← Quay lại trang sách

Chương 3

THÚY ghé ngồi trên một cành thấp rồi buồn bã nhìn lên trời cao.

Buổi chiều rơi chầm chậm trên khuôn sân vắng. Cây trứng cá đứng yên lặng, ôm ấp những khối bóng tối giữa chòm lá. Bầy dơi bay sột soạt tìm trái trứng cá chín.

Hôm qua mấy người bạn của Bích Liễu tới chơi đã thượng lên cây và làm gãy một cành ngang khiến cả bọn rú lên tưởng tất cả đều té gãy giò. Ban đầu là Hằng đứng dưới đất nhón gót vói một cành là là thấp hơn hết. Trinh chạy tìm một cái ghế rồi leo đứng lên. Hạnh leo lên bờ thành. Lăng trèo lên đứng hẳn ở một cành thấp. Khóa thấy cành không gãy, liền thượng lên một cành cao hơn. Phong không chịu thua, leo lên một cành khác. Bạch bắt chước. Và cuối cùng bảy người sục sạo trên cây. Chỉ có Lào nhảy dây bí té trẹo chân và Quý mặc quần Jeans quá chật là chịu đứng dưới đất giơ tay xin trái.

Tiếng của họ vang lên, vui vẻ:

— Kia, hái cho tao trái kia.

— Coi! Coi! Coi chừng gãy nhánh đó.

— Cành trứng cà dòn lắm tụi bay ơi!

— Tụi mình y như đồ chết đói phải không bay? Chắc mấy người đi qua đường rủa mình là đồ chết đói.

— Ấy! Coi chừng bụi nó lọt vô mắt tao. Trời ơi! Bụi ơi là bụi. Bích Liễu, sao cây của mày lắm bụi thế này?

— Tại xe nó tung bụi ngoài đường vô, mày không thấy sao còn hỏi nó? Hái cái trái chín đó kia. Kia, ở gần cùi chỏ mày đó. Cùi chỏ tay trái đó... Trời ơi, con này cận thị mà. Vậy mà dám đèo Honda tao. Thôi, từ biệt mày nghe? Lần sau có cho tiền tao cũng không dám ngồi sau lưng mày. Lỡ mày hun cái G.M.C. thì tao cũng phải đi theo mày tới hiệu sơ-mi gỗ.

—Con này ham quá. Hái đâu ăn đó. Uở, trái xanh lè như vậy mà mày hái chi?

— Coi chừng đó, mấy bà nội ơi! Nghe đồn trứng cá ăn đau dạ dày đó, nghe không? Có ăn chơi thì ăn ít ít vậy, kẻo lủng dạ dày thì biết đường mô mà vá?

— Đem ra tiệm Sinh An, thuê ông già vá ép.

— Đêm qua thằng Bảo em tao chở tao trên Yamaha. Ngay giữa đường Độc Lập, bị đinh đâm lủng bánh. Tụi bay biết không, dắt một cái xe xẹp như thế đi tìm tiệm vá, thế mà dắt tới bảy con đường, qua Trần quý Cáp, lên đường Hai Chùa, xuống Yersin quẹo Lê Thánh Tôn, quật Huỳnh thúc Kháng, rẽ sang Mạc đĩnh Chi, Âu Cơ... Gần tới nhà mới gặp được một hiệu nhận vá.

— Bao nhiêu một lỗ vá?

— Bảy mươi đồng.

— Trời ơi! Mắc dữ. Tao vá có bốn chục.

Uở, mình nhớ chi những chuyện vẩn vơ. Ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới mình. Mấy chị đó giàu sang còn mình đang mang thân phận côi cút nghèo hèn. Mấy chị cười đùa vui vẻ hồn nhiên, đúng là những người không có điều chi phải lo nghĩ. Chơi đùa một lát rồi ai về nhà nấy, ai cũng có mẹ săn sóc, có cha nuông chiều, có người làm phục dịch, có anh chị để nói chuyện, có em để chơi đùa. Có cái bàn riêng để ngồi viết ngồi học, có cái giường riêng để nằm nghỉ lưng, thậm chí còn có cả phòng riêng để khóa cửa lại một mình, tự do trong đó. Mình xa cách với họ biết bao nhiêu, thế mà mình, mới đây thôi, mình cũng có cha mẹ, anh chị em như họ. Mình cũng có một ngôi nhà, một khu vườn rộng trồng đầy những cây xoài cây cau. Mình có nhiều con gà con vịt trong chuồng, có con chó Vàng đêm đêm cất lên tiếng sủa ông ổng. Mình có nhiều lúa nhiều bắp, nhiều đậu xanh đậu phộng trong vựa, nhiều đường cát trong những cái muổng đặt dài ở chái hiên. Mình có... Mình có...

Và thế là tâm hồn của Thúy lãng đãng đi trở về những kỷ niệm « Ngày Xưa ».

Đúng như lời Dì Tám, gia đình của Thúy là một gia đình giàu ở Xuân Phước. Ba Thúy vừa làm y tá vừa cai quản một dinh cơ có nhiều ruộng trồng lúa, nhiều đất thố trồng bắp, trồng mía, trồng dâu. Thúy có một anh trai học hơn Thúy hai lớp. Tên anh là Tuấn. Thằng em kế của Thúy là thằng Tựu. Nó trắng mũm mĩm như một con búp-bê. Em bé út mới lên tám tháng. Cả nhà gọi đùa nó là « con chó con ». Không có người cha nào thương con bằng ba Thúy. Không có người mẹ nào dịu dàng như má Thúy. Thúy sống êm đềm trong cái gia đình nhỏ ngọt ngào đó thì chợt tai họa xảy đến.

Buổi sáng đó Thúy đi học như thuờng lệ. Trường ở gần Quận, cách xa nhà ba cây số. Đến chín giờ nghe súng nổ lẻ tẻ. Rồi súng nổ hàng loạt. Thầy giáo ra lệnh cho học sinh nằm dài xuống sàn xi măng. Súng nổ dữ dội. Đủ các thứ tiếng súng trong đó. Con Túy Nga nằm bên cạnh Thúy rì rầm nói:

— Có tiếng đại bác ở Quận yểm trợ bắn ra.

Giọng con Cẩm Hồng đứt quãng vì sợ hãi:

— Chắc hai bên đụng độ

Con Nguyệt:

— Ở phía nào vậy bay?

Con Huyên:

— Tao nghe phía Gò Chai.

Con Thanh Vân:

— Gò Chai đầu phía đó? Chắc mạn Đồng Dài.

Con Xuyến nằm rên rỉ:

— Chắc trúng nhà của tao quá bay ơi! Má tao mới sinh hồi hôm. Làm sao bả chạy xuống hầm nổi. Chắc má tao chết quá bay ơi!

Tiếng nó khóc thút thít làm nhiều đứa chảy nước mắt. Con Ngọc Hoa gan lì nhất lớp, dỗ nó:

— Đâu phải phía đó là Đồng Dài mà mày khóc?

Thúy muốn dỗ con Xuyến mà không biết nên nói sao. Nó chỉ thò tay ra cầm bàn tay con Xuyến. Bàn tay ướt nhẹp. Đúng là con Xuyến đã dùng bàn tay đó để lau nước mắt.

Lát sau có tiếng tàu bay quầng. Tiếng bom dội làm đất rung chuyển ở dưới bụng, dưới ngực mỗi đứa. Vách trường như cũng rung rinh theo.

Con Diệu Hạnh nằm tụng niệm rì rầm:

— Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan thế âm Bồ tát. Nam mô cứu khổ cứu nạn... Lạy Phật phù hộ cho ba má con, cho em con, cho bà nội con, cho cô Năm con...

Nghe con Diệu Hạnh tụng niệm, con Xí chợt nhớ ra cũng lẩm nhẩm:

-Lạy Đức Mẹ hằng cứu giúp... Lạy Đức Mẹ...

Khi bớt tiếng nổ, cả lớp ngồi dậy, phủi quần áo ngồi học lại nhưng tâm trí đứa nào cũng hoang mang lo lắng. Cứ hay nhìn ra cửa sổ cửa lớn.

Mười một giờ, có nhiều tiếng đồng bào vang lên ồn ào trên con đường làng chạy trước mặt trường. Tin tức luân lưu từ miệng người này sang người khác.

— Cả xóm Đồng Tranh thiêu rụi hết.

—Bom thả nát chợ Phước Huệ rồi. Chết nhiều lắm. Trầu bò nằm ngổn ngang ngoài đường.

— Xóm ông Tùng tan nát hết.

Tim Thúy đập thình thịch. «Ông Tùng» là tên người ta dùng để gọi Ba nó. «Xóm ông Tùng tan nát hết ». Ba nó chết rồi. Má chết. Nó suýt khóc lên thành tiếng nhưng giữ lại được.

Tay chân run lẩy bẩy, Thúy lên bàn thầy xin thầy cho về sớm.

—Con nói sao? Nhà con ở Đồng Tranh hả? Con nghe ai nói?

— Dạ ở ngoài đường người ta nói.

— Họ nói thế nào?

Nhiều đứa nhao nhao lên:

— Dạ, họ nói xóm «trỏ »tan hoang hết.

— Dạ chợ Phước Huệ bị thiêu rụi. Dạ, chết nhiều lắm.

Thầy đồng ý cho Thúy về. Và khi nó ôm cặp sách đi vượt qua sân trường, ông nhìn theo cái dáng nhỏ nhắn của nó mà bùi ngùi.

Thúy bước những bước vội vã. Con đường hôm nay như kéo dài thêm ra hoặc bước chân của nó bị rút ngắn lại khiễn cho cây Thị đầu bờ mương thấy đó mà đi hoài không vượt khỏi. Nó đành chạy lúp xúp.

Nhiều người đi ngược chiều. Có người gồng gánh nồi niêu chăn chiếu, có người cõng em, có người lùa bò. Tim nó đập thình thình. Mệt quá. Nó vấp vào những mô đất trên đường, suýt ngã mấy lần.

«Con lạy Trời lạy Phật cho gia đình con tai qua nạn khỏi. Con lạy Trời lạy Phật. Má ơi! » Những hình thù bụi bờ, rẫy sắn ruộng mía nhòa dần trước mắt nó. Đôi mắt nó đã đọng đầy nước mắt.

Số người chạy ngược chiều với nó càng lúc càng đông hơn. Và càng lúc họ càng hối hả hơn. Chợt một người nắm tay nó làm nó giật mình. Đà đi vội vã làm nó suýt chạm vào bụng họ. Nó ngước mắt nhìn lên: một người đàn ông mặt rám nắng có bộ râu dài đen.

— Mày là con Thúy con ông Tùng phải không?

— Dạ phải.

Người đó nhìn nó, im lặng.

— Sao vậv ông?

— Ờ... Ba mày... Ờ...

Ông lão lộ vẻ lúng túng. Nhiều người cùng đi một chiều với ông cùng đứng lại. Cứ trông vẻ mặt của họ nhìn nó, Thúy đã đoán được có tai họa gì đã đến cho nó. Nó oà lên khóc.

Có tiếng một người nói:

— Tội nghiệp! Bom rớt trúng ngay hầm. Cái nhà bị đốt cháy tiêu tùng.

Một tiếng khác:

— Có thoát được người nào không?

— Sập hầm chết rụi hết.

— Có đem xác lên được không?

— Hồi hai bên ngớt bắn, dân vệ có mò xuống dỡ đòn gác, nhưng bắn rát trở lại thành ra họ còn bỏ đó.

Thúy khóc hu hu thành tiếng, hai tay ôm lấy mặt. Bàn tay người đàn ông râu đen vỗ lên đàu nó:

— Thôi, con chạy về nhà... thăm coi thử.

Tiống «Dạ» của nó nghẹn ngào trong cổ họng và chân nó không còn đủ sức để chạy nữa. Những người chạy nạn lại tiếp tục đi. Họ cảm thấy bớt khổ khi có một đứa nhỏ gánh chịu một mình những tai họa chồng chất như vậy. «Má ơi! Em ơi!» Nước mắt nó chảy ràn rụa như suối. Em còn đâu nữa để mừng khi thấy «chị Chí» đi học về. Em không còn lẩm đẩm chạy ra bắt «chị Chí đưa cái cặp cho em ôm». Em không còn cầm tay «chị Chí» mà bi bô nói rằng con gà mái mới nhảy đi kiếm ổ làm ngã cái giỏ bình. Chị chưa kịp «Ừ» em đã nói lấn sang chuyện khác. Em nói anh Chín mới chặt vô một buồng chuối mốc, má sai cắt đem dú. Đợi ba ngày chuối hườm thì đem nấu. Má nói chị Chí thích ăn chuối nấu. Má ơi! Chuối còn nằm trong lu đó mà sao má bỏ con? Em ơi! Ba ơi!

Đến cây Da Rổi, chợt từng tràng tiếng súng nổi lên, dội vào khu rừng xa nghe lào rào như tiếng pháo ngày Tết. Thúy đứng dừng lại nghe ngóng. Một tràng tiếng nữa lại tiếp theo rồi sau đó nổ liên miên.

Những dáng người gồng gánh hối hả chạy băng ngang qua cánh đồng trống trước mặt. Những con bò hốt hoảng vì tiếng nổ, chạy quáng quàng làm người chăn lính quính chạy theo. Nhiều đứa bé ngang tuổi, Thúy hay nhỏ hơn gùi những cái ba lô nhỏ trên vai, té lên té xuống giữa những đất mô đất cày, giữa những luống cày.

— Mau lên con ơi! Súng nổ tới chân rồi.

— Con đi hết nổi mẹ ơi.

— Gắng lên con. Mẹ mà còn sức, mẹ gùi cho con. Súng nổ hung rồi, coi chừng chạy không kịp.

Ở phía tay trái cánh đồng, chợt nhiều người dạt chạy tán loạn. Chắc ở nơi đã đã có hiểm nguy chạrn mặt. Có một bà nhìn Thúy rồi vừa chạy vừa nói:

— Sao còn đi về phía đó? Đánh tùm lum ở trển.

— Con nghe nói bớt rồi?

— Ai nói bớt? Ở trển lo đắp công sự. Ở dưới này, lính bên Qụận kéo qua.

— Con về thăm nhà...

Người đàn bà đã chạy xa không nghe câu nói của Thúy. Một người đàn bà khác trả lời thay:

— Ai cho về mà về?

— Sao không cho?

— Biệt động quân đuổi đồng bào tránh xa trận địa. Người ta lo đào hầm đặt súng. Tối nay đánh lớn.

Thúy đứng lại lưỡng lự. Những người chạy càng đông. Phải lo tránh đường cho họ, cho gồng gánh, cho bò trâu. Những con chó cũng lúp xúp chạy theo.

Chợt súng nổ hàng loạt thật gần, rào rào như rụng được lá trên đầu. Nhiều tiếng la thất thanh:

— Trời ơi! Chết rồi.

— Chết tôi rồi. Trời ơi! Trời ơi!

Thúy luống cuống. Thừa lúc ấy, các làn sóng người chạy giặc kế tiếp kéo Thúy chạy lui. Y như hòn sỏi nhỏ. Y như nhánh rong con. Thúy không biết mình đi đâu, mình nghĩ gì, mình định làm gì. Hai bàn chân nhỏ cứ lúp xúp chạy. Mệt thở không ra hơi. Đói lả người. Nước mắt cũng thôi không còn sức để chảy nữa. Và cứ thế, như một hòn sỏi nhỏ, như một nhánh rong con, Thúy trôi dạt từ xã về Quận, từ Quận về Tỉnh, trôi dạt cho tới thành phố xa lạ này.

Tiếng cánh dơi rèn rẹt giữa những cành trứng cá. Buổi chiều xám đậm. Hôm nay bà Đức Lợi cùng hai con đi xi nê và sau đó họ ăn nem nướng Mỹ Hạnh chứ không ăn cơm nhà. Cả gia đình bàn nhau suốt buổi trưa về việc chọn phim. Bích Liễu thích loại tuồng Đợt sống mới. Tuổi đôi mươi. Bích Huệ thích tuồng trinh thám OSS-117.

— Mày quê một cục, —lời Bích Liễu, Trinh thám sắp đặt trước thì hỏi còn thú vị cái khỉ khô gì nữa? Thế nào giữa lúc «bên mình» lâm nạn sắp chết cũng có «người anh em» đến cứu. Thế nào «ảnh và chỉ» cũng cưới nhau, thế nào «tụi nó» cũng vô tù, cũng sạt nghiệp, cũng chết chẳng toàn thây.

Chớ bộ «Tuổi đôi mươi» của chị ngon lắm hả? Thế nào cũng mini-jupe lòi đùi lòi vế, cũng bikini lòi bụng lòi lưng. Thế nào cũng có chàng và nàng du dương ngoài bờ biển, nuốt đường trường trên yên xe Bridgestone, tóc bay rối loạn và miệng há tròn vo đen ngòm như cái hang cóc. Mấy thằng con trai thì quần túm tóc tém, giày cao gót như ban nhạc Phi luật tân, còn mấy con nhỏ thì phải mang gương đen gọng to.

— Thằng thầy của mày chớ ai? Thằng thầy năm ngoái của mày đó. Bảy giờ rưỡi sáng đi trong hiên trường mà phải mang kính đen. Làm như thầy bói. Cái kính đen hạng thường giá có hai trăm bạc chớ bao nhiêu. Xài mười năm đâu có hư? Chia đổ đồng mỗi năm chỉ tốn có hai mươi đồng bạc tiền kính đen, mỗi tháng tốn không tới hai đồng, sang gì cái khoản đó?

— «Bồ» của chị cũng vậy, chị nói ai? Cũng đeo kính đen tứ thời.

— Nhưng nó đeo kính gọng nhựa to, giống tài tử.

— Tài tử rạp xiếc phải không? Tưởng đâu sang lắm. Mang kính đeo vô, mặt càng giống con khỉ đột hơn.

Cuộc lựa chọn phim biến thành cuộc đấu khẩu. Không ai chịu thua ai. Bà Đức Lợi phải can thiệp:

— Thôi, cãi nhau vừa vừa chứ. Hễ chạm mặt là có chuyện cãi.

— Tại chị nói xúc phạm tới ông thầy giáo con.

— Còn mày dám nói người ta giống mặt khỉ.

— Thôi, đã bảo im.

Hai chị em mím môi như dọa nhau rằng: nếu không có «Bả» đứng ra can thì tao quyết cắn một miếng cho mày biết tay.

— Bây giờ tao quyết định: đi coi tuồng chưởng ở Tân Tiến.

Bích Liễu xì lên một tiếng:

— Đồ tuồng chưởng! Lạc hậu như tuồng cóc nhái. Chỗ nào cũng chưởng, ngày nào cũng chưởng, con nít cũng chưởng, người lớn cũng chưởng, báo chí giành nhau độc quyền in truyện chường.

— Tuồng chưởng nó thâm thúy lắm, — lời bà Đức Lợi. Nó có nhân có nghĩa, có quân sư phụ, có tam cang ngũ đàng...

Bích Liễu chận hỏi:

— Ngủ đàng là ngủ làm sao? Là ngủ rông, ngủ lang thang theo kiểu bụi đời phải không? Ngủ đàng ngủ sá, đầu đường xó chợ...

— Chắc không phải. Ngũ chứ đâu phải là Ngủ. Ngũ đàng đây là Đàng hoàng, Thánh Hiền, Tiên, Phật cũng từ đó mà ra.

Bích Huệ làu nhàu:

— Thôi thì tuồng chưởng cũng được. Có điều đi xem xong thì mình ăn cơm tiệm luôn, không ăn cơm nhà.

— Ăn ở đâu? Phở Tàu Bay?

Bích Liễu vừa tắc lưỡi vừa nhún vai:

— Chết chết! Sáng ngày nào cũng ăn phở.

— Hay bún bò, bánh bèo Huế ở dưới Nhà giây thép?

Bà Đực Lợi:

— Buổi chiều họ đâu có bán. Thôi, mình ra Mỹ Hạnh ăn nem nướng một bữa.

— Cũng được. Hơi bình dân một chút, nhưng thôi cũng được. Đáng lẽ vào Dân Thiên ăn bồ câu rán hay cháo bào ngư. Nếu mẹ không bị thua số chót hết Mười lăm nghìn tuần vừa rồi thì nhất định con không chịu đi ăn nem nướng đâu.

— Nem nướng ăn ngon chứ. Mùi thịt nướng thơm làm mê man lỗ mũi. Hồi nhỏ me thèm lắm. Mỗi lần đi ngang hàng nem nướng, cứ muốn đứng lại. Mà nhà nghèo...

Bích Liễu «Sụyt» lên một tiếng lớn, vừa đưa một ngón tay trỏ lên miệng ra dấu bảo im.

— Mẹ lại kể lể chuyện nghèo hồi nhỏ. Đã dặn không được kể lại mà cứ quên. Lỡ chị bếp chị nghe.

Mọi người vội đảo quanh mắt xem có ai đứng thập thò gần đó không. Bà Đức Lợi cười xòa:

— Ừ, mẹ quên. Cứ quen miệng nói bậy hoài.

Bích Liễu nói to như đóng kịch:

— Con biết rồi! Hồi nhỏ ông Ngoại bà Ngoại cưng mẹ, ngày nào cũng bắt mẹ ăn nem nướng chả ram, giò heo hầm, gà đút lò nên mẹ quen miệng chứ gì?

— Ừ

— Hồi đó ông Ngoại làm quan to ở ngoài Triều đình hở mẹ?

—Ừ.

— Mẹ có đến năm, bảy con hầu bà vú hầu hạ mẹ, hở mẹ?

— Ừ

— Mẹ là công chúa cành vàng lá ngọc hở mẹ?

- Ừ.

Sau màn kịch «cành vàng lá ngọc» đó, mẹ con chia tay đi mặc áo, trang điểm. Lúc bước ra sân, bà Đức Lợi gọi chị bếp:

— Bếp ơi!

— Dạ.

— Chiều nay tôi và hai em không ăn cơm nhà.

— Dạ.

— Chị nấu cơm ăn với con Thúy.

— Dạ.

— Ăn mấy món còn dư hồi trưa.

— Dạ.

— Nhưng miếng cá kho để dành mai.

— Dạ.

— Khúc thịt còn dư cũng xào lại để dành mai.

— Dạ.

— Ăn qua loa rau luộc và dưa chua đó cũng được. Buổi tối mà ăn chi thịt thà cho nó nặng bụng khó tiêu.