← Quay lại trang sách

Chương 1

Xứ đạo của tôi là một xứ đạo như mọi xứ khác. Mọi xứ đạo đều giống nhau. Các xứ đạo ngày nay, dĩ nhiên rồi. Hôm qua tôi đã nói điều ấy cùng Cha xứ Norenfontes: tại đó cái thiện và cái ác hẳn phải cân bằng với nhau, duy có trọng tâm ở dưới thấp, rất thấp. Hoặc nếu nói cách khác thiện ác cái nọ chồng lên cái kia mà không hòa trộn, như hai chất lỏng có tỷ trọng khác biệt. Cha xứ đã cười vào mũi tôi. Đó là một linh mục tốt, rất nhiều hảo ý, rất nhân từ, thậm chí tòa tổng giám mục coi cha là một đầu óc không tín giáo, hơi nguy hiểm. Các câu khôi hài của cha gây hoan hỉ trong các ngôi nhà linh mục, cha còn nhấn thêm bằng một cái nhìn mà cha những muốn là sắc sảo, song tôi thấy thực ra nó rất mòn mỏi, rất chán ngán, làm tôi muốn khóc.

Xứ đạo của tôi bị nung nấu bởi nỗi buồn chán, vấn đề là thế đấy. Như bao xứ đạo khác! Nỗi buồn chán tiêu hủy nó trước mắt chúng tôi mà chúng tôi chẳng làm gì được hết. Có lẽ một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị truyền nhiễm, chúng tôi sẽ phát hiện ở mình khối ung thư ấy. Người ta có thể sống rất lâu với cái đó.

Ý nghĩ này nảy ra trong tôi hôm qua trên đường cái. Trời mưa, một thứ mưa nhỏ mà người ta nuốt vào đầy phổi, nó xuống tận ruột bạn. Từ dốc Saint-Vaast, làng đột ngột hiện ra trước tôi, thật dúm dó, thật khốn khổ dưới bầu trời gớm guốc tháng Mười một. Nước, bốc hơi khắp chốn, bên trên làng, và làng có vẻ nằm phục xuống đó, trong cỏ ướt đầm đìa, như một con vật tội nghiệp kiệt sức. Một thôn làng, sao mà bé nhỏ! Và làng ấy là xứ đạo của tôi. Đó là xứ đạo của tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì cho nó, tôi buồn bã nhìn nó chìm vào bóng tối, mất hút… Vài khoảnh khắc nữa, rồi tôi sẽ không còn thấy nó. Chưa bao giờ tôi cảm nhận một cách ác nghiệt đến thế sự cô quạnh của nó và của tôi. Tôi nghĩ đến những gia súc mà tôi nghe tiếng khục khặc trong sương mù, mà em bé chăn dắt, đi học về, tay cắp cặp, lát nữa sẽ dẫn qua các đồng cỏ đẫm nước, về chuồng trại ấm nóng, thơm tho… Và nó, thôn làng, hình như cũng đang đợi – chẳng hy vọng nhiều – sau bao đêm trong bùn lầy, một người chủ để theo đến chốn nương náu nào đó không tưởng tượng được, không chắc đã có.

Ôi! tôi biết rõ đó là những ý nghĩ điên rồ, thậm chí tôi không thể coi là thực hoàn toàn, những mơ mộng… Các thôn làng chẳng đứng dậy trước tiếng nói của em học sinh nhỏ, như các gia súc. Có hề gì! Tối qua, tôi nghĩ rằng một vị thánh đã gọi nó.

Vậy tôi tự nhủ là thế gian bị nung nấu bởi nỗi buồn chán. Dĩ nhiên, phải suy ngẫm đôi chút mới nhận ra, điều ấy không nắm bắt được ngay tức khắc. Đó là một loại bụi. Bạn đi đi lại lại mà chẳng nhìn thấy nó, bạn hít thở nó, bạn ăn nó, uống nó, và nó mịn quá, tinh vi quá đến mức chẳng lạo xạo trong miệng nữa. Nhưng bạn chỉ dừng lại một giây thôi, là nó phủ đầy mặt, đầy tay bạn. Bạn phải không ngừng quẫy cựa để rũ đám mưa bụi ấy. Vậy là, thế gian quẫy cựa rất nhiều.

Có lẽ người ta sẽ bảo rằng từ lâu thế gian đã quen với nỗi buồn chán, và buồn chán là thân phận thực sự của con người. Có thể là hạt giống buồn chán đã gieo rắc khắp chốn và nảy mầm đây đó, trên mảnh đất nào thuận lợi. Nhưng tôi tự hỏi liệu con người đã bao giờ biết sự lây nhiễm buồn chán, cái bệnh hủi đó? Một nỗi tuyệt vọng bất thành, một hình thái xấu xa của tuyệt vọng, có lẽ giống như sự lên men của một Cơ đốc giáo bị phân giải.

Dĩ nhiên, đó là những tư tưởng mà tôi giữ riêng cho mình. Tuy thế, tôi không hổ thẹn vì chúng. Thậm chí tôi nghĩ tôi sẽ làm mọi người hiểu tôi rất rõ, có lẽ quá rõ cho sự bình an của tôi – ý tôi muốn nói sự bình an của lương tâm tôi. Niềm lạc quan ở các bề trên đã chết hẳn. Những ai còn giáo huấn điều này chỉ dạy dỗ theo thói quen, mà không tin ở nó. Hơi bị phản bác, là các vị ban cho bạn những nụ cười am hiểu, xin dung tha. Các linh mục già chẳng nhầm đâu. Bất kể bề ngoài, và nếu như vẫn trung thành với một cách nói năng nhất định, vả chăng nó là bất biến, thì các chủ đề thuyết giảng chính thức không như cũ, các bậc đàn anh không còn thừa nhận chúng. Thí dụ, trước đây, theo truyền thống rất lâu đời, một bài diễn giảng của chủ giáo chẳng khi nào kết thúc mà không có sự ám chỉ thận trọng – đầy niềm tin chắc, dĩ nhiên, song thận trọng – về sự ngược đãi sắp tới và máu của những người tử vì đạo. Ngày nay những dự báo đó ít hơn nhiều. Chắc là vì sự thực hiện có vẻ kém chắc chắn.

Hỡi ôi! có một lời bắt đầu lan truyền trong các ngôi nhà mục sư, một trong những lời gớm guốc gọi là “của lính tráng”, tôi chẳng hiểu vì sao và như thế nào mà các bậc đàn anh của chúng tôi coi là ngồ ngộ, còn những thanh niên trạc tuổi tôi thì thấy rất xấu, rất buồn (Vả lại cũng lạ sao tiếng lóng nơi chiến hào diễn tả được các ý tưởng bẩn thỉu bằng hình ảnh sầu thảm, nhưng có đúng là tiếng lóng nơi chiến hào hay không?…) Vậy là người ta sẵn sàng nhắc lại rằng “Không nên tìm hiểu làm gì.” Chúa tôi! nhưng chúng tôi ở đây vì điều đó mà! Tôi hiểu là có các bề trên. Song ai cho các bề trên biết đây? Chúng tôi. Bởi thế, khi người ta ca ngợi với chúng tôi sự phục tòng và thuần phác của các tu sĩ, lý lẽ ấy chẳng khiến tôi động tâm nhiều, dù tôi cố gắng cũng vô hiệu…

Tất cả chúng tôi đều có thể gọt khoai hay chăn lợn miễn là một giáo trưởng của các tu sĩ mới hạ lệnh. Nhưng một xứ đạo, đâu có dễ khoản đãi bằng những hành vi đức hạnh như một cộng đồng thuần nhất! Hơn nữa họ sẽ không bao giờ biết những điều ấy, vả lại họ cũng sẽ chẳng hiểu gì hết.

Vị Tổng tư tế tại Bailloeil, từ khi về hưu, thường xuyên giao du với các Đức Cha dòng Chartreux ở Verchocq. Những điều tôi đã thấy ở Verchocq, là đầu đề một trong những bài diễn giảng mà cha quản hạt hầu như buộc chúng tôi có bổn phận tham dự. Chúng tôi đã được nghe những điều rất hay, thậm chí làm say mê, trừ giọng điệu ra, bởi ông già khả ái vẫn giữ những tật nho nhỏ vô hại của vị cựu giáo sư văn học, và chăm chút cách nói y như chăm chút đôi bàn tay. Cứ như thể ông vừa trông đợi lại vừa sợ hãi sự hiện diện khó có thật của ông Anatole France giữa các thính giả khoác áo thày tu, và ông xin A. France dung thứ cho Chúa Trời nhân danh chủ nghĩa nhân văn, với những nụ cười tế nhị, những ánh mắt đồng lõa và cách uốn éo ngón tay út. Rốt cuộc, hình như cái lối làm dáng của tăng lữ này vào năm 1900 đang hợp mốt và chúng tôi đã cố niềm nở đón nhận các lời lẽ “thẳng tuồn tuột” chẳng làm tuột đi được cái gì hết. (Chắc hẳn bản chất tôi quá cộc cằn, quá thô lậu, nhưng tôi xin thú nhận rằng tu sĩ giỏi văn chương bao giờ cũng khiến tôi ghê sợ. Giao du với những người tài hoa, nói chung đó là đi ăn cơm khách mà người ta không đi ăn cơm khách trước mũi những kẻ đang chết đói).

Tóm lại, Tổng tư tế đã kể cho chúng tôi nhiều giai thoại mà ông gọi theo thông lệ là các “nét hóm hỉnh”. Tôi tin rằng tôi đã hiểu. Tiếc thay tôi không cảm thấy xúc động như mình mong muốn. Các tu sĩ là những bậc thày khó sánh nổi về đời sống nội tâm, nhưng phần lớn những “nét hóm hỉnh” này giống như rượu nho đặc sản, phải dùng tại chỗ. Chúng không kham nổi sự chuyển dịch.

Còn có thể… tôi nên nói hay chăng? còn có thể là số ít ỏi những người đàn ông tụ tập, ngày đêm sống kề cận nhau, tạo ra mà họ không ngờ, bầu không khí thuận lợi… Cả tôi nữa, tôi cũng biết đôi chút về các tu viện. Tôi đã nhìn thấy ở đó những nhà tu hành úp mặt xuống đất, khiêm nhường tiếp thu, không động cựa, lời quở trách bất công của một bề trên chuyên tâm bẻ gãy niềm kiêu ngạo nơi họ. Nhưng trong những ngôi nhà không một tiếng vọng bên ngoài nào khuấy động, sự thinh lặng đạt tới một phẩm chất, một tính hoàn hảo phi thường thực sự, ở đó một rung động nhỏ tí cũng được nhận biết bởi những chiếc tai mẫn cảm tuyệt vời… Và có những sự thinh lặng nơi hội trường giá trị ngang tiếng vỗ tay khen ngợi.

(Trong khi một lời khiển trách của chủ giáo…)

Tôi đọc lại những trang đầu này của nhật ký mà lòng không vui. Dĩ nhiên, tôi đã suy nghĩ rất nhiều trước khi quyết định viết nhật ký. Điều đó chẳng khiến tôi an tâm mấy. Với ai có thói quen cầu nguyện, nghĩ ngợi thường chỉ là một chứng cớ ngoại phạm, một cách thâm hiểm để mình thêm vững trong một ý định. Sự suy luận dễ để yên trong bóng tối những gì ta muốn giấu ở đó. Con người của xã hội nghĩ ngợi nhằm tính toán cơ may, được thôi! Nhưng cơ may có nghĩa gì với chúng ta, những người đã nhất định thừa nhận sự hiện diện hãi hùng của thánh thần từng giây từng phút trong cuộc đời khốn khổ của ta? Trừ phi mất đức tin – và lúc đó thì anh ta còn gì nữa, bởi anh ta không thể mất đức tin mà không tự chối bỏ – về lợi ích riêng của mình, một tu sĩ không thể có cái nhìn rõ ràng, thật trực tiếp – có thể nói là thật ngây thơ, thật chất phác – ở những đứa con của thời đại. Tính toán cơ may của mình, để làm gì chứ? Người ta đâu có đánh bạc với Chúa.

Nhận thư trả lời của bà dì Philomène cùng hai tờ một trăm franc – vừa đủ cho khoản cần kíp nhất. Tiền trôi nhanh như cát giữa những ngón tay tôi, thật hãi hùng.

Phải thú nhận rằng tôi thật ngu dại! Thí dụ như ông Pamyre, chủ hiệu thực phẩm ở Heuchin, một người trung hậu (ông có hai con trai là tu sĩ) đã lập tức tiếp đón tôi rất thân tình, vả lại ông là nhà hàng quen của các đồng nghiệp của tôi. Lần nào ông cũng mời tôi dùng rượu quinquina và bánh ngọt ở nhà phía sau cửa hàng. Chúng tôi chuyện vãn một lúc lâu. Với ông thời buổi đang khó khăn, một trong hai cô con gái chưa lập nghiệp, còn hai cậu con trai khác theo học tại học hiệu Thiên chúa giáo, rất tốn kém. Tóm lại, một hôm kia cầm giấy đặt hàng của tôi, ông đã nói một cách dễ thương: “Tôi thêm ba chai quinquina, uống vào cha sẽ hồng hào lên.” Tôi đã ngốc nghếch tưởng ông ta tặng mình.

Một đứa trẻ nghèo, ở tuổi mười hai, chuyển từ gia đình khốn khó vào chủng viện, sẽ chẳng bao giờ biết giá trị của tiền bạc. Thậm chí tôi cho rằng chúng tôi khó giữ được chính trực một cách nghiêm ngặt trong công việc làm ăn. Tốt hơn là đừng có mạo hiểm chơi, dù chỉ chơi một cách ngây thơ, với cái mà phần đông người thế tục không coi là phương tiện, mà là mục đích.

Đồng nghiệp của tôi ở Verchin, không phải người kín đáo lắm, tưởng rằng cần nói bóng gió, dưới hình thức bông đùa, trước mặt ông Pamyre, về chuyện hiểu lầm nho nhỏ này. Ông Pamyre phiền lòng một cách chân thành. Ông bảo “Cha xứ cứ đến chơi tha hồ, chúng tôi sẽ rất vui được cùng nhau chạm cốc. Chúng tôi có thiếu một chai rượu đâu, nhờ ơn Chúa! Nhưng công việc là công việc, tôi chẳng thể cho không hàng hóa của mình.” Rồi hình như bà Pamyre nói thêm: “Người buôn bán chúng tôi cũng có bổn phận nghề nghiệp của chúng tôi.”

Sáng nay tôi đã quyết định không kéo dài sự thể nghiệm quá mười hai tháng sắp tới. Đến ngày 25 tháng Mười một sau, tôi sẽ đốt những tờ này, tôi sẽ cố quên chúng đi. Điều tôi vừa quyết định sau lễ mi xa chỉ khiến tôi yên tâm được chốc lát.

Không phải là sự đắn đo thận trọng theo đúng nghĩa của từ này. Tôi cho rằng mình chẳng làm gì xấu khi ghi lại hàng ngày, với sự trung thực tuyệt đối, những điều thầm kín vô nghĩa, rất tầm thường hèn mọn, của một cuộc đời vả chăng cũng không có gì bí mật. Những điều tôi sắp lưu lại trên giấy sẽ chẳng giúp cho người bạn duy nhất mà có lúc tôi còn nói chuyện chân thành, biết được nhiều nhặn gì, còn thì tôi cảm thấy rất rõ tôi sẽ không bao giờ dám viết ra những điều mà hầu như sáng nào tôi cũng giãi bày không hổ thẹn cùng Chúa. Không, cái đó chẳng giống sự đắn đo thận trọng, đúng hơn đó là một thứ sợ hãi không suy xét, tựa như bản năng khuyến cáo. Lần đầu tiên ngồi trước cuốn vở học sinh này, tôi đã cố tập trung chú ý, cố tĩnh tâm như để tự vấn lương tâm. Nhưng không phải tôi đã nhìn thấy lương tâm mình bằng cái nhìn nội tại bình thường rất điềm tĩnh, rất sắc sảo, bỏ qua tiểu tiết, đi ngay vào điều chủ yếu. Dường như cái nhìn này trượt trên bề mặt một lương tâm khác cho đến bấy giờ tôi vẫn chưa biết, một tấm gương mờ nơi bỗng nhiên tôi sợ thấy ló ra một gương mặt – gương mặt nào: mặt tôi có lẽ?… Một gương mặt tìm thấy lại, đã quên lãng.

Phải nói về mình với thái độ nghiêm khắc không nao núng. Thế mà ngay từ cố gắng đầu tiên để tự nắm bắt, vì đâu có niềm xót thương ấy, tình âu yếm ấy, vì đâu mọi sợi tơ lòng chùng xuống và cứ muốn khóc lên?

Hôm qua tôi đến thăm cha xứ Torcy. Đó là một tu sĩ tốt, rất đứng đắn, mà bình thường tôi thấy là hơi phàm tục, là con nhà nông dân giàu có, ông biết giá trị của tiền bạc và khiến tôi kính phục nhiều vì kinh nghiệm xã giao. Đồng nghiệp bàn rằng ông sẽ giữ chức tăng viện trưởng Heuchin… Thái độ của ông đối với tôi khiến tôi khá thất vọng, bởi ông không ưa những lời tâm sự và biết làm nản ý định tâm sự bằng tiếng cười to chất phác, thực ra tinh tế hơn vẻ bên ngoài rất nhiều. Chúa ơi, sao mà tôi ao ước có được sức khỏe của ông, có được lòng dũng cảm, sự cân bằng của ông! Nhưng tôi cho rằng ông có lòng độ lượng đối với điều mà ông sẵn sàng gọi là thói đa cảm ở tôi, bởi ông biết tôi không hợm hĩnh vì nó, ôi, không đâu! Thậm chí từ khá lâu rồi tôi không còn định lẫn lộn niềm xót thương thật sự của các bậc thánh – niềm xót thương mạnh mẽ và dịu dàng – với nỗi sợ trẻ thơ nơi tôi trước sự đau khổ của người khác.

– Khí sắc không được tốt đâu, anh bạn nhỏ ạ!

Cần phải nói rằng tôi vẫn còn bàng hoàng thảng thốt vì bị ông lão Dumonchel la rầy vài giờ trước đây, ở kho đồ thánh. Có Chúa biết là tôi những muốn cho không, cùng với thời giờ và nỗi cực của mình, những thảm vải bông, những màn trướng nhậy cắn lỗ chỗ, và những cây nến mỡ bò mua rất đắt của người cung cấp hàng cho Đức Ngài, song hễ thắp lên là chúng sụt ngay xuống với tiếng xèo xèo như chảo rán. Có điều biểu giá là biểu giá: tôi làm gì được?

– Lẽ ra anh phải tống khứ ông lão khỏi cửa – cha xứ bảo tôi.

Rồi thấy tôi phản đối:

– Tống khứ ông ta đi, đúng thế! Vả lại, ta biết lão Dumonchel nhà anh: lão có của… Bà vợ quá cố giàu gấp đôi lão – vừa đủ để lão chôn cất bà ta tử tế! Đám tu sĩ trẻ các anh…

Ông đỏ bừng mặt và nhìn tôi từ đầu xuống chân.

– Ta vẫn tự hỏi giờ đây cái gì chảy trong mạch máu những tu sĩ trẻ các anh! Vào thời của ta, người ta đào tạo các nhà hoạt động cho Giáo hội – đừng chau mày thế, anh làm ta muốn bợp tai anh – phải, các nhà hoạt động cho Giáo hội, anh muốn hiểu từ này thế nào tùy ý, các vị đứng đầu xứ đạo, các chỉ huy, các nhà cai quản. Những người ấy họ chỉ hất cằm lên mà trông coi được một miền. Ồ! ta biết anh sắp bảo gì ta: họ ăn tốt, uống cũng tốt, và chẳng chê những quân bài. Đồng ý! Khi người ta quan niệm công việc của mình một cách thích đáng, người ta làm nhanh làm tốt, người ta còn thời giờ rảnh rỗi và như vậy càng hay cho tất cả mọi người. Ngày nay các chủng viện gửi đến cho chúng tôi những cậu lễ sinh, những chú bé chân đất cứ tưởng mình làm việc nhiều hơn ai hết bởi vì chẳng đạt được cái gì hết. Lẽ ra phải hạ lệnh thì họ lại thút tha thút thít. Họ đọc hàng đống sách mà chẳng hiểu được – chẳng hiểu, anh nghe rõ chứ! – ngụ ngôn về Chồng và Vợ. Này con, thế nào là một người vợ, một người đàn bà thực sự, như một người đàn ông có thể ao ước gặp được nếu anh ta khá ngu dại để không theo lời khuyên của thánh Paul? Đừng trả lời, anh sẽ nói những điều tầm bậy! Này, đó là một cô nàng chịu thương chịu khó lam làm, nhưng thể tất nhiều chuyện, và biết rằng tất cả sẽ phải bắt đầu lại mãi cho đến cùng. Giáo hội Thiêng liêng cứ tha hồ vất vả, giáo hội sẽ không biến đổi được thế gian tội nghiệp này thành hương án bày trong ngày Lễ Thánh thể. Ngày trước – ta muốn nói đến xứ đạo cũ của mình – ta có một người coi kho đồ thánh rất cừ, một nữ tu ở Bruges hoàn tục năm 1908, một tấm lòng trung hậu. Tám ngày đầu, nào cọ nào đánh bóng, ngôi nhà của Chúa cứ sáng loáng lên như phòng tiếp chuyện trong tu viện, ta chẳng còn nhận ra nó nữa, lời nói danh dự đấy! Phải nói là đang vụ gặt, chẳng ai lai vãng, và bà già quỷ quái ấy yêu cầu ta phải bỏ giày – ta là người rất kinh sợ dép đi trong nhà! Thậm chí ta cho rằng bà ấy đã bỏ tiền túi ra mua dép. Dĩ nhiên, sáng nào bà ta cũng tìm thấy một lớp bụi mới trên các ghế dài, một hai chiếc nấm vừa mọc trên tấm thảm chỗ hát kinh, và mạng nhện – a, con ạ! những mạng nhện đủ may một bộ đồ cưới cho cô dâu.

Ta tự nhủ: “Con cứ cọ đi, chủ nhật con sẽ biết.” Rồi chủ nhật đến. Ồ! một chủ nhật như những chủ nhật khác, chẳng phải lễ hội có nhạc chuông; vẫn những người đi lễ bình thường thôi. Khốn khổ! Tóm lại, đến nửa đêm, bà ấy vẫn còn đánh xi còn kỳ cọ, dưới ánh nến. Và mấy tuần sau, lễ Các Thánh, một buổi truyền giảng náo nhiệt của hai Cha dòng Chúa cứu thế, hai tay lực lưỡng. Bà già tội nghiệp suốt mấy đêm bò lê với xô nước và khăn lau – nào té nào dội nước – đến mức rêu bắt đầu bám dọc các cột, cỏ mọc trong các khe gạch lát. Chẳng có cách nào bàn bạc phải trái với bà ấy được! Nếu ta mà nghe bà ấy, thì ta đến phải tống khứ tất cả mọi người khỏi cửa để Chúa trời được đặt chân lên chỗ khô ráo, anh có thấy không nào? Ta bảo bà ấy: “Bà làm tôi khuynh gia bại sản vì thuốc men mất” – vì bà ấy ho, tội nghiệp bà lão! Cuối cùng bà ấy phải nằm vì một cơn thấp khớp, tim bị suy sụp và, hấp! thế là bà xơ nhà ta đứng trước thánh Pierre. Theo một nghĩa, đó là người tử vì đạo, không thể nói trái lại. Sai lầm của bà ta không phải ở chỗ đấu tranh chống sự bẩn thỉu, chắc chắn như vậy, mà ở chỗ muốn tiêu diệt nó, cứ như việc đó có thể làm được. Một xứ đạo, nhất định là phải bẩn thỉu rồi. Một tiểu giáo khu, còn bẩn nữa. Hãy đợi ngày phán xử, sẽ thấy những gì các thiên thần phải lôi ra từ những tu viện thánh thiện nhất, hàng xẻng hàng xẻng – sao mà lắm phân rác! Vậy thì, anh bạn nhỏ, điều ấy chứng tỏ Giáo hội phải là một người nội trợ vững vàng, vững vàng và biết điều. Bà xơ ở chỗ ta không phải người dọn dẹp nhà thực thụ: người dọn dẹp thực thụ biết rằng một ngôi nhà không phải một hòm đựng thánh tích. Tất cả những điều đó, là ý tưởng của thi sĩ.

Tôi chờ ông ta nói đến chỗ ấy. Trong lúc ông nhồi lại tẩu thuốc, tôi vụng về tìm cách để ông hiểu rằng có lẽ thí dụ chọn không hợp lắm, rằng bà nữ tu chết vì khó nhọc kia chẳng có gì chung với các “chú bé lễ sinh”, “đi chân đất”, “lẽ ra phải hạ lệnh thì lại thút tha thút thít”. Ông nói không chút dịu dàng:

– Anh hãy tỉnh ngộ đi. Cùng một ảo tưởng cả. Có điều đám chân đất không kiên trì bằng bà xơ nhà ta, thế thôi. Qua thử nghiệm đầu tiên viện cớ rằng kinh nghiệm thực thi chức phận mâu thuẫn với trí suy xét con con của họ, họ tung hê hết. Đó là những cái mõm ưa chén mứt. Một giáo khu cũng như một con người không tự nuôi sống bằng mứt được. Chúa không viết rằng chúng ta là mật của trần thế, con ạ, mà là muối. Vậy, thế gian tội nghiệp của chúng ta giống như ông già Job trên đống phân rác, mình đầy vết thương và ung nhọt. Chất muối trên lớp da bị tuột, xót lắm. Nhưng cũng ngăn cho khỏi thối rữa. Cùng với ý nghĩ tiêu diệt quỷ dữ, một sở nguyện khác của các anh là được yêu mến, hiểu theo nghĩa được yêu mến vì bản thân mình. Một linh mục thực thụ không bao giờ được yêu mến, hãy nhớ lấy điều đó. Và anh có muốn ta nói cho biết không? Giáo hội bất cần các anh được yêu mến, con ạ. Trước hết, hãy được kính trọng, được tuân phục. Giáo hội cần trật tự. Suốt cả ngày, hãy thiết lập trật tự. Hãy thiết lập trật tự và nghĩ rằng ngày mai sự lộn xộn lại thắng thế nữa bởi chính nó ở bên trong trật tự, hỡi ôi! nghĩ rằng đêm tung hê những gì anh làm hôm trước – đêm thuộc về quỷ.

– Đêm là chức trách của người tu hành mà? – tôi nói (tôi biết mình sẽ làm ông nổi giận).

– Phải, ông lạnh lùng đáp. Họ tấu nhạc.

Tôi cố tỏ ra bất bình.

– Những người tĩnh tâm thiền tọa của anh, ta chẳng phản đối gì họ, ai có việc của người ấy. Ngoài âm nhạc ra, đó cũng là những người bán hoa.

– Người bán hoa?

– Đúng thế. Khi chúng tôi đã dọn dẹp nhà cửa, rửa bát, gọt khoai, trải khăn lên bàn rồi, thì người ta ấn hoa tươi vào bình, hợp lẽ thôi. Xin lưu ý là sự so sánh nho nhỏ này chỉ làm những kẻ ngu ngốc tức giận, bởi dĩ nhiên là có chút tiểu dị… Bông huệ thần bí không phải bông huệ mọc ngoài đồng, vả chăng, nếu con người thích miếng thăn bò hơn chùm nhạn lai hồng, thì bởi bản thân y là một đồ súc sinh, một cái bụng. Tóm lại, những người tĩnh tâm thiền tọa của anh được trang bị rất tốt để cung cấp cho chúng ta những bông hoa đẹp, hoa thật. Tiếc thay, có sự phá hoại trong các tăng viện cũng như ở nơi khác, và người ta gán cho chúng ta quá thường xuyên hoa giấy.

Ông liếc xéo, quan sát tôi mà không ra vẻ quan sát và, những lúc ấy, tôi ngỡ thấy trong sâu thẳm cái nhìn của ông rất nhiều thương mến và – biết nói thế nào nhỉ – một thứ băn khoăn, lo ngại. Tôi có những gian nan thử thách của tôi, ông có gian nan thử thách của ông. Nhưng với tôi, giữ yên lặng về những điều đó, thật khó khăn. Và nếu như tôi không nói, thì vì dũng cảm ít hơn, than ôi! là vì niềm bẽn lẽn mà người ta bảo tôi là các thày thuốc cũng có, ít ra theo cách của họ và tùy theo nhưng mối quan tâm riêng nơi họ. Trong khi ông thì lặng thinh về những gian nan thử thách của mình, dù có xảy ra điều gì chăng nữa, và dưới vẻ ngay thật gắt gỏng, còn khó thấu hiểu hơn những tu sĩ dòng Chartreux tôi từng gặp trong hành lang ở Z…, trắng nhợt như những cây nến sáp.

Đột nhiên, ông nắm tay tôi trong tay ông, một bàn tay sưng lên vì bệnh tiểu đường, nhưng xiết chặt ngay tức khắc không dò dẫm, cứng cỏi, oai vệ.

– Có lẽ anh sẽ bảo là ta chẳng hiểu gì về những người thần bí. Phải, anh sẽ bảo như thế, đừng giả bộ ngây ngốc! Thế thì, anh bạn ạ, vào thời ta, ở đại chủng viện có một ông thày dạy luật tôn giáo cứ tưởng mình là thi sĩ. Ông ấy làm ra cho anh những trò vè kỳ dị, với đủ các chân cần thiết, rồi vần, rồi chỗ ngắt hơi, và mọi thứ, con người tội nghiệp! tưởng như ông ấy sẽ chuyển cả bộ luật tôn giáo thành thơ. Ông ấy chỉ thiếu mỗi một thứ, anh muốn gọi là gì tùy ý, cảm hứng, thiên tài – ingenium* – làm sao ta biết được? Ta thì ta chẳng có thiên tài. Giả sử một ngày nào đó Thánh Linh ra hiệu cho ta, ta sẽ quẳng lại nào chổi nào giẻ lau – phải không nào! – rồi chu du một chuyến nơi các thiên sứ để học nhạc, chỉ phải cái lúc đầu hơi lạc điệu đôi chút. Những anh sẽ cho phép ta cười phì vào mũi những kẻ đồng thanh hát lên khi Chúa còn chưa giơ cây đũa chỉ huy!

Tiếng La tinh có nghĩa là tài trí.

Ông ngẫm nghĩ một lát và tôi cảm thấy mặt ông, dù quay về phía cửa sổ, đột nhiên như đang ở trong bóng tối. Cả đến các đường nét cũng cứng lại như thể ông chờ đợi nơi tôi – hoặc có lẽ nơi ông, nơi lương tâm ông – một lời phản bác, đính chính, một cái gì đó… Vả chăng ông tươi tỉnh lại hầu như tức khắc.

– Anh bạn nhỏ ạ, ta có những ý nghĩ của ta về cây đàn thụ cầm của chàng David. Đó là một chàng trai tài năng, hẳn rồi, nhưng toàn bộ âm nhạc của anh ta chẳng giữ được cho anh ta khỏi phạm tội. Ta biết rõ là các nhà văn tội nghiệp giàu thiện tâm hì hụi viết Đời các Thánh để truyền bá ra nước ngoài thường tưởng tượng là một con người được yên ổn trong trạng thái xuất thần nhập định, anh ta ở đó ấm áp và an toàn như ở trong lòng của Abraham vậy. An toàn ư!… Ồ! dĩ nhiên là thỉnh thoảng chẳng có gì dễ hơn việc trèo lên trên ấy: Chúa mang anh lên. Vấn đề là ở lại đó và nếu có dịp, biết cách xuống. Anh sẽ thấy rằng các bậc thánh, thật sự thánh, thường rất bối rối khi trở về. Một khi bị bắt gặp trong những hoạt động giữ thăng bằng, đầu tiên là họ van nài mọi người giữ bí mật cho họ: “Xin đừng nói với ai về điều bạn đã thấy…” Họ hơi hổ thẹn, anh có hiểu không? Hổ thẹn vì là con được nuông chiều của Cha, vì đã uống vào cốc toàn phước trước hết thảy mọi người! Và vì sao chứ? Chẳng vì cái gì hết. Vì ưu đãi. Các kiểu ân sủng ấy!… Động tác đầu tiên của tâm hồn là trốn chạy chúng. Này, có thể hiểu theo rất nhiều cách, lời trong Sách Thánh: “Rơi vào tay Chúa thật hãi hùng!” Nói sao đây! Trong vòng tay Chúa, trên ngực Chúa, ngực của Jésus! Anh giữ phần bé nhỏ của anh trong buổi hòa tấu, anh chơi thanh la* hay chũm chọe, thí dụ thế, rồi bỗng người ta yêu cầu anh trèo lên bục, người ta đưa cho anh một cây vĩ cầm Straparius và bảo anh: “Nào, chàng trai, tôi nghe anh đây.” Brr!… Vào đây xem phòng cầu nguyện của ta, nhưng hãy lau chân trước đã, vì tấm thảm ấy mà.

Nguyên văn: triangle, nhạc cụ gồm ba thanh kim loại, hình tam giác, gõ tiếng vang to.

Tôi chẳng biết gì mấy về đồ đạc trong nhà, nhưng cảm thấy phòng của ông tuyệt đẹp: chiếc giường lớn bằng gỗ đào hoa tâm, chiếc tủ ba cánh cửa, chạm trổ rất nhiều, các ghế bành bọc vải nhung lông và trên lò sưởi một tượng Jeanne d’Arc thật to bằng đồng đỏ. Nhưng không phải Cha xứ Torcy muốn cho tôi xem phòng của ông. Ông đã dẫn tôi vào một gian khác thật trần trụi, đồ đạc chỉ có một chiếc bàn và một ghế quỳ để cầu nguyện. Trên tường một tranh thạch bản màu khá xấu xí, giống những tranh ta thường thấy trong các phòng ở bệnh viện, vẽ Chúa Hài đồng má rất phính, da rất hồng, giữa con lừa và con bò. Ông bảo tôi:

– Anh thấy bức tranh này chứ. Đó là quà tặng của bà mẹ đỡ đầu ta. Ta có điều kiện mua cho mình cái gì đẹp hơn, nghệ thuật hơn, nhưng ta vẫn còn ưng bức này. Ta thấy nó xấu, thậm chí hơi ngốc nghếch nữa, điều đó làm ta an tâm. Anh bạn nhỏ ạ, quê ta là miền Flandres, xứ sở của những người ăn nhiều, uống khỏe – và giàu có… Các anh, những người ngăm ngăm đen tội nghiệp vùng Boulonnais, trong những túp lều vách đất, làm sao các anh hình dung được sự trù phú miền Flandres, miền đất đen! Đừng đòi hỏi ở chúng tôi quá nhiều lời lẽ hoa mỹ làm chao đảo các phu nhân sùng tín, nhưng chúng tôi có không ít nhà thần bí, con ạ! Và không phải những nhà thần bí lao phổi đâu, không. Cuộc sống chẳng làm chúng tôi sợ: một chất máu thô tốt lành thật đỏ, thật đậm đặc, nó đập ở hai bên thái dương ngay cả khi trong người đầy ứ rượu đỗ tùng, hoặc lúc đang giận đùng đùng, cơn giận xứ Flandres, có thể quật ngã một con bò – một chất máu thô, đỏ, với tí chút màu xanh Tây Ban Nha, vừa đủ để làm nó bốc cháy. Tóm lại, nào, anh có những điều phiền muộn của anh, ta có điều phiền muộn của ta – chắc chúng chẳng giống nhau. Có thể có lúc anh bị nằm trên cáng bệnh nhân, còn ta đã lao vào đó rồi, và nhiều lần nữa, anh cứ tin ở ta. Nếu ta bảo anh… Nhưng để hôm khác ta sẽ bảo anh, lúc này anh có vẻ đuối quá, khéo ta nhìn thấy anh xỉu mất. Trở lại tranh Chúa Hài đồng, anh tưởng tượng xem cha xứ Poperingle, miền quê của ta, đồng tình với ngài phó giám mục, một người mạnh mẽ, nghĩ ra chuyện gửi ta vào Saint-Sulpice. Saint-Sulpice, theo ý các ngài, là Saint-Cyr của giới tăng lữ trẻ, là Saumive – hay Trường học chiến đấu. Thế rồi, ngài thân sinh ra ta (nói ngoài đề một chút, mới đầu tôi tưởng là nói đùa, nhung hình như cha xứ Torcy không bao giờ gọi ông bố của mình theo cách khác: một tục lệ thời trước chăng?), ngài thân sinh ra ta có của và có trách nhiệm làm rạng danh giáo phận. Có điều, ấy chết!… Khi ta nhìn thấy cái trại cũ kỹ lở lói như hủi, bốc mùi canh thịt, brr!… Và tất cả các chàng trai trung hậu gầy nhom, các gã tội nghiệp, gầy đến nỗi nhìn chính diện mà họ vẫn có vẻ như trông nghiêng… Rốt cuộc, cùng với ba hay bốn cậu bạn thân, không hơn, chúng ta quấy đảo các ông thầy, chúng ta làm om sòm đôi chút, những trò ngốc nghếch ấy mà. Học hành và ăn thì khá vào loại nhất, nhưng ngoài những điều đó ra… đúng là những quỷ con. Một tối, mọi người đi nằm cả rồi, bọn ta đã trèo lên mái nhà, rồi kêu meo meo… đến làm cả khu phố phải thức dậy. Ông thầy dạy các tu sĩ mới liền quỳ xuống chân giường làm dấu thánh giá, tội nghiệp, ông ấy tưởng hết thảy mèo trong quận đã hẹn hò nhau tại Ngôi Nhà Thiêng Liêng để kể cho nhau những chuyện gớm ghê – một trò đùa ngu dại, ta đồng ý như thế! Đến cuối quý học, các vị ấy trả ta về nhà, với những lời ghi! Không dốt, một chàng trai trung hậu, bản chất tốt, và thế này, và thế nọ. Tóm lại, ta chỉ hợp với việc chăn bò. Mà ta chỉ ước mơ được là linh mục. Là linh mục hoặc chết! Ta buồn khổ đến mức Chúa cho phép ta định tự hủy hoại mình – thật thế. Ngài thân sinh ra ta là một người công minh. Ông đã dẫn ta đi xe ngựa đến gặp Đức Cha mang theo lá thư nhỏ của một bà cô, mẹ bề trên của các bà phước dòng Thánh mẫu phỏng vấn ở Namur. Đức Cha cũng là một người công minh. Ngài lập tức cho ta vào thư phòng của ngài. Ta đã phục xuống chân ngài, ta đã kể với ngài tà ý của ta, và tuần sau ngài gửi ta vào đại chủng viện của ngài, một trường không quá hiện đại, nhưng vững chắc. Có hề gì! Ta có thể nói rằng ta đã nhìn thấy cái chết sát gần, và một cái chết như thế nào chứ! Bởi vậy từ khoảnh khắc đó ta đã quyết định giữ gìn thận trọng, giả ngây giả ngốc. Ngoài công vụ ra, nói như các quân nhân, đừng thêm rắc rối. Chúa Hài đồng của ta còn quá non trẻ nên chẳng quan tâm nhiều đến âm nhạc hay văn chương. Thậm chí chắc người còn nhăn mặt không tán thành những kẻ chỉ liếc ngang liếc ngửa thay vì mang rơm rạ mới đến cho bò hoặc chải lông cho lừa của Người.

Ông nắm vai tôi đẩy ra ngoài phòng và bàn tay to lớn của ông vỗ một cái thân mật suýt làm tôi ngã quỵ. Rồi chúng tôi đã uống với nhau một ly rượu đỗ tùng. Và đột nhiên, ông nhìn thẳng vào mắt tôi, vẻ quả quyết và ra lệnh. Như thể đó là một con người khác, một người không phải biện minh cùng ai hết, một vị chúa tể. Ông nói:

– Thày tu là thày tu, ta không phải thày tu. Ta không phải cha bề trên của các thày tu. Ta có một bầy tín đồ, một bầy đàn thực sự, ta không thể nhảy múa trước con tàu* cùng bầy đàn của ta – đàn gia súc; như vậy ta sẽ giống như cái gì, hả con? Các gia súc, chẳng tốt lắm chẳng xấu lắm, bò, lừa, những con vật cày bừa và kéo xe. Và ta cũng có cả dê đực* nữa. Ta sẽ làm gì những con dê đực của mình đây? Không thể giết chúng hoặc bán chúng đi. Một tu sĩ vào hàng giám mục chỉ việc ra lệnh để thầy tăng giữ cửa không cho vào. Trong trường hợp nhầm lẫn, ngài tống khứ dê đực dễ như trở bàn tay. Ta thì không làm thế được, chúng ta phải vừa lòng với mọi sự, ngay cả với dê đực. Dê đực hay chiên, vị chủ tế muốn chúng ta trả lại Người mỗi con vật trong trạng thái tốt lành. Anh đừng nghĩ đến chuyện ngăn trở dê đực bốc mùi dê đực, anh sẽ mất thì giờ, anh sẽ có nguy cơ sa vào tuyệt vọng. Các đồng nghiệp già coi ta là kẻ lạc quan chủ nghĩa, một Roger Bontemps, những người trẻ tuổi kiểu như anh coi ta là ông ba bị, họ thấy ta quá khắc nghiệt với những người phụ việc, quá quân sự, quá cứng rắn. Phía này cũng như phía kia đều trách ta không có kế hoạch cải cách, giống như mọi người khác, hoặc cứ cất nó trong túi. Người già càu nhàu: Truyền thống! Người trẻ ca hát: Tiến hóa! Ta thì ta cho rằng con người là con người, chẳng đáng giá hơn mấy so với thời của dân dị giáo. Vả lại vấn đề không phải là biết được con người đáng giá bao nhiêu, mà là biết được ai chỉ huy anh ta. A! Nếu người ta để cho các tăng lữ hành động! Hãy chú ý rằng ta không nghĩ về thời Trung cổ theo lối sáo mòn đâu: những người của thế kỷ XIII chẳng được tiếng là nhân đức, và nếu như các thày tu thời ấy ít ngu ngốc hơn bây giờ, thì họ lại uống rượu nhiều hơn, không thể nói khác đi được. Nhưng chúng ta đang lập nên một đế quốc, con ạ, bên cạnh đế quốc này thì đế quốc của các César chỉ như bùn đất – một nền hòa bình, nền hòa bình La Mã, hòa bình thực sự. Một dân tộc Cơ đốc giáo, đó là điều mà chúng ta có thể cùng nhau tạo dựng. Một dân tộc gồm những người Cơ đốc giáo không phải là một dân tộc của những người giả nhân giả nghĩa. Giáo hội có thần kinh vững, tội lỗi không khiến nó sợ, ngược lại. Nó nhìn thẳng vào tội lỗi, bình tĩnh, và thậm chí, noi gương Chúa, nó nhận tội lỗi về mình, nó gánh chịu tội lỗi. Khi một người thợ tốt làm việc đúng mực sáu ngày trong tuần, thì tối thứ bảy hoàn toàn có thể bỏ qua cho người đó một chầu quá chén. Này, để ta định nghĩa cho anh một dân tộc Cơ đốc giáo bằng điều tương phản với nó. Điều tương phản với một dân tộc Cơ đốc giáo, là một dân tộc buồn bã, một dân tộc của những người già. Anh sẽ bảo ta rằng định nghĩa không mang tính chất thần học cho lắm. Đồng ý. Nhưng nó có thể khiến cho các vị ngáp ngủ trong lễ mi xa ngày chủ nhật phải suy nghĩ. Họ ngáp thật mà! Làm sao mà trong nửa giờ đồng hồ khốn khổ mỗi tuần, Giáo hội dạy được niềm vui cho họ! Thậm chí nếu họ có thuộc lòng giáo lý của Công đồng Trente, họ cũng chẳng vì thế mà tươi vui hơn.

Arche, theo thánh kinh, con tàu lớn do Nóe đóng trong thời hồng thủy để chở một số người trong gia tộc và nhiều cặp cầm thú.

bouc: dê đực, theo nghĩa bóng là con người khả ố, ô trọc.

Vì sao mà thời thơ ấu của chúng ta lại hiện ra với chúng ta êm đềm đến thế, rạng rỡ đến thế? Một thằng bé cũng có những nỗi buồn khổ như tất cả mọi người và nhìn chung, nó quá ít vũ khí để chống lại sự đau đớn, bệnh tật! Tuổi thơ và lúc thật già là hai bước gian nan thử thách lớn của con người. Nhưng chính từ cảm giác về sự bất lực của bản thân mà đứa trẻ rút ra một cách khiêm nhường nguyên lý của niềm vui nơi nó. Nó trông cậy vào mẹ nó, anh có hiểu không? Hiện tại, quá khứ, tương lai, cả cuộc đời nó, toàn bộ sự sống ở trong một ánh mắt, và ánh mắt ấy là một nụ cười. Này, con ạ, nếu người ta cứ để cho bọn mình hành động, chắc hẳn Giáo hội sẽ đem cho con người trạng thái an tâm tối cao ấy. Hãy nhớ rằng chẳng phải vì thế mà con người sẽ không có phần buồn bực của họ. Cái đói, cái khát, cái nghèo, sự ghen tuông, chúng ta chẳng bao giờ đủ mạnh để nhét quỷ vào túi được, làm gì có chuyện ấy! Nhưng con người sẽ biết mình là con của Chúa, đó là phép mầu nhiệm! Con người sẽ sống sẽ chết đi với ý tưởng ấy trong đầu – và không phải một ý tưởng chỉ học được trong sách, không đâu. Bởi nhờ có chúng ta, ý tưởng ấy sẽ xui khiến các phong tục, tập quán, các sự vui chơi, giải trí, thậm chí cả những nhu cầu bình thường nhất. Chẳng phải vì thế mà người thợ không đào đất, nhà bác học không chuyên chú vào bảng logarithme thậm chí viên kỹ sư không chế tác những thứ đồ chơi cho người lớn. Có điều chúng ta sẽ tiêu diệt, sẽ nhổ bật khỏi trái tim của Adam cảm giác cô đơn. Với đàn lũ thánh thần của họ, những người đa thần giáo chẳng ngốc lắm đâu: dù sao họ cũng đã tạo được cho con người ảo tưởng về một sự hòa hợp thô sơ với cái vô hình. Nhưng ngày nay trò ấy chẳng ra cái đinh gì. Ở ngoài Giáo hội, một dân tộc sẽ mãi mãi là một dân tộc của những đứa con hoang, của những đứa trẻ người ta nhặt được. Dĩ nhiên, họ hãy còn hi vọng được Satan thừa nhận. Thôi đi! Họ còn phải đợi lâu, đợi Noël đen tối của họ! Họ cứ việc để giày trong lò sưởi! Quỷ đã chán đặt vào đấy hàng đống máy móc sáng chế nhanh mà lỗi thời cũng nhanh, bây giờ nó chỉ để một gói nhỏ xíu côcain, hêrôin, moocphin, một chất bột bẩn thỉu nào đó chẳng tốn kém của nó mấy. Những kẻ tội nghiệp! Họ sẽ sử dụng đến mức tội lỗi. Chẳng phải cứ muốn chơi đùa là được. Con búp bê bốn xu tầm thường nhất khiến một đứa trẻ vui thích suốt một mùa, trong khi người già sẽ ngáp trước một đồ chơi giá năm trăm quan. Tại sao? Vì ông ta đã đánh mất tinh thần trẻ thơ. Này, Giáo hội được Chúa giao trách nhiệm gìn giữ trong thế gian tinh thần trẻ thơ ấy, niềm chất phác ấy, sự tươi mát ấy. Đa thần giáo không phải là thù địch của tự nhiên, nhưng chỉ có Cơ đốc giáo mới làm cho tự nhiên thành rộng lớn, phấn khích, khiến tự nhiên ngang tầm với con người, với mơ ước của con người. Ta muốn nắm lấy một trong những gã thông thái rởm coi ta là kẻ ngu dân, ta sẽ bảo gã: “Không phải lỗi ở tôi nếu như tôi mang y phục của phu đám ma. Xét cho cùng, Giáo hoàng mặc đồ trắng đấy thôi, còn các giáo chủ khác áo đỏ. Tôi có quyền ăn vận như Nữ hoàng Saba mà đi dạo, bởi tôi mang tới niềm vui. Tôi sẽ cho không anh niềm vui nếu như anh yêu cầu. Giáo hội quyết định niềm vui, quyết định toàn bộ phần vui dành cho thế gian buồn tẻ này. Những gì anh đã làm để chống lại Giáo hội, chính là anh đã làm để chống lại niềm vui. Phải chăng tôi đây, tôi ngăn trở anh tính toán các phân điểm biến vị hay phân giải các nguyên tử? Nhưng anh tạo ra chính sự sống làm gì chứ, nếu như anh đã đánh mất ý nghĩa của sự sống? Thế thì anh chỉ còn cách tự bắn vỡ sọ trước những bình cổ cong của anh. Cứ việc tạo ra sự sống bao nhiêu tùy anh! Hình ảnh về cái chết do anh đưa ra đầu độc dần dần tư tưởng của những kẻ khốn khổ, hình ảnh ấy làm u tối, làm phai nhạt những niềm vui cuối cùng của họ. Mọi sự còn ổn chừng nào kỹ nghệ của anh, tư bản của anh còn cho phép anh biến thế gian thành một hội chợ, với những máy móc xoay vần theo tốc độ chóng mặt, trong tiếng kèn đồng om sòm và pháo hoa nổ ran. Nhưng hãy đợi, hãy đợi khoảnh khắc thinh lặng đầu tiên. Lúc ấy, họ sẽ nghe thấy, lời nói – không phải lời mà họ đã khước từ, lời đó bình tĩnh bảo: “Ta là Con đường, là Chân lý, là Sự sống” – mà là lời cất lên từ vực thẳm: “Ta là cánh cửa mãi mãi đóng kín, là nẻo đường chẳng có lối ra, là sự dối trá và trầm luân.”

Ông thốt ra những tiếng cuối cùng này bằng một giọng ảm đạm đến mức chắc tôi phải tái mặt – hay nói cho đúng là vàng mặt, hỡi ôi! đó là cách xanh tái đi của tôi từ nhiều tháng nay – bởi ông đã rót cho tôi một ly rượu đỗ tùng nữa và chúng tôi nói sang chuyện khác. Tôi thấy sự vui vẻ của ông không giả tạo cũng chẳng vờ vĩnh, vì tôi cho rằng nó chính là bản chất của ông, tâm hồn ông vốn vui tươi. Lúc ra về, tôi cúi chào, ông dùng ngón tay cái phác một chữ thập nhỏ trên trán tôi, rồi luồn tờ một trăm quan vào túi tôi.

– Ta cuộc rằng anh chẳng có đồng nào, thời buổi ban đầu thường khó khăn, anh sẽ trả lại ta khi anh có thể. Thôi tếch đi, và đừng bao giờ nói gì về chúng ta với bọn ngu ngốc nhé.

“Mang rơm rạ mới cho bò, chải lông cho lừa”, sáng nay trong khi đang gọt khoai để nấu xúp, tôi nhớ lại những lời này. Viên phó xã trưởng đến ngay sau lưng tôi và tôi đã đứng phắt dậy, chẳng kịp rũ vỏ khoai đi; tôi cảm thấy mình lố bịch. Ông ta lại mang đến cho tôi một tin vui: xã đã chấp thuận đào giếng riêng cho tôi, như thế mỗi tuần tôi sẽ tiết kiệm được hai mươi xu, tiền cho chú bé lễ sinh vẫn ra giếng lấy nước về. Nhưng tôi muốn nói với ông ta đôi lời về quán rượu của ông, vì giờ đây ông ta định thứ năm và chủ nhật nào cũng tổ chức khiêu vũ – ông gọi buổi ngày thứ năm là “cuộc khiêu vũ của các gia đình” và thu hút đến đó cả những cô gái nhỏ làm ở xưởng mà đám con trai thường chơi nghịch cho uống rượu.

Tôi đã không dám. Ông ta có một kiểu nhìn tôi với một nụ cười tóm lại là thiện chí, nó khuyến khích tôi nói, như thể thế nào thì thế, điều tôi nói ra nhất định chẳng quan trọng gì hết. Vả chăng đến gặp ông ta tại nhà thì phải lẽ hơn. Tôi có cớ đi thăm hỏi, bởi vợ ông ta ốm nặng, nhiều tuần nay không ra khỏi phòng. Bà ta không bị tiếng là kẻ xấu, thậm chí mọi người còn bảo trước kia bà đi lễ khá đều.

… “Mang rơm rạ mới cho bò, chải lông cho lừa”, được. Nhưng những công việc đơn giản không phải là việc dễ nhất, ngược lại. Súc vật chỉ có ít nhu cầu bao giờ cũng giống nhau, trong khi các con người! Tôi biết rằng người ta hay nói đến sự đơn giản của dân quê. Tôi là con nhà nông dân, tôi cho rằng họ phức tạp kinh khủng thì đúng hơn. Ở Béthune, lần đầu tôi giữ chức trợ tế, đám thợ trẻ trong phạm vi chúng tôi cai quản một khi sự lạnh nhạt ngượng ngùng tiêu tan, làm tôi rối trí vì những điều họ tâm sự, họ không ngừng tìm cách tự xác định con người mình, ta cảm thấy họ tràn đầy thiện cảm với bản thân họ. Một nông dân hiếm khi tự yêu mình, và nếu họ tỏ ra thờ ơ một cách hết sức tàn nhẫn với ai yêu họ thì không phải là họ nghi ngờ cảm tình của người ấy đối với họ: họ coi khinh nó thì đúng hơn. Chắc hẳn họ ít tìm cách sửa mình. Nhưng người ta cũng không thấy họ có ảo tưởng về các khuyết điểm hay các tật xấu mà họ nhẫn nại chịu đựng suốt đời, bởi họ đã đánh giá trước là chúng không thể cải tạo được, và họ chỉ lo sao bắt những con vật vô dụng và tốn kém ấy phải nể sợ, lo sao nuôi được chúng với giá rẻ nhất. Và có khi, trong sự thinh lặng của những cuộc đời nông dân luôn kín đáo này, sự thèm muốn của lũ quái vật ngày càng tăng, con người đã già đi chỉ chịu đựng được mình một cách thật vất vả, và bất kỳ mối thiện cảm nào cũng khiến anh ta tức giận, bởi anh ta nghi nó có một kiểu đồng lõa với kẻ thù bên trong đang hủy hoại dần dần sức lực, công việc, của cải của anh ta. Nói gì đây với những kẻ khốn khổ ấy? Bởi thế ta mới gặp trên giường hấp hối một số người già trác táng mà thói biển lận chỉ là một cách trả thù khốc liệt, một sự trừng phạt tự nguyện đã chịu hàng bao năm một cách hà khắc không nao núng. Và cho đến lúc sắp lâm chung, một lời buột ra từ nỗi lo âu hãy còn chứng tỏ sự thù ghét bản thân có lẽ chẳng thể được tha thứ.

Tôi cho rằng mọi người hiểu khá sai việc tôi quyết định, cách đây đã mười lăm ngày, là không cần một bà giúp việc. Điều khiến câu chuyện rắc rối lên nhiều, là chồng bà này, ông Pégriot, vừa vào làm tại lâu đài, giữ chân giám thủ những đất đai cấm săn bắn. Ngày hôm qua, ông ta đã tuyên thệ, ở Saint-Vaast. Vậy mà tôi cứ tưởng mình khôn khéo khi mua của ông ta một thùng nhỏ rượu vang! Thế là tôi đã tiêu mất hai trăm quan của bà dì Philomène, mà chẳng được lợi gì, bởi từ nay ông Pégriot chẳng còn làm cho hãng rượu Bordeaux, dù sao ông vẫn chuyển đến hãng giấy đặt hàng của tôi. Tôi nghĩ rằng người kế nhiệm ông ta sẽ hưởng hết lợi lộc từ khoản ân huệ con con của tôi. Sao mà ngốc thế!

Phải, sao mà ngốc thế! Tôi từng hi vọng cuốn nhật ký này sẽ giúp tôi cố định hóa tư duy của tôi, nó luôn lẩn trốn trong những khoảnh khắc hiếm hoi mà tôi có thể suy nghĩ đôi chút. Trong ý tưởng tôi, nhật ký phải là một cuộc trò chuyện giữa Chúa và tôi, một sự tiếp nối của lời cầu nguyện, một cách tránh né những khó khăn của bài diễn giảng mà tôi còn quá thường cảm thấy không vượt nổi, có lẽ vì những cơn đau thắt dạ dày nơi tôi. Vậy mà giờ đây nhật ký lại cho tôi thấy ra vị trí hết sức to lớn, quá chừng quá độ, của hàng ngàn mối lo lặt vặt thường ngày trong cuộc sống tội nghiệp của tôi, mà đôi khi tôi cứ ngỡ mình đã được giải thoát. Tôi rất hiểu là Chúa chia sẻ những nỗi khổ của chúng ta, dù chúng nhỏ nhoi vớ vẩn, và Người không xem khinh điều gì hết. Nhưng cố định hóa trên giấy làm gì những điều mà ngược lại lẽ ra tôi phải cố quên dần đi? Tệ hơn nữa tôi thấy trong việc tâm sự này một niềm êm dịu lớn đến mức đủ khiến tôi cảnh giác. Khi nguệch ngoạc dưới ánh đèn những trang sẽ không bao giờ có ai đọc, tôi cảm thấy một sự hiện diện vô hình chắc chắn không phải của Chúa – đúng hơn có lẽ của một người bạn giống hệt tôi, tuy khác biệt tôi, có một bản chất khác… Tối qua, sự hiện diện ấy đột nhiên thành rõ rệt quá chừng đến mức tôi bất chợt thấy mình nghiêng đầu về phía một người nghe tưởng tượng nào đó không rõ, và bỗng muốn khóc lên, khiến tôi phát xấu hổ.

Vả lại tốt hơn nên thể nghiệm đến cùng – tôi muốn nói là ít ra cũng vài tuần lễ. Thậm chí tôi sẽ cố gắng viết mà không chọn lọc những gì nghĩ trong óc (có lúc tôi còn do dự khi lựa chọn một hình dung từ, còn định tự sửa lại), rồi sẽ nhét những giấy tờ vô dụng của mình vào đáy ngăn kéo, sau đó ít lâu mới đọc lại khi đầu óc thảnh thơi.