Chương 2
Thúi ơi! Thúi ơi! Chạy lên lấy cái jupon cho tao. Mau lên. Trễ giờ tao rồi.
Tiếng của Bích Liễu oang oang ở trong phòng tắm. Thúy vừa dạ vừa chạy lên lầu mở tủ áo của Bích Liễu. Bao nhiêu là quần áo đủ màu đủ kiểu treo đầy trên những chiếc mắc cũng đủ màu. Biết chọn cái nào? Chạy xuống hỏi thì lại bị la là ‘‘trễ giờ rồi’’. Cũng không có đủ thì giờ để lưỡng lự nữa.
Thúy vớ lấy một cái váy xòe màu xanh lá cây rồi ba chân bốn cẳng chạy xuống thang lầu. Gõ cửa phòng tắm. Cửa phòng tắm hé, một cánh tay thò ra. Tiếp theo là một tiếng tru tréo:
— Trời ơi! Sao mà mày ngu vậy? Cái này là jupon hả? Dạy bao lâu mà có tỉ xíu mày cũng không nhớ. Jupon là cái vảy ngắn dó. Chở mang cái này xuống đê tế bà Tố mày đấy à?
Thúy lại lật đật chạy lên làu. Lại mở tủ áo. Phải chọn một cối vảy ngắn hơn. Chắc là đây. Lại ba chàn bổn cẳng chạy xuống lầu. Lại gõ cửa phòng tắm. Và lại có tiếng tru tréo:
— Ai bảo mày cái này là jupon?
—Chị nói cái váy ngắn.
— Nó là mini-jupe chứ ai bảo mày là jupon? Cái jupon thì phải bằng hàng ren chứ jupon gì lại bằng Tussor?
— Sao chị không nói rõ cho em?
— Mày còn làm thầy cung thầy kiện nữa hả? Hỡi con nặc nô kia? Mày muốn làm thầy tao hả? Mày có chạy ngay lên lấy cho tao không? Trễ giờ đi học của tao rồi.
Thúy không dám nói lại, lật đật chạy lên lầu lần nữa. Chân mỏi và hơi thở hỗn hễn. Suýt ngã vì vội quá nó phải leo hai bậc thang một. Nhưng vừa lên hết cầu thang thì Bích Huệ chận nó:
— Mày chạy đi đâu đó?
— Em lên lấy cái jupon cho chị Bích Liễu.
— Khoan đã. Bò xuống gầm giường tìm cái tẩy cho tao.
— Chị Bích Liễu đợi em ở phòng tắm.
— Mặc chị. Mày phải tìm cái tẩy cho tao đã.
— Để em đem cái jupon cho chị ấy trước rồi em lên tìm.
— Mày sợ chị ấy còn mày coi thường tao phải không? Mày tưởng rằng tao không dám đánh mày phải không? Tao...
Có tiếng tru tréo ở dưới nhà:
— Thúi ơi! Sao lâu dữ vậy? Mày chết dúi ở đâu rồi?
— Chị Huệ bắt em phải tìm cái tẩy cho chị đã.
— Huệ ơi! Mày để nó mang cái jupon xuống cho tao đã. Tao đi học, trễ rồi.
Huệ sợ chị nên phải nhường lối cho Thúy đi. Nhưng bụng còn ấm ức nên khi Thúy bước qua mặt nó, nó thụi một quả vào lưng con bé. Thúy không dám nói, cũng không dám quay lại, chỉ lầm lũi vừa đi vừa chạy về phía tủ áo.
Giải quyết yên vụ jupon, đến vụ mò tìm cái tẩy. Giường ngủ đóng theo kiểu mới chân lùn tịt khiến Thúy phải nép mình bò sát đất. Mạng nhện quấn vào đầu vào mặt, tơ nhện bị bứt đứt phải ra tiếng rèn rẹt. Bụi đóng từng lớp dày dưới đó. Hàng tá đồ vật lẩm cẩm nằm ngổn ngang. Bắt đầu là những mảnh giấy do ngọn chổi lười biếng lùa tống vào cho mất dấu tích. Tiếp đến làn những giày, dép, guốc. Có ba đồng bạc chì Ngô đình Diệm. Một cái áo len đỏ đã đổi sang màu gạch vì có quá nhiều bụi bám. Chắc đầy tớ đã bị một trận đòn vì bị đổ riệt là áo phơi ngoài dây chiều quên đem vào nên bị kẻ trộm nó lấy. Hoặc tiện hơn hết là đổ ngay cho đầy tớ lấy trộm. Thân phận đầy tớ sinh ra là phải chịu oan như vây. Cãi không lại, cãi không được, cãi thì bị mang tiếng là hỗn. Có củi tạ để phang vào lưng, có bàn tay xoè để tát vào mặt. Hai ba cuốn sách gối đầu lên nhau ở phía đầu giường. Vỏ hạt dưa, — từ ngày Tết năm ngoái? năm kia? — giấy bóng gói kẹo, gói đậu phộng nằm vươn vãi. Đúng là bề trái của một sự hào nhoáng giả dối. Nhìn bề ngoài thì cái giường thật sang trọng. Gỗ đánh vernis trắng. Nệm mousse dày. Khăn trái giường màu hoa sặc sỡ. Nhưng dưới gầm giường là cả một ổ rác. Một con chuột cái bạo dạn có thể mượn nơi đó làm tổ để đẻ. Và nếu cần, nó có thể tổ chức luôn một nhà hộ sinh cho tất cả chuột cái vùng lân cận. Bảo đảm sẽ không có ngọn chổi nào quấy rầy, con mắt nào rình mò.
Tìm cái tẩy cho Bích Huệ xong, đến lo hầu bữa ăn sáng cho «hai chị». Ăn sáng gì mà bày biện hơn người ta ăn bữa cỗ. Bánh mì đặt trong giỏ. Lọ mứt. Lon bơ. Hộp phó-mát. Thẩu đường. Bình cà phê. Lon sữa. Nhưng Bích Liễu thích ăn phở còn Bích Huệ thì chuộng bún bò. Thúy và chị bếp phải chia nhau mang gà-mên xuống chợ mua về hai thứ cho hai cô. Lại còn bị chê ỏng chê eo.
— Sao không lấy thêm hành củ?
— Em có hỏi mà ổng không đưa. Ổng nói hành mắc.
— Hành có đắt thì một bát phở mới lên giá tới bảy chục. Nếu mọi thứ đều rẻ thì chỉ năm đồng một bát. Lại cũng chả có tương ớt.
— Bữa trước chị nói tương ớt dơ lắm, ai cũng thò muỗng thò đũa vào mà múc mà xoáy. Lại bày cả ngày giữa bàn, ruồi bâu bụi bám.
— Ừ, là tao nói vậy chớ tao có bảo mày đừng lấy tương ớt đâu?
— Thôi, bữa sau em nhớ lấy.
— Nhớ lấy thêm chanh. Miếng chanh nhỏ quá vặn không đủ chua.
Thúy nghĩ tới vẻ mặt của ông bán phở. Mỗi lần hỏi thêm tí ớt, nhắc bỏ theo miếng chanh thì ông xịu mặt lại, quắc mắt lên. Cái sẹo trên má như kéo chằng ra cho dài thêm và cái hàm cũng thêm vuông. Giọng ông oang oang:
— Cái gì cũng thêm. Cái gì cũng thêm. Xuống chợ mà thêm. Món gì cũng đắt thành vàng mà món gì cũng biểu thêm. Tám đồng một trái chanh. Hai đồng một trái ớt. Không mua thì thôi, đừng tới tiệm tao nữa.
Mụ vợ phụ họa thêm:
— Đem trả lại tiền cho nó. Bữa sau không có bán cho nó nữa.
Cái nguýt của mụ kéo nửa vòng tròn.
-Lấy chi miếng thịt bò bầy nhầy dai như thế này?
Bích Liễu nhai nhách nhách rồi nhả ra bàn.
— Mày không biết thế nào là thịt bò mềm, thế nào là thịt bò dai hay sao?
— Dạ biết chớ. Nhưng lão phở lão làm lia lịa không hở tay, lão tự ý gắp thịt chớ lão đâu có cho mình chọn lựa?
— Nhưng mày thấy lão gắp thịt bò bạng nhạng thì mày phải bảo lão ngay.
— Chị tưởng dễ. Hễ nói lơ mơ, lão nạt liền. Lão ném trả gà-mên lại. Em bị lão ném gà-mên một lần rồi. Phải chạy đi kiếm nước rửa cho sạch cát sạch đất.
— Thì tới hiệu khác mà mua. Khối hiệu ở dưới đường Nguyễn Hoàng.
— Mấy hiệu kia chị chê không ngon.
Bích Huệ thì ít hạch xách chê bai hơn. Chỉ vì bát bún bò do chị bếp mua. Không dễ mà ăn hiếp chị. Người làm bây giờ khó tìm, hễ nói động một chút là họ xin thôi liền. Nhiều lúc không cần nói xin Ihôi, chủ nhà đã lo sốt vó. Cứ việc bỏ cơm, kêu gánh trứng vịt lộn lại ăn năm cái rồi lẳng lặng ngồi xếp quần áo vào va li là chủ nhà đã lật dật năn nỉ. Đi làm cho vợ Mỹ lương cao hơn, cao gấp đôi, lại dễ ăn bớt ăn xén. Nếu làm cho Mỹ hay Đại Hàn thì còn sướng hơn. Làm có giờ giấc và tha hồ được bổng lộc. Lại còn được ăn cắp nữa. Tụi lính Mỹ nó hay uống rượu say sưa, về tới nhà là bò lăn ra ngủ. Đô la đỏ, 10 cents, 5 cents, bạc Việt Nam...rớt vung vãi, cứ việc lượm. Ngủ dậy mò túi thấy mất, nhưng biết mất ở đâu? Có thể là con sến bán bar nó móc túi. Có thể là thằng lái xe Lam nó thấy say ngật ngưỡng nó móc túi. Ăn cắp xà phòng giặt. Ăn cắp ly tách. Ăn cắp lon coca. Chị nào ở bồi cho Mỹ cũng có tiền sắm đồng hồ đeo tay và đeo vàng đầy cổ tay. Những chị nào chưa tìm được chỗ làm nơi nhà Mỹ thì phải hạch xách chủ nhà người Việt. Hễ động nói nặng là cứ kêu nhức đầu vào giường nằm.
Một hôm chị bếp bảo Thúy:
— Mi đừng sợ hai con nớ. Hễ hiền lành là nó ăn hiếp.
— Nhưng em không quen dữ. Hồi xưa má em dặn: Phải ăn ở tử tế với mọi người.
— Phải tùy người mà ăn ở tử tế. Với hai con quỉ cái nớ mà mi tử tế thì tụi nó hớp hồn mi.
— Má em nói: Mình nên tử tế cả với những người dữ, những người muốn hại mình. Họ sẽ hối hận, họ sẽ sửa đổi tính lại.
— Còn lâu.
— Má em nói: Mình phải lấy ân trả oán thì cái oán mới tiêu diệt được. Chớ lấy oán mà trả oán thì cái oán cứ chồng chất.
— Nghĩa là sao, tao không hiểu.
— Nghĩa là nếu người ta ở xấu với mình mà mình ở xấu lại thì sự thù hềm cứ tăng lên hoài. Đằng này họ ở xấu với mình mà mình vẫn cứ ở tốt thì họ sẽ không còn xấu nữa.
— Có thiệt không?
— Thiệt chớ. Đang khi không, người ta chửi chị. Nếu chị chửi lại thì hai bên đánh lộn. Nếu chị bỏ qua không thèm chấp thì làm sao sanh thù?
— Thôi mi cứ giỏi mà tử tế với hai con khỉ nớ. Đồ chi mà hỗn như gấu, ở dơ như heo, học dốt như bò.
Thúy không thể không bật cười. Theo lời lẽ của chị bếp thì mỗi người là cả một sở thú. có đủ khỉ, gấu, heo, bò.
Mà Bích Liễu học dốt thật. Mười bốn tuổi rồi mà còn học ở lớp Đệ Thất. Thi hỏng vào Đệ Thất trường công, cô ả phải học một năm ở lớp Tiếp liên. Sau đó thi lại vào Đệ Thất trường công, cô ả lại bị hỏng nữa. Đành phải cho học ở trường tư và bởi học vừa dốt vừa lười nên chuyên môn đội sổ. Cuối năm không lên lớp nổi. Điểm trung bình 06 trên 20 nên nhà trường bắt học lại một năm. Nhưng vị thứ hàng tháng vẫn cứ lẹt đẹt ở hàng 40, 45 trong số 67 học sinh.
Bích Huệ là em, học cũng chẳng ra chi. Mười hai tuổi, lớp Nhì. Chuyên môn cầm đèn đỏ. Bà Đức Lợi phải siêng năng đi thăm bà Hiệu trưởng và cô giáo lớp Nhì và siêng năng mang quà cáp biếu họ, nếu không thì Bích Huệ đã bị đuổi lâu rồi. Thật đau khổ cho những bà mẹ. Tết Trung Thu phải biếu bà Hiệu trưởng một cân bánh nướng, cho cô giáo một cân bánh dẻo. Ngày Tết phải biếu bà Hiệu trưởng một chai rượu Dubonnet kèm một bánh pháo Từ Châu, còn cô giáo thì được một hộp kẹo Nhật bản. Người mẹ phải tự an ủi rằng: Thôi, cũng còn rẻ hơn đi học trường tư. Đỡ phải trả học phí hàng tháng.
Mỗi đầu tháng bà Đức Lợi khổ tâm ngồi trước hai tờ thông tín bạ do hai nhà trường gởi tới. Những con số «Không» dính vào nhau thành chùm và rải đều đặn trước những dòng chữ: Việt văn, Sinh ngữ, Toán, Lý Hóa, Công dân, Vạn vật... hoặc Quốc văn, Toán, Sử ký, Đức dục... Họa hoằn cũng có một điểm tốt. Đó là ở mục Thủ công hay Thể dục.
Bà rầy con:
— Chúng bay học hành thế này thì lớn lên chỉ có nước đi ăn xin.
Bích Liễu:
— Me coi, có khối người thuở bé đâu có học hành gì, thế mà lớn lên họ cũng làm giàu bạc triệu bạc tỉ.
— Ai đâu?
— Bác Cả Tề đó.
— Nói gì cái thằng ấy? Nó lường gạt người ta chẳng mau giàu? Phải làm ăn lương thiện thì cái giàu mới quí, mới bền.
— Thế sao hôm trước me bảo làm ăn lương thiện như ông Giáo Anh thì chỉ khổ vợ khổ con? Me bảo thời này phải lưu manh thì họa may mới ăn nên làm ra.
— Tao bảo bao giờ?
— Rõ ràng là me nói chuyện với bà Thanh Mai như vậy.
— Con bé này nói điêu.
— Chính miệng me bảo me còn chối.
Bà Đức Lợi im lặng. Chính bà có nói ra điều ấy thật và hơn nữa, chính bà đã thực hành chân lý đó. Miễn là có tiền, có lợi, còn thì dẫu việc gì điêu xảo đến mấy bà cũng không từ. Và bà có thể chối được với người ngoài chứ làm sao chối nổi với lũ con bà? Những hành động, những lời nói của bà in thành dấu đậm nét trên tâm hồn của lũ con bà, tuy là vô hình nhưng không thể nào xóa được. Bà phải quay sang đấu dịu:
— Học hành thì phải chăm chỉ siêng năng, đứng đầu lớp luôn luôn như con Bác Thẩm để cho cha mẹ vui lòng và hãnh diện lây. Cứ xem thằng Hòa con Bác Thẩm đó mà làm gương. Học giỏi, ngoan ngoãn, lễ phép, về nhà lại trông em, giúp bố mẹ.
Bích Liễu:
-Con Huệ nó lớn tồng ngồng thế kia thì mẹ bảo, còn trông nom cái gì nữa?
— Lớn bé gì lại chẳng phải trông nom?
— Nhà mình giàu có chứ đâu phải nhà nghèo nhà khổ? Lúc bé thì con Huệ nó đã có vú em, chị Hai.
— Là tao nói vậy. Cứ bắt bẻ mãi.
— Nhưng con muốn học mà cô giáo có dạy đâu? — lời Bích Huệ. Cô cứ sai một đứa lên chép bài trên bảng cho học trò chép theo rồi cô bỏ lớp sang rủ cô giáo lớp bên cạnh xuống nhà ông Cai ăn chè hay uống nước chanh. Ngày nào cũng bỏ đi ba, bốn lần như vậy. Nếu không đi ăn chè thì hai, ba cô đứng nói chuyện ở ngoài hiên. Có khi cô chỉ sai một đứa đứng giữ trật tự, biên phạt những đứa nào nói chuyện. Tha hồ ngồi chơi, muốn đọc truyện Coplan điệp viên vô địch hay truyện cổ tích công chúa Ấn độ, hay lấy giấy ra vẽ hình dấu chưởng, tùy ý.
— Sao chúng mày không xuống thưa ông Hiệu trưởng?
— Cho cô giáo thù ấy à? Vả lại tụi nó nói cô giáo là bồ của ông Hiệu trưởng?
— Chúng mày bịa đặt.
Bích Liểu cướp lời:
— Thật vậy me ạ. Ở Trung học có cô giáo mỗi niên khóa chín tháng mà tổng cộng cô đi dạy đâu được có ba tháng.
— Thôi, chúng mày nói láo để chạy tội. Tao báo trước cho, tháng sau mà không đứng trồi lên vài bậc thì tao bắt nhịn đói.
— Ô-kê.
— Ô-kê Salem.
Chợt Bích Liễu huơ tay như vừa nhớ ra:
— Nhưng me phải may cho con một cái áo kiểu cổ đứng.
— Nhà còn lắm áo, mặc đâu đã hết?
— Nhưng toàn kiểu cũ.
— Vài tháng đã may, mới may cách đây không hơn một tháng sao đã gọi là cũ?
— Nhưng kiểu này mới ở Sài-gòn ra. Mấy đứa bạn ‘‘gồ’’ đều mặc hết.
— Cái kiểu như thế nào?
— Sơ-mi gài cổ và cổ đứng ba phân.
— À, cái cổ áo đứng ấy hả? Tưởng gì. Kiểu cọ gì cái thứ ấy? Cổ áo nhà quê ông bà mình vẫn mặc ngày xưa. Ngày xưa áo cụt vạt hò, áo dâu cho lính lệ đều may cổ như vậy.
— Cái này là kiểu bên Mỹ đó me, — Bích Huệ nói.
— Chắc Mỹ nó sang đây vào Tàng cổ viện của mình rồi bắt chước kiểu cổ áo của ông bà mình.
Bích Liễu trề môi:
— Sức mấy mà bắt chước?
— Tao thấy mấy cái áo đầm xoè vẫn đẹp hơn cả. Trông nó phong thể nhất.
— Úi dào, me lạc hậu thấy mồ. Áo đầm xoè chỉ để dành cho mấy mụ đầm già. Bà Kennedy còn mặc mini-jupe.
— Kệ bà ấy chứ. Việc gì phải theo người ta?
— Nhưng người ta là dân sang thì mình phải bắt chước theo.
— Bắt chước học giỏi chứ bắt chước chi cái thứ ăn mặc?
— Ăn mặc sang nó làm tăng giá trị con người.
— Chúng mày nhỏ nghĩ chi đến chuyện ấy? Đến lớn hãy hay. Bây giờ chỉ biết lo học.
— Me cứ nói lo học, lo học hoài. Y như cái đĩa hát cũ.
— A, con này ăn nói hỗn thế hả? Mẹ mày mà mày nói như nói với đầy tớ hả?
Bích Huệ vội can thiệp:
— Thôi thôi, me đừng giận. Me may cho hai đứa mỗi đứa một cái áo cổ đứng đi.
— Chúng mày thấy tao hiền lành chúng mày lại cứ...
— Vâng, biết. Con biết me hiền lành nhất xứ, hiền lành cứ y như là Bụt không bằng.
Bích Huệ đưa tay nâng cằm mẹ lên:
— Nào, Bụt ơi, Bụt cười lên tí nào.
Bà Đức Lợi bật cười không giữ được:
— Khỉ! Làm cái trò khỉ.
Bích Huệ vỗ tay reo:
— A, cười rồi. Bụt cười rồi. Nhé, Bụt nhé, Bụt may áo cổ đứng cho hai con nhé?
— May ở hiệu nào?
— Hiệu Minh Châu hay Măng Non?
— Măng Non là trường mẫu giáo mà?
— Có một tiệm may mới mở cũng tên là Măng Non.
— Biết có may áo được không?
— Cha! Sức mấy mà dám chê người ta? Người ta ở Xà-goòng mới ra, mở tiệm may có máy lạnh, khách vô ra chen chân không lọt.
— Marie-Sến chứ ai vào đó mà nhiều?
— Thôi, chẳng nói với me nữa, nói với me tức không chịu được. Bà bác sĩ Thanh cũng may ở đó. Bà luật sư Phụng cũng may ở đó. Thế mà me dám chê.
— Tao đâu có chê? Thế sao không tới may cái tiệm Hy lô, Hy lút gì đó?
— Hô ly út chứ gì lại Hy lô Hy lút.
— Ừ, tao nghe cái gì có Lô lút Hy hút gì đó. Thôi thì tùy chúng mày, muốn may ở đâu thì may. Cho mỗi đứa một áo.
— Hàng gì?
— Tétron hay Dacron cũng được.
— Tétron quê lắm, không thèm. Đồ ba trăm một thước, mặc nó nhục con người.
— Chứ mày muốn Ihứ gì?
— Polyester.
— Bao nhiêu một thước?
— Nghìn bảy.
— Lắm thế?
— Nghìn bảy mà me đã la. Con Xoa may toàn hàng Perlana đến hơn hai nghìn một thước.
— Chi lắm thế? Chúng mày còn lớn, mặc độ dăm tháng, bỏ phí đi.
-Ai chả thể? Chẳng lẽ cứ phải bé mãi để mặc cho rách cái áo?
Bà Đức Lợi phì cười:
— Ai bắt chúng mày như vậy đâu? Nhưng thôi được, may hàng gì cũng được. Mà phải nhớ học cho giỏi nghe không? Tháng sau mà không lên nổi một bậc thì tao cho mặc giẻ rách.
— Hoan hô.
— Hoan hô. Mẹ cứ yên chí lớn. Tháng sau thể nào con cũng leo lên một bậc. Con Ngọc Túy nó vừa bị xe Đại Hàn tung ở cầu Hà ra. Chân nó bị bó bột, nằm ở dưỡng đường ông Út. Nằm nhà thương ít nhất cũng tháng rưỡi. Bảo đảm là con leo lên được một bậc rồi đó.