi. Mình không thể làm việc này thêm nữa.

Lần đầu tiên tôi nhận ra cuộc sống của tôi chỉ toàn là vụn vỡ. Tôi làm việc trong một hệ thống công lý vụn vỡ. Thân chủ của tôi bị đốn gục bởi chứng bệnh tâm thần, nghèo đói, và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Họ bị xé nát bởi bệnh tật, ma túy và rượu cùng lòng kiêu hãnh, nỗi sợ hãi và sự tức giận. Tôi nghĩ về Joe Sullivan, Trina, Antonio, Ian, và hàng chục đứa trẻ vụn vỡ khác mà chúng tôi đang giúp đỡ, họ đang phải vật lộn để sống sót trong tù. Tôi nghĩ về những người vụn vỡ vì chiến tranh như Herbert Richardson; những người vụn vỡ vì nghèo đói như Marsha Colbey; những người vụn vỡ vì khuyết tật như Avery Jenkins. Trong tình trạng vụn vỡ đó, họ đã bị xét xử và kết án bởi những người mà cam kết bảo vệ công lý đã bị nỗi hoài nghi, vô vọng, và thành kiến đập vỡ.

Tôi nhìn máy tính và tờ lịch trên tường. Tôi nhìn quanh văn phòng, nhìn các tập hồ sơ. Tôi thấy danh sách nhân viên của chúng tôi đã tăng lên gần bốn mươi người. Và trước khi tôi kịp nhận ra, tôi đã nói to thành lời với chính mình: “Mình có thể ra đi mà. Tại sao mình lại làm công việc này?”

Phải mất một lúc tôi mới bình tĩnh trở lại, nhưng khi ngồi đó trong lúc Jimmy Dill đang bị xử tử tại nhà tù Holman, tôi đã nhận ra một điều. Sau hơn hai mươi lăm năm làm việc, tôi hiểu rằng tôi làm công việc tôi đang làm không phải vì nó là điều bắt buộc, cần thiết hay quan trọng. Tôi làm nó không phải vì tôi không có lựa chọn nào khác.

Tôi làm những công việc tôi đang làm vì tôi cũng vụn vỡ.

Những năm đấu tranh chống bất bình đẳng, lạm quyền, nghèo đói, áp bức, và bất công cuối cùng đã tiết lộ cho tôi một điều về bản thân mình. Cận kề với nỗi đau, cái chết, những cuộc xử tử và những hình phạt tàn nhẫn không chỉ vén mở sự vụn vỡ của người khác, mà trong một khoảnh khắc đau đớn và khổ tâm, nó cũng phơi bày sự vụn vỡ của chính tôi. Bạn không thể lao tâm khổ tứ chiến đấu chống lại sự lạm quyền, nghèo đói, bất bình đẳng, bệnh tật, áp bức, hoặc bất công mà không bị chính nó tàn phá.

Tất cả chúng ta đều vụn vỡ vì một điều gì đó. Chúng ta đều từng làm tổn thương người khác và từng bị người khác làm cho tổn thương. Tất cả chúng ta đều vụn vỡ dù sự vụn vỡ của chúng ta không giống nhau. Tôi tha thiết mong Jimmy Dill được thương xót và có thể làm mọi thứ để mang lại công lý cho anh, nhưng tôi không thể tự huyễn hoặc rằng cuộc đấu tranh của anh không liên quan gì tới cuộc đấu tranh của chính tôi. Cách mà tôi đã bị tổn thương - và làm tổn thương người khác - khác với cách mà Jimmy Dill đã phải chịu đựng đau khổ và gây ra đau khổ. Nhưng chính sự vụn vỡ chung kia đã kết nối chúng tôi lại với nhau.

Paul Farmer, vị bác sĩ nổi tiếng đã dành cả cuộc đời chữa bệnh cho những người nghèo nhất và đau yếu nhất thế giới, từng trích lời nhà văn Thomas Merton rằng: “Chúng ta là những thân xác với những chiếc xương vỡ nát.” Tôi đoán mình vẫn biết nhưng chưa bao giờ thấm thía được rằng chính sự vụn vỡ đã làm nên nhân tính trong chúng ta. Tất cả chúng ta đều có lý do của mình. Đôi khi chúng ta rạn nứt vì những điều ta chọn; đôi khi chúng ta lại tan vỡ vì những điều mà chúng ta chẳng bao giờ chọn. Nhưng sự vụn vỡ của chúng ta là cội nguồn của một nhân tính chung, là nền tảng cho cuộc tìm kiếm chung một niềm an ủi, ý nghĩa và sự chữa lành. Chính sự khiếm khuyết và dễ bị tổn thương chung nơi chúng ta đã nuôi dưỡng và duy trì lòng từ ái trong chúng ta.

Chúng ta có một lựa chọn. Chúng ta có thể thâu nhận nhân tính của mình, tức là thâu nhận bản chất vụn vỡ và lòng từ ái vốn là hy vọng lớn nhất của chúng ta cho việc chữa lành. Hoặc chúng ta có thể phủ nhận sự vụn vỡ của mình, chối bỏ lòng từ ái, và kết quả là phủ nhận nhân tính của mình.

Tôi nghĩ về những nhân viên quản giáo đang trói Jimmy Dill vào chiếc giường điện. Tôi nghĩ về những người sẽ hò reo khi anh chết và xem đó như một chiến công. Tôi nhận ra họ cũng là những con người vụn vỡ, kể cả khi họ không bao giờ thừa nhận điều đó. Nhiều người trong chúng ta đã trở nên sợ hãi và tức giận. Chúng ta đã trở nên hoang mang và thù hận đến nỗi chúng ta đã bỏ mặc trẻ em, thải loại người tàn tật, giam hãm những người bệnh tật và yếu đuối - không phải vì họ là mối đe dọa đối với an ninh công cộng hoặc không thể cải hóa được, mà vì chúng ta nghĩ rằng những hành động đó làm ta có vẻ mạnh mẽ hơn và đỡ vụn vỡ hơn. Tôi nghĩ đến các nạn nhân của tội phạm bạo lực và những người ở lại khi người thân của họ bị giết hại, và về cách mà chúng ta đã gây áp lực buộc họ phải tái tạo lại nỗi đau và đáp trả những tội nhân mà chúng ta truy tố. Tôi nghĩ về những cách thức mà chúng ta đã sử dụng để hợp pháp hóa các hình phạt thù hận và độc ác, về cách mà chúng ta đã dùng nỗi đau của mình để biện minh cho việc đối xử tàn tệ với người khác. Chúng ta đã để mặc cho bản năng nghiệt ngã nghiến nát những người lộ rõ sự vụn vỡ nhất trong số chúng ta.

Nhưng việc trừng phạt những người vụn vỡ - xa lánh họ hoặc đẩy họ đi cho khuất mắt - chỉ bảo đảm rằng họ vẫn vụn vỡ, và chúng ta cũng vậy. Thiếu đi nhân tính tương hỗ, con người sẽ chẳng vẹn toàn.

Tôi thường xuyên có những cuộc trò chuyện khó khăn với những thân chủ đang tuyệt vọng chống chọi với tình cảnh của họ - về những việc họ đã làm hoặc những việc người khác đã làm với họ, dẫn họ đến những khoảnh khắc đau đớn. Bất cứ khi nào mọi việc trở nên tồi tệ và khi họ tỏ ra hoài nghi về giá trị cuộc đời mình, tôi sẽ nhắc cho họ nhớ rằng điều tồi tệ nhất mà ta từng làm không định nghĩa nên con người ta. Tôi bảo họ rằng nếu ai đó nói dối, thì người đó không phải chỉ là kẻ nói dối. Nếu bạn lấy thứ gì đó không thuộc về bạn, bạn không phải chỉ là tên trộm. Ngay cả khi bạn giết ai đó, bạn không phải chỉ là kẻ giết người. Tối hôm đó, tôi tự dặn mình những điều tôi đã nói với các thân chủ trong nhiều năm qua. Tôi không phải chỉ có vụn vỡ. Trên thực tế, có một sức mạnh, một quyền năng trong việc thấu hiểu sự vụn vỡ, bởi việc thâu nhận sự vụn vỡ tạo ra nhu cầu và ước muốn được xót thương, tương ứng với nó là nhu cầu bày tỏ lòng xót thương. Khi bạn nếm trải lòng xót thương, bạn học được những điều mà bạn khó có thể học được nếu không kinh qua trải nghiệm đó. Bạn sẽ nhìn thấy những điều mà bạn không thể nhìn thấy, bạn sẽ nghe thấy những điều bạn không thể nghe thấy nếu làm khác đi. Bạn bắt đầu nhận ra nhân tính bên trong mỗi người.

Đột nhiên, tôi cảm thấy mạnh mẽ hơn. Tôi bắt đầu suy nghĩ về viễn cảnh sẽ xảy ra nếu tất cả chúng ta thừa nhận sự vụn vỡ của mình, nếu chúng ta chấp nhận những điểm yếu, thiếu sót, định kiến và nỗi sợ hãi của chúng ta. Có lẽ nếu chúng ta làm vậy, chúng ta sẽ không muốn giết bỏ những con người vụn vỡ trong số chúng ta, những con người đã giết những người khác. Mà đổi lại, chúng ta sẽ gắng sức hơn nữa để tìm kiếm các giải pháp chăm sóc người khuyết tật, người bị ngược đãi, người bị bỏ rơi và người bị tổn thương. Tôi cho rằng nếu chúng ta thừa nhận sự vụn vỡ của mình, chúng ta không còn có thể tự hào về việc giam giữ hàng loạt, về việc xử tử người khác, và về sự thờ ơ hữu ý của chúng ta với những người dễ bị tổn thương nhất.

Khi còn là sinh viên đại học, tôi từng chơi nhạc trong một nhà thờ của người da đen ở một khu nghèo phía Tây Philadelphia. Trong buổi lễ, đến một lúc tôi sẽ chơi đàn organ trước khi dàn hợp xướng bắt đầu cất giọng. Mục sư sẽ đứng dậy, dang rộng cánh tay và nói, “Hãy cho con nghe thấy niềm vui sướng hân hoan, để những chiếc xương mà Chúa đã đập vỡ có thể vui ca.” Tôi chưa bao giờ thấm thía điều mục sư nói cho tới đêm Jimmy Dill bị xử tử.

Tôi may mắn được gặp bà Rosa Parks* khi mới chuyển tới Montgomery. Thỉnh thoảng bà lại từ Detroit, nơi bà đang sống, về lại Montgomery để thăm những người bạn thân. Johnnie Carr là một trong những người bạn đó. Bà Carr đã kết bạn với tôi, và tôi nhanh chóng nhận ra bà là một nhân cách lớn - lôi cuốn, mạnh mẽ và truyền đầy cảm hứng. Xét trên nhiều phương diện, bà là kiến trúc sư thực sự của Cuộc Tẩy chay trên xe buýt ở Montgomery. Bà đã tổ chức người và phương tiện đi lại trong suốt cuộc tẩy chay và làm rất nhiều công việc nặng nhọc để biến nó trở thành hoạt động lớn đầu tiên đạt được thành công của Phong trào Dân quyền hiện đại, và bà đã kế nhiệm Tiến sĩ Martin Luther King Jr. trong cương vị Chủ tịch Hiệp hội Cải thiện Montgomery. Khi tôi gặp bà lần đầu, bà đã gần tám mươi tuổi. “Bryan, từ giờ thỉnh thoảng tôi sẽ gọi điện cho cậu và nhờ cậu làm việc nọ việc kia; và khi tôi nhờ cậu làm gì đó, cậu sẽ nói ‘Vâng, thưa bà, được chứ?”

Rosa Louise McCauley Parks (1913-2005): Nhà hoạt động dân quyền xuất chúng, được coi là biểu tượng của cuộc Tẩy chay Xe buýt Montgomery những năm 1950. Bà được Quốc hội Mỹ gọi là “đệ nhất phu nhân của phong trào dân quyền”, “mẹ đẻ của phong trào đòi tự do”. Tạp chí Time đánh giá bà là một trong hai mươi người có ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. (B.B.T.)

Tôi cười khúc khích - và đáp, “Vâng, thưa bà.” Thỉnh thoảng bà gọi điện chỉ để hỏi thăm tôi, và có hôm bà gọi điện rủ tôi khi bà Parks tới thăm.

“Bryan này, Rosa Parks sắp đến, và chúng ta định gặp nhau tại nhà Virginia Durr để trò chuyện. Cậu có muốn ghé qua để nghe không?”

Khi gọi cho tôi, bà Carr sẽ muốn tôi tới một nơi nào đó để “nói” hoặc để “nghe”. Bất cứ khi nào bà Parks đến, tôi đều được mời đến nghe.

“Ồ, vâng, thưa bà. Cháu rất muốn đến nghe các bà nói chuyện,” tôi luôn luôn trả lời như vậy để khẳng định tôi biết mình phải làm gì khi đến gặp các bà.

Bà Parks và bà Carr sẽ gặp nhau tại nhà bà Virginia Durr. Bà Durr cũng là một nhân cách lớn. Ông Clifford Durr - chồng bà - là luật sư đại diện cho Tiến sĩ King trong suốt thời gian ông ở Montgomery. Ở độ tuổi ngoài chín mươi, bà Durr vẫn luôn kiên cường đấu tranh chống lại bất công. Bà thường xuyên rủ tôi đi cùng bà đến nhiều nơi hoặc mời tôi tới nhà ăn tối. EJI bắt đầu thuê nhà bà cho nhân viên và sinh viên thực tập ở vào mùa hè khi bà đi vắng.

Khi tôi tới nhà bà Durr để nghe ba người phụ nữ quái kiệt này nói chuyện, bà Rosa Parks luôn tử tế và hào phóng với tôi. Nhiều năm sau, thỉnh thoảng tôi vẫn gặp bà tại các sự kiện ở các bang khác và lần nào cũng dành chút thời gian trò chuyện với bà. Nhưng nói chung, tôi chỉ thích nghe bà Parks, bà Carr và bà Durr nói chuyện. Các bà sẽ nói chuyện thao thao bất tuyệt. Cười và kể chuyện như những chứng nhân về những việc mà mọi người có thể làm khi cùng đứng lên (hoặc cùng ngồi xuống, trong trường hợp của bà Parks). Họ lúc nào cũng hăng say. Sau tất cả những việc họ đã làm, họ vẫn tập trung vào các kế hoạch hành động vì dân quyền.

Lần đầu tiên tôi gặp bà Parks là khi tôi ngồi ở hiên nhà bà Durr tại Old Cloverdale, một khu dân cư ở Montgomery, và nghe ba bà trò chuyện suốt hai giờ đồng hồ. Cuối cùng, sau khi thấy tôi chăm chú lắng nghe, bà Parks quay sang tôi và trìu mến hỏi, “Bây giờ, Bryan, nói cho tôi biết cậu là ai và cậu đang làm gì.” Tôi nhìn bà Carr để xem tôi có được phép nói không, bà mỉm cười gật đầu. Rồi tôi trình bày với bà Parks.

“Vâng thưa bà. Cháu có một dự án luật gọi là Sáng kiến Công lý Bình đẳng, và chúng cháu đang cố gắng giúp đỡ các tử tù. Thật ra chúng cháu đang nỗ lực để xóa bỏ án tử hình. Chúng cháu đang cố làm gì đó để cải thiện điều kiện giam giữ và những hình phạt thái quá. Chúng cháu muốn giải thoát cho những người bị tù oan. Chúng cháu muốn xóa bỏ những bản án bất công trong các vụ án hình sự và ngăn chặn tình trạng phân biệt chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự. Chúng cháu đang cố gắng giúp đỡ người nghèo và bào chữa cho họ, chúng cháu muốn làm gì đó để giải quyết tình trạng mọi người không nhận được sự trợ giúp pháp lý cần thiết. Chúng cháu đang cố gắng giúp đỡ những người mắc bệnh tâm thần. Chúng cháu đang cố gắng ngăn cản họ đưa trẻ em vào những nhà tù và trại giam dành cho người trưởng thành. Chúng cháu đang cố cải thiện tình trạng đói nghèo và tuyệt vọng tràn lan trong các cộng đồng nghèo. Chúng cháu muốn nhìn thấy sự đa dạng hơn nữa ở những người giữ vai trò ra quyết định trong hệ thống tư pháp. Chúng cháu đang cố gắng để cho mọi người hiểu về lịch sử chủng tộc và sự cần thiết của công lý chủng tộc. Chúng cháu đang cố gắng chống lại sự lạm quyền của cảnh sát và công tố viên...” Nhận ra mình đã nói quá dài, tôi đột ngột dừng lại. Bà Parks, bà Carr, và bà Durr đều đang nhìn tôi.

Bà Parks ngả người ra sau và mỉm cười. “Ồ, cháu thân mến, tất cả những điều đó sẽ làm cháu mệt, mệt lắm, mệt lắm đấy.” Tất cả chúng tôi đều bật cười. Tôi bối rối nhìn xuống. Rồi bà Carr cúi người về phía trước, đặt một ngón tay lên mặt tôi và nói chuyện với tôi giống như bà tôi vẫn thường làm. Bà nói, “Đó là lý do tại sao cháu phải can đảm, phải can đảm, thật can đảm.” Cả ba bà đều gật đầu, im lặng đồng tình, và bỗng chốc, họ làm tôi cảm thấy mình như một vị quân vương trẻ tuổi.

Tôi nhìn đồng hồ. Đã 6:30 chiều. Lúc này Dill đã chết. Tôi đã quá mệt, và đã đến lúc phải chấm dứt cái suy nghĩ ngốc nghếch về chuyện bỏ cuộc. Đã đến lúc phải can đảm. Tôi quay sang máy tính của tôi. Có một email mời tôi đến nói chuyện về việc nuôi dưỡng hy vọng với các học sinh tại một học khu nghèo. Giáo viên nói với tôi rằng cô đã nghe tôi nói chuyện và muốn tôi trở thành tấm gương cho các học sinh và truyền cảm hứng cho các em làm những điều tốt đẹp. Ngồi trong văn phòng, lau khô nước mắt, ngẫm ngợi về sự vụn vỡ của chính mình, tôi cảm thấy lời mời ấy có vẻ rất buồn cười. Nhưng khi nghĩ về những đứa trẻ đó cùng những bất công khủng khiếp mà quá nhiều trẻ em trên đất nước này phải vượt qua, tôi bắt đầu biên thư trả lời rằng tôi rất hân hạnh được đến thăm.

Trên đường về nhà, tôi bật radio, tìm kiếm tin tức về vụ xử tử Dill. Tôi tìm thấy một kênh đang phát chương trình thời sự. Đó là một kênh tôn giáo địa phương, và chương trình thời sự của họ không đề cập đến vụ xử tử. Tôi để nguyên kênh đó, và ít phút sau, một người rao giảng mở đầu bài thuyết pháp. Bà bắt đầu với đoạn kinh thánh.

Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh. *

Tân ước, Cor 12:8 - 12:10. (Bản dịch của nhóm phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ) (B.B.T.)

Tôi tắt radio, và khi chầm chậm lái xe về nhà, tôi hiểu rằng ngay cả khi chúng ta bị mắc vào một tấm lưới giăng mắc đầy đớn đau và vụn vỡ, chúng ta cũng đang ở trong một tấm lưới của sự chữa lành và lòng xót thương. Tôi nghĩ về cậu bạn đã ôm tôi bên ngoài nhà thờ năm nào, mang đến cho tôi sự hòa giải và tình yêu thương. Tôi không xứng đáng được hòa giải hay yêu thương trong khoảnh khắc đó, nhưng lòng xót thương là như thế đấy. Sức mạnh của lòng xót thương công chính nằm ở chỗ nó thuộc về những người không xứng đáng. Khi lòng xót thương ít được mong đợi nhất thì đó lại là lúc nó mạnh mẽ nhất, đủ để phá vỡ cái vòng ngược đãi và bị hại, trừng phạt và chịu đựng. Nó có sức mạnh để chữa lành sự tổn thương tinh thần và những thương tích dẫn tới hành vi hung hăng, bạo lực, sự lạm quyền, và giam giữ hàng loạt.

Tôi lái xe về nhà, vụn vỡ và đau lòng vì Jimmy Dill. Nhưng tôi biết mình sẽ trở lại vào ngày mai. Còn rất nhiều việc phải làm phía trước.