Chương 2
Sáng nay, sau buổi lễ, tôi đã có một cuộc trò chuyện dài cùng cô Louise. Cho đến nay tôi chỉ gặp cô rất ít tại các buổi lễ trong tuần, bởi địa vị của cô là giáo viên tại lâu đài buộc cả hai chúng tôi phải rất giữ gìn. Bá tước phu nhân quý cô lắm. Hình như cô định vào tu viện dòng Sainte-Claire, nhưng lại hy sinh mình để trông nom bà mẹ già tàn tật vừa mới qua đời năm ngoái. Hai cậu bé yêu kính cô. Đáng buồn là tiểu thư Chantal, cô con gái lớn, không hề tỏ ra chút thiện cảm nào thậm chí hình như thích thú làm cô tủi nhục, coi cô như tôi tớ. Có thể đó là những trò trẻ con, nhưng hắn những trò ấy phải thử thách một cách tàn ác lòng nhẫn nại nơi cô, bởi qua bá tước phu nhân tôi biết cô thuộc một gia đình rất tốt và được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú.
Tôi cho rằng tôi đã hiểu là lâu đài tán thành công việc tôi không cần người ở. Tuy nhiên họ thấy tôi nên thuê một lao công thì hơn, dù chỉ để theo nguyên tắc, mỗi tuần lễ đến làm một hoặc hai lần. Dĩ nhiên, đó là vấn đề nguyên tắc. Tôi ở một ngôi nhà linh mục đầy đủ tiện nghi, nhà đẹp nhất trong vùng, sau lâu đài, mà tôi lại tự giặt quần áo! Như vậy tôi sẽ có vẻ cố ý làm ra thế.
Có lẽ tôi cũng không có quyền khác biệt các đồng nghiệp chẳng khá giả hơn tôi, nhưng sử dụng giỏi những nguồn lợi ít ỏi của mình. Tôi thành thật tin rằng giàu hay nghèo đối với tôi chẳng can hệ gì, tôi chỉ muốn các bề trên quyết định hẳn điều ấy đi. Cái khung cảnh an lạc trưởng giả, nơi người ta áp đặt cho chúng tôi sống, rất ít thích hợp với nỗi bần cùng của chúng tôi… Sự nghèo khổ cực độ không phải khó nhọc mới giữ được đường hoàng. Tại sao lại duy trì những bề ngoài ấy? Tại sao lại khiến chúng tôi túng bấn?
Tôi nghĩ mình sẽ được an ủi đôi chút khi dạy giáo lý sơ đẳng, khi chuẩn bị cho lễ ban thánh thể theo ý nguyện của Đức Giáo hoàng Pie X. Hôm nay nữa, khi nghe tiếng chúng lao xao ngoài nghĩa trang, nghe những đôi giày nhỏ đóng đinh dưới đế lóc cóc trên thềm, dường như tim tôi xót xa vì thương mến. Sinite parvulos*… Tôi mơ ước nói với chúng bằng cái ngôn ngữ trẻ thơ mà tôi tìm lại được rất nhanh, tất cả những gì tôi phải giữ riêng cho mình, tất cả những gì tôi không thể diễn đạt trên tòa giảng nơi người ta đã dặn đi dặn lại tôi phải thận trọng. Ồ! tôi sẽ chẳng cường điệu, dĩ nhiên rồi! Nhưng rốt cuộc tôi rất tự hào được nói với chúng những điều khác với các vấn đề về phân số, về quyền công dân, hoặc về thứ vạn vật học khả ố, quả thực chỉ là những bài học về sự vật và không có gì khác nữa. Con người đi học sự vật! Và tôi còn được giải thoát khỏi nỗi sợ gần như bệnh hoạn, mà tôi cho rằng linh mục trẻ nào cũng cảm thấy, khi một số từ, một số hình ảnh nào đó đến cửa miệng mình, có sự mai mỉa, có tính lập lờ, chúng phá hủy nhiệt tình bồng bột của chúng tôi, khiến chúng tôi bất đắc dĩ phải giới hạn ở những bài thuyết giáo khắc khổ với từ ngữ hết sức cũ mòn nhưng hết sức chắc chắn thành thử chẳng làm ai chướng tai và do quá mơ hồ, buồn tẻ, ít ra cũng có công làm mất hứng những lời bình luận nhạo báng. Nghe chúng tôi nói, người ta thường hay tưởng là chúng tôi truyền giảng Chúa của các nhà duy linh, Thượng đế gì đó chẳng biết, dù sao cũng không giống với Đức Chúa mà chúng tôi đã tập quen biết như một người bạn diệu kỳ sống động, đau nỗi đau của chúng tôi, cảm niềm vui của chúng tôi, chia sẻ cách hấp hối của chúng tôi, sẽ đón nhận chúng tôi trong vòng tay của Người, trên ngực của Người.
Sinite parvulos uenire ad me tiếng La tinh có nghĩa: “Hãy để trẻ thơ đến bên ta.” (Lời Jésus Christ nói với các tông đồ khi họ định gạt ra xa Jésus những đứa trẻ mà mọi người đem đến bên ông.)
Tôi cảm thấy ngay sự kháng cự của đám con trai, và tôi đã ngừng lời. Xét cho cùng, không phải lỗi ở chúng, nếu những con vật giúp chúng sớm hiểu – không sao tránh được – giờ đây còn thêm những buổi chiếu phim hàng tuần nữa.
Khi miệng chúng nói lên được lần đầu tiên cái từ “tình yêu”, thì nó đã là một từ lố bịch, một từ nhơ nhớp mà chúng sẵn sàng vừa cười vừa ném đá truy đuổi, như chúng thường làm với cóc nhái. Nhưng các em gái khiến tôi có đôi chút hi vọng, nhất là Séraphita Dumonchel. Đó là cô học trò giỏi nhất của lớp giáo lý, vui tươi, sạch sẽ, mắt nhìn hơi táo bạo, tuy trong sáng. Dần dần tôi có thói quen biệt đãi em giữa đám bạn học không chuyên cần bằng, tôi hay hỏi em, tôi hơi có vẻ nói cho riêng em. Tuần vừa qua, khi đưa cho em phiếu điểm tốt hàng tuần – một tranh thánh đẹp – trong kho đồ thánh, tôi vô tình đặt hai bàn tay lên vai em và hỏi em: “Con có mong được nhận mình Chúa hay không? Con có cảm thấy thời gian dài không?” Em đã trả lời “Không, tại sao chứ? Điều ấy sẽ đến khi nào nó đến.” Tôi sững người, song không tức giận, bởi vẫn biết sự ranh mãnh của trẻ con. Tôi nói tiếp: “Nhưng con hiểu, phải không? Con nghe cha giảng rất chăm chú mà!” Thế là gương mặt bé nhỏ của em đanh lại và em nhìn tôi chằm chằm mà đáp: “Đó là vì cha có đôi mắt rất đẹp.”
Dĩ nhiên tôi vẫn bình thản, tôi và em cùng ra khỏi kho đồ thánh và tất cả những đứa bạn của em đang thì thà thì thào bỗng im bặt, rồi phá lên cười. Rõ ràng là chúng đã cùng nhau bày ra chuyện này.
Từ đó tôi cố không thay đổi thái độ, tôi không muốn mình có vẻ tham dự trò chơi của chúng. Nhưng cô bé tội nghiệp, chắc chắn được bạn bè khuyến khích, cứ theo đuổi tôi với những điệu bộ ngấm ngầm, chọc ghẹo, những vẻ của phụ nữ thực sự, và một kiểu vén váy lên để buộc lại chiếc dải dùng làm nịt tất. Chúa tôi, trẻ em là trẻ em, song sự thù nghịch của các cô bé này? Tôi đã làm gì chúng?
Các thày tu đau khổ cho các linh hồn. Chúng ta, chúng ta đau khổ vì các linh hồn. Ý nghĩ này đến trong tôi tối qua và đã thức suốt đêm bên tôi, như một thiên thần.
Kỷ niệm ngày tôi được bổ đến nhiệm sở Ambricourt! Đã ba tháng rồi! Sáng nay tôi đã cầu nguyện nhiều cho xứ đạo của mình – xứ đạo tội nghiệp của mình – xứ đạo đầu tiên và có thể là cuối cùng, bởi tôi mong được chết tại đó. Xứ đạo của mình! Một từ người ta không thể thốt lên mà không xúc động, nói thế nào đây! mà không có nhiệt tình yêu đương. Vậy mà nó mới chỉ gợi trong tôi một hình ảnh mơ hồ. Tôi biết rằng nó tồn tại thực sự, rằng tôi và nó là của nhau đời đời, bởi nó là một tế bào của Giáo hội bất diệt chứ không phải một sự hư cấu có tính chất hành chính. Nhưng tôi những muốn Chúa mở mắt mở tai cho tôi, cho phép tôi nhìn thấy gương mặt nó, nghe thấy tiếng nói của nó. Như vậy là đòi hỏi nhiều quá chăng? Gương mặt xứ đạo của tôi! Ánh mắt của nó! Chắc phải là một ánh mắt dịu hiền, buồn, nhẫn nại, và tôi tưởng tượng nó hơi giống ánh mắt tôi khi tôi thôi vật lộn, khi tôi để mình bị cuốn đi bởi dòng sông lớn vô hình nó mang tất cả chúng ta, người sống người chết, lẫn lộn, về với sâu xa Vĩnh Hằng. Và ánh mắt ấy sẽ là ánh mắt của tinh thần Cơ đốc giáo, của mọi xứ đạo, hay thậm chí… có thể là của loài người tội nghiệp chăng? Ánh mắt mà Chúa đã nhìn thấy từ trên cao Thánh giá. Hãy tha tội cho chúng bởi chúng không biết điều chúng làm…
(Tôi đã có sáng kiến sử dụng đoạn trên đây, có sửa chữa đôi chút, trong lời rao giảng ngày chủ nhật. Ánh mắt của xứ đạo khiến mọi người cười mỉm và tôi đã ngừng một giây ngay giữa câu nói, với cảm giác, than ôi rất rõ ràng! là mình đang diễn kịch. Vậy mà có Chúa biết rằng tôi rất chân thành! Nhưng trong các hình ảnh đã làm tim ta quá xúc động bao giờ cũng có một cái gì đó mờ đục. Tôi tin chắc là tu viện trưởng Torcy phải chê trách tôi. Xong buổi lễ, ngài bá tước đã bảo tôi, bằng giọng nói kỳ cục hơi có âm mũi: “Cha đã nói hết sức bay bổng!” Tôi những muốn chui xuống đất.)
Cô Louise chuyển cho tôi lời mời đến ăn trưa tại lâu đài, vào thứ ba tuần tới. Cô Chantal có mặt khiến tôi hơi phiền, tuy thế tôi đã toan từ chối, song cô Louise kín đáo ra hiệu cho tôi nhận lời.
Người giúp việc sẽ trở lại làm vào thứ ba. Bá tước phu nhân có nhã ý trả cho bà ta mỗi tuần một ngày công. Tôi quá xấu hổ vì tình trạng áo quần của mình thành thử sáng nay đã ra tận Saint-Vaast để sắm ba chiếc sơ mi, rồi quần đùi, khăn tay, tóm lại, một trăm quan của cha xứ Torcy chỉ tạm đủ cho khoản chi lớn này. Hơn nữa, tôi phải cung cấp bữa trưa mà một người lao động cần được ăn uống tử tế. May thay thùng rượu vang của tôi sẽ được việc. Hôm qua tôi đã đóng vào chai. Tôi cảm thấy rượu hơi đục, tuy thế rất thơm.
Ngày tháng trôi qua, trôi qua… Sao mà chúng trống rỗng! Tôi hãy còn hoàn thành được công việc thường ngày, nhưng cứ lần lữa mãi chưa thực hiện chương trình nhỏ tự vạch ra cho mình. Thiếu phương pháp, hẳn thế. Và tôi mất bao nhiêu thì giờ đi lại! Chi nhánh gần nhất cũng xa ba cây số, còn chi nhánh kia năm cây. Xe đạp chỉ giúp được tôi chút ít, bởi tôi không thể đạp lên dốc, nhất là khi đói, mà không bị đau dạ dày kinh khủng. Cái xứ đạo bé tí trên bản đồ!… Cứ nghĩ rằng có lớp học hai mươi hay ba mươi em, tuổi và điều kiện tương tự, cùng theo một khuôn phép, cùng được rèn tập các môn giống nhau, mà chỉ trong học kỳ hai mới được thầy biết đến – mà hãy còn nữa!… Tôi cảm thấy như đời tôi, toàn bộ sức lực của đời tôi, sắp tan đi trong cát bụi.
Giờ đây ngày nào cô Louise cũng đi lễ. Nhưng cô xuất hiện rồi biến mất nhanh đến mức có khi tôi không nhận ra cô có mặt. Nếu không có cô, chắc nhà thờ vắng bóng người.
Hôm qua gặp Séraphita đi cùng ông Dumonchel. Mặt cô bé như biến hóa từng ngày: trước kia rất hay thay đổi, rất linh hoạt, giờ đây có một kiểu cố định, cứng cỏi vượt quá tuổi em rất nhiều. Trong lúc tôi nói với em, em quan sát tôi với vẻ chăm chú phiền toái đến mức tôi không ngăn nổi mình đỏ mặt. Có lẽ tôi phải báo cho bố mẹ em… Nhưng về cái gì chứ?
Trên mảnh giấy chắc hẳn cố ý để lại trong một cuốn sách học giáo lý, mà tôi thấy được sáng nay, một bàn tay vụng về đã vẽ một hình người đàn bà bé xíu với lời ghi: “Người cưng của Cha xứ”. Bởi mỗi lần tôi lại phân phát sách một cách ngẫu nhiên, việc tìm tác giả của trò trêu chọc này là vô ích.
Tôi đã tự nhủ mãi rằng những loại phiền muộn như thế là chuyện thường tình, ở những trường học nền nếp nhất, điều ấy cũng chỉ làm tôi nguôi được một nửa. Một thầy giáo luôn có thể giãi bày với cấp trên, xin gặp. Trong khi ở đây thì…
“Đau khổ vì các linh hồn”, suốt đêm tôi nhắc lại với mình lời an ủi ấy. Nhưng thiên thần đã không trở lại.
Hôm qua bà Pégriot đến. Bà ta có vẻ rất ít hài lòng về giá cả do bá tước phu nhân quy định thành thử tôi thấy cần phải bỏ tiền túi ra để tăng thêm năm franc. Hình như tôi đóng rượu vào chai quá sớm, lại thiếu sự cẩn thận cần thiết, thành thử đã làm hỏng rượu. Tôi thấy lại chai rượu trong bếp gần như còn nguyên.
Rõ ràng người đàn bà này có tính nết chẳng dễ thương và cung cách khó chịu. Nhưng phải công bằng: tôi cho một cách vụng về, với thái độ lúng túng khiến mọi người chưng hửng. Bởi vậy hiếm khi tôi cảm thấy mình làm vui lòng người, hẳn là vì tôi quá mong muốn làm được thế. Người ta ngỡ tôi cực chẳng đã mới cho.
Thứ ba họp ở nhà cha xứ Hébuterne, nghe thuyết trình hàng tháng. Đề tài do tu viện trưởng Thomas, cử nhân lịch sử, luận giải: “Cuộc Cải cách Tôn giáo, nguồn gốc, nguyên nhân”. Quả thật, tình hình Giáo hội thế kỷ XVI khiến người ta rùng mình. Trong khi thuyết trình viên tiếp tục bài trình bày tất nhiên hơi đơn điệu, tôi quan sát mặt các người nghe và chẳng thấy gì ngoài một vẻ tò mò nhã nhặn, hệt như thể chúng tôi đang tụ họp để nghe đọc một chương nào đó trong lịch sử các hoàng đế cổ Ai Cập. Ngày trước, sự thờ ơ lộ ra bên ngoài này chắc đã khiến tôi nổi xung. Giờ đây, tôi cho đó là dấu hiệu của một tín ngưỡng lớn, có lẽ cũng của một niềm kiêu hãnh lớn vô ý thức. Không một ai trong những người ấy có thể nghĩ rằng Giáo hội lâm nguy, bất kể vì lý do gì. Và tất nhiên lòng tin nơi tôi không kém, nhưng chắc hẳn thuộc loại khác. Sự an tâm của họ khiến tôi kinh hoàng.
(Tôi hơi ân hận đã viết cái từ kiêu hãnh, vậy mà tôi chẳng thể xóa nó đi, bởi không tìm ra từ nào thích hợp hơn cho một tình cảm thật con người, thật cụ thể đến thế. Dù thế nào, Giáo hội cũng không phải là một lý tưởng để thực hiện, Giáo hội tồn tại và họ ở trong đó).
Khi bài thuyết trình đã xong, tôi mạo muội đề cập một cách dụt dè chương trình tự vạch cho mình. Mà tôi còn bỏ đi một nửa số điều mục. Mọi người đã chẳng khó nhọc mấy để chứng minh cho tôi rằng việc thực thi, dù chỉ một phần chương trình đó, sẽ đòi hỏi những ngày dài bốn mươi tám giờ và một ảnh hưởng cá nhân mà còn lâu tôi mới có, chẳng bao giờ có cũng nên. May thay, mọi người thôi chú ý đến tôi và cha xứ Lumbres đã trình bày xuất sắc vấn đề quỹ nông thôn và hợp tác xã nông nghiệp, cha là chuyên gia về những vấn đề này.
Tôi trở về dưới mưa, khá buồn bã. Chút rượu vang tôi uống đã gây những cơn đau dạ dày kinh khủng. Chắc chắn tôi gầy đi rất nhiều từ mùa thu và khí sắc hẳn là ngày càng xấu bởi từ nay về sau người ta miễn cho tôi mọi nhận xét về sức khỏe của tôi. Nếu tôi không đủ sức lực! Dù cố gắng, tôi vẫn khó tin rằng Chúa sẽ dùng tôi thực sự – triệt để – sẽ sử dụng tôi như những người khác. Mỗi ngày tôi lại thêm ngạc nhiên vì sự dốt nát của mình về những tiểu tiết sơ đẳng nhất của cuộc sống thực tiễn mà tất cả mọi người hình như chẳng học cũng biết, nhờ một thứ trực giác. Hiển nhiên, tôi không ngu ngốc hơn người này hay người kia, và với điều kiện là chỉ tự hạn ở những công thức nhớ được một cách dễ dàng, tôi có thể khiến mọi người lầm tưởng rằng tôi đã hiểu. Nhưng những từ ngữ có ý nghĩa đích xác với mỗi người thì với tôi chúng dường như chỉ hơi hơi khác biệt nhau, tới mức có khi tôi sử dụng chúng một cách ngẫu nhiên khinh suất, như người chơi bài kém cỏi liều đánh một quân. Trong cuộc thảo luận về các quỹ nông thôn, tôi có cảm tưởng mình là đứa trẻ lạc vào cuộc chuyện trò của người lớn.
Chắc hẳn các đồng nghiệp cũng chẳng thông thái hơn tôi là mấy, bất kể những truyền đơn khuyến giáo được phân phát tới tấp đến chúng tôi. Nhưng tôi kinh ngạc thấy họ thoải mái nhanh đến thế khi người ta đề cập những vấn đề trên. Hầu hết họ đều nghèo, và dũng cảm cam chịu cảnh nghèo, song hình như chuyện tiền bạc chẳng vì thế mà không có một kiểu mê hoặc đối với họ. Mặt họ lập tức mang vẻ trang trọng, vững vàng, khiến tôi nản chí, buộc tôi lặng im, hầu như kính nể.
Tôi rất sợ mình chẳng bao giờ thực tế, kinh nghiệm sẽ không đào luyện tôi. Với người quan sát phiến diện, tôi chẳng khác biệt mấy các đồng nghiệp, tôi cũng là dân quê như họ. Nhưng tôi xuất thân từ một dòng dõi rất nghèo khổ, những người thợ phụ, thợ làm khoán, nữ tá điền, chúng tôi thiếu ý thức sở hữu, chắc chắn chúng tôi đã đánh mất nó qua các thế kỷ. Về điểm này bố tôi giống ông tôi, bản thân ông tôi lại giống cụ tôi, chết đói vào mùa đông khủng khiếp năm 1854. Một đồng hai mươi xu làm nóng túi các cụ và các cụ sẽ chạy đi tìm bạn để chè chén. Các bạn đồng học của tôi ở tiểu chủng viện không nhầm: cho dù mẹ tôi mặc chiếc váy tốt nhất của bà, đội chiếc mũ đẹp nhất, bà vẫn có cái vẻ hèn mọn, lén lút, nụ cười tội nghiệp của những kẻ cùng khổ nuôi nấng con cho người khác. Nếu như tôi chỉ thiếu ý thức sở hữu! Nhưng tôi sợ mình không biết chỉ huy chẳng khác nào không biết sở hữu. Điều đó, thì nghiêm trọng hơn.
Không hề gì! Có khi những học trò xoàng, bất tài, lại đứng được vào hàng đầu. Ở đó họ chẳng bao giờ xuất sắc, dĩ nhiên. Tôi không có tham vọng cải tạo bản chất mình, tôi sẽ khắc phục những điều mình hiềm kỵ thế thôi. Nếu tôi có nghĩa vụ trước hết với các linh hồn, thì tôi không thể không biết gì về các mối quan tâm, xét cho cùng là chính đáng, chúng giữ vị trí to lớn trong cuộc đời những người thuộc xứ đạo của tôi. Thầy giáo dạy chúng tôi – tuy là dân Paris – vẫn giảng được về luân canh và phân bón. Tôi sẽ học thật chăm tất cả những vấn đề trên.
Tôi cũng cần lập được một hội thể thao, theo gương đa số đồng nghiệp. Thanh niên của chúng ta say mê bóng đá, quyền Anh hay đua xe máy vòng quanh nước Pháp. Chẳng lẽ tôi không cho họ niềm vui bàn luận những chuyện ấy cùng tôi, lấy cớ là những kiểu giải trí này – cũng chính đáng, dĩ nhiên! – không hợp sở thích của tôi? Tình trạng sức khỏe đã không cho phép tôi thực hiện nghĩa vụ quân sự, và muốn tham gia trò chơi cùng họ sẽ là lố bịch. Nhưng tôi có thể nắm được tình hình, dù chỉ nhờ đọc trang thể thao của tờ Tiếng vọng Paris, mà bá tước cho tôi mượn khá đều.
Tối qua, viết xong những dòng này, tôi đã quỳ xuống chân giường và đã cầu xin Chúa ban phước cho điều tôi vừa quyết định. Bỗng nhiên tôi cảm thấy một sự sụp đổ các mơ ước, các hy vọng, tham vọng của tuổi thơ nơi tôi, và tôi đi nằm, sốt run lập cập, đến rạng đông mới ngủ được.
Sáng nay, suốt buổi lễ, cô Louise đã úp mặt vào hai bàn tay. Khi đọc đoạn Kinh Phúc âm cuối cùng, tôi nhận ra rất rõ cô đã khóc. Thật gay go khi cô độc, còn gay go hơn nữa khi cùng chung nỗi cô độc với những kẻ thờ ơ hay bội bạc.
Từ ngày tôi có sáng kiến đáng buồn là giới thiệu với viên quản lý của bá tước một bạn học cũ ở tiểu chủng viện đi chào hàng cho một hãng phân hóa học lớn, ông giáo không chào tôi nữa. Hình như chính ông ta là đại diện cho một hãng lớn khác ở Béthune.
Thứ bảy tới tôi sẽ đến ăn trưa tại lâu đài. Bởi công dụng chủ yếu, hoặc có lẽ duy nhất của nhật ký này là để giữ thói quen hoàn toàn trung thực với bản thân, tôi phải thú nhận rằng tôi không phật ý về chuyện đó, hài lòng thì đúng hơn… Tôi không xấu hổ vì cảm giác này. Như người ta thường nói, giới chủ lâu đài không có tiếng tốt ở đại chủng viện, và chắc chắn là một linh mục trẻ phải giữ sự độc lập đối với những người trong xã hội thượng lưu. Nhưng về điểm này cũng như bao điểm khác, tôi vẫn là con của những người rất nghèo chưa bao giờ biết đến thứ ghen tức, thù oán, của người điền chủ nông thôn, vật lộn với mảnh đất xấu nó làm đời anh ta hao mòn, đối với kẻ ăn không ngồi rồi chỉ khai thác địa tô cũng từ mảnh đất ấy. Từ lâu lắm rồi chúng tôi đây không còn dính líu với các lãnh chúa! Từ nhiều thế kỷ chúng tôi thuộc về chính người điền chủ nông thôn kia và chẳng có người chủ nào khó làm hài lòng hơn thế, khắc nghiệt hơn thế.
Nhận thư của linh mục Dufréty, một bức thư rất lạ lùng. Linh mục Dufréty cùng học với tôi ở tiểu chủng viện, sau đó học xong ở nơi nào tôi không rõ và, theo tin tức gần đây nhất, anh là đồng linh mục của một xứ đạo nhỏ thuộc giáo phận Amiens, vị phụ trách nơi này bị ốm nên đã xin được có người cộng tác hỗ trợ. Tôi vẫn giữ về anh một kỷ niệm rất sống động, gần như thương mến. Thời ấy người ta thường đưa anh ra như một mẫu mực cho chúng tôi về lòng kính tín, mặc dù riêng tôi thấy anh quá căng thẳng, quá nhạy cảm. Trong năm học thứ ba, tại nhà nguyện, chỗ của anh gần chỗ của tôi, và tôi thường nghe thấy anh thổn thức, mặt úp vào hai bàn tay bé nhỏ lúc nào cũng dây mực và rất xanh xao.
Thư anh đề gửi từ Lille (tôi nhớ mang máng quả là một ông chú của anh, cựu hiến binh, bán hàng thực phẩm tại đó). Tôi ngạc nhiên chẳng thấy anh đả động gì đến chức phận chắc là anh đã rời bỏ, vì bệnh tật, hẳn vậy. Người ta bảo anh có nguy cơ bị ho lao. Bố và mẹ anh đã chết vì bệnh ấy.
Từ dạo tôi không có người giúp việc nữa, bác bưu tá có thói quen luồn thư từ bên dưới cửa ra vào. Tình cờ tôi thấy chiếc phong bì dán kín, vào lúc lên giường ngủ. Với tôi đó là một khoảnh khắc rất khó chịu, tôi cố trì hoãn nó hết mức có thể. Những cơn đau dạ dày nói chung là kham được, nhưng lâu dần, không sao tưởng tượng nổi cái gì đơn điệu hơn. Dần dà, trí tưởng tượng hoạt động, đầu óc vướng víu, và phải can đảm lắm mới không ngồi dậy. Vả lại tôi ít khi nhượng bộ sự cám dỗ, bởi trời rét.
Vậy là tôi đã bóc phong bì với linh cảm về một tin chẳng lành – thậm chí tồi tệ hơn – về một chuỗi những tin chẳng lành. Hiển nhiên, đó là tâm trạng không hay. Chẳng sao. Tôi không thích giọng điệu trong thư. Tôi thấy giọng điệu ấy vui vẻ một cách gượng gạo, hầu như thất lễ, trong trường hợp có lẽ bạn tôi không còn khả năng đảm trách công việc, ít ra là tạm thời. Anh bảo “Chỉ riêng bạn có thể hiểu được mình.” Tại sao? Tôi nhớ lại rằng anh xuất sắc hơn tôi nhiều và có coi thường tôi chút đỉnh. Vì thế mà tôi càng yêu mến anh hơn, tất nhiên.
Anh yêu cầu tôi khẩn cấp đến thăm anh, vậy là tôi sắp hiểu rõ mọi chuyện.
Cuộc viếng thăm lâu đài sắp tới khiến tôi bận tâm nhiều. Thành công của những dự định lớn mà tôi tha thiết có thể tùy thuộc vào sự tiếp xúc đầu tiên, tài sản và ảnh hưởng của bá tước chắc chắn giúp được tôi thực hiện dự định. Như xưa nay vẫn thế, sự thiếu kinh nghiệm, sự ngu dại của tôi và cả một thứ rủi ro lố bịch tha hồ làm rắc rối những chuyện đơn giản nhất. Vậy là tấm áo lót bông đẹp đẽ tôi vẫn dành cho các trường hợp đặc biệt giờ đây quá rộng. Hơn nữa, bà Pégriot, vả chăng do tôi bảo, đã tẩy các vết bẩn, nhưng quá vụng về thành thử dầu xăng loang thành những quầng xấu xí. Cứ như thể những đốm lấp loáng ngũ sắc trên mặt các món canh quá béo. Hơi không hay cho tôi khi đến lâu đài với chiếc áo vẫn thường mặc, đã mạng vá nhiều lần, nhất là ở khuỷu tay. Tôi sợ có vẻ phô trương cái nghèo của mình. Người ta có thể tưởng đủ mọi điều!
Tôi cũng muốn mình ăn được – ít ra vừa đủ để đừng khiến mọi người chú ý. Nhưng không sao lường trước nổi, dạ dày tôi nó trái tính trái nết lắm! Chỉ hơi có dấu hiệu cấp báo, là vẫn cơn đau ấy xuất hiện ở mé phải, và tôi có cảm giác như một thứ máy hãm, một sự co giật. Miệng tôi lập tức khô đi, tôi không nuốt nổi cái gì nữa.
Đó là những sự khó ở, thế thôi. Tôi chịu đựng chúng cũng khá, tôi không yểu điệu, tôi giống mẹ tôi. “Mẹ cháu là người gan góc,” cậu Ernest tôi hay nhắc lại như vậy. Với người nghèo khổ, tôi cho rằng điều đó có nghĩa là một phụ nữ nội trợ không mệt mỏi, không bao giờ ốm, và chết đi chẳng tốn kém nhiều.
Chắc chắn bá tước giống một nông dân như tôi hơn là giống bất kỳ kỹ nghệ gia giàu có nào mà trước đây tôi có dịp gặp gỡ, trong thời gian làm trợ tế. Chỉ nói đôi lời, ông đã khiến tôi thoải mái. Họ có quyền lực gì thế nhỉ, những người thuộc giới thượng lưu dường như chẳng mấy phân biệt với người khác, ấy thế mà chẳng làm điều gì giống ai hết! Trong lúc một biểu hiện vị nể nhỏ nhặt cũng khiến tôi bối rối, người ta đã có thể xử sự tới mức kính trọng mà không lúc nào để tôi quên rằng sự tôn trọng ấy chỉ dành cho chức phận do tôi đảm đương. Bá tước phu nhân thật hoàn hảo. Bà mặc áo dài trong nhà, rất giản dị, và trên mái tóc hoa râm choàng một loại khăn gợi nhớ tấm khăn mẹ tôi thường đội ngày chủ nhật. Tôi không ngăn nổi mình nói với bà điều ấy, nhưng tôi giải thích lúng ta lúng túng thành thử tôi cứ tự hỏi liệu bà có hiểu hay không.
Chúng tôi đã cùng cười rất nhiều về áo của tôi. Tôi nghĩ rằng ở bất kỳ nơi khác, người ta cũng vờ như không để ý đến nó, và tôi sẽ rất khổ tâm. Những người quý phái này nói về tiền bạc và tất cả những gì dính dáng tới tiền bạc một cách thoải mái biết mấy, tế nhị biết mấy, thanh nhã biết mấy! Thậm chí hình như một cái nghèo chắc chắn, đích thực, khiến anh lập tức được họ tin cậy, tạo ra giữa họ và anh một thứ thân mật đồng lõa. Tôi cảm thấy rõ điều này khi ông bà Vergenne (ngày trước là chủ xưởng bột, rất giàu có, vừa mua lâu đài Rouvroy năm ngoái) đến chơi vào lúc dùng cà phê. Sau khi họ ra về, bá tước đã có một ánh mắt hơi mỉa mai mang nghĩa rất rõ: “Thượng lộ bình an nhé, rốt cuộc, ta lại được ngồi riêng với nhau!” Ấy thế mà, người ta đồn rất nhiều về cuộc hôn nhân của tiểu thư Chantal với cậu con nhà Vergenne… Chẳng sao! Tôi cho là trong tình cảm mà tôi phân tích rất dở, có một cái gì đó không chỉ là sự nhã nhặn, dù chân thành đi nữa. Thái độ chẳng lý giải được hết mọi điều.
Dĩ nhiên, tôi những mong bá tước tỏ ra nhiệt tình hơn nữa với những kế hoạch của tôi về hoạt động của thanh niên, hội thể thao. Nếu không đích thân hợp tác, thì sao lại từ chối tôi khu đất nhỏ Latrillère, và cái nhà kho cũ chẳng dùng vào việc gì, rất dễ làm thành phòng chơi, phòng nghe thuyết trình, chiếu phim, gì gì nữa? Tôi cảm thấy rõ mình chẳng biết xin cũng như chẳng biết cho, mọi người muốn tự dành thời gian suy nghĩ, còn tôi luôn chờ đợi một tiếng reo của con tim, một nhiệt tình bồng bột đáp ứng sự bồng bột nơi tôi.
Tôi đã rời lâu đài rất muộn, quá muộn. Tôi cũng chẳng biết cách cáo từ, cứ mỗi vòng kim đồng hồ tôi lại tỏ ý định rút lui, khiến mọi người nhã nhặn phản đối, và tôi không dám bỏ qua lời phản đối ấy. Có thể kéo dài như thế hàng mấy giờ! Cuối cùng, tôi ra về, chẳng còn nhớ được lấy một lời về những gì mình đã nói, nhưng cảm thấy một thứ tin tưởng, hân hoan, cảm giác về một tin tốt lành, một tin rất hay mà tôi muốn đem ngay đến cho một người bạn. Trên đường về nhà, thiếu chút nữa, là tôi chạy.
Hầu như ngày nào tôi cũng tìm cách để về nhà theo đường Desvres. Trên đỉnh dốc, dù trời mưa hay gió, tôi vẫn ngồi lên một thân cây bạch dương không hiểu sao bị bỏ quên ở đấy từ bao mùa đông, bắt đầu mục rữa. Tầm gửi khiến thân cây như bọc trong chiếc bao mà tôi thấy khi thì xấu gớm guốc khi thì xinh đẹp, tùy theo tâm trạng nơi tôi hoặc tùy sắc thái thời tiết. Chính ở chỗ đó tôi đã nảy ra ý nghĩ viết nhật ký và tôi thấy hình như mình sẽ không có ý nghĩ này ở bất kỳ nơi nào khác. Ở cái miền toàn những rừng và những đồng cỏ có hàng rào chia cắt, có trồng các cây táo, tôi không tìm ra một đài quan sát nào khác, nơi mà thôn làng hiện ra trọn vẹn trước tôi như thu gọn trong lòng bàn tay. Tôi nhìn nó, và không bao giờ cảm thấy nó cũng đang nhìn mình. Song tôi cũng chẳng cho là nó không biết đến mình. Cứ như thể nó quay lưng lại tôi và liếc xéo quan sát tôi, mắt lim dim, theo cách của loài mèo.
Nó muốn gì tôi? Thậm chí nó có muốn điều gì ở tôi không? Từ vị trí này, bất kỳ người nào khác không phải tôi, một người giàu có chẳng hạn, đều có thể ước lượng giá trị của những ngôi nhà vách đất kia, tính toán diện tích chính xác của những thửa ruộng, những đồng cỏ kia, mơ rằng mình đã bỏ ra số tiền cần thiết, rằng làng kia thuộc về mình. Tôi thì không.
Dù tôi có làm gì chăng nữa, có cho nó đến giọt máu cuối cùng của mình (và quả thực đôi khi tôi tưởng tượng rằng nó đã đóng đinh tôi vào một cây thập ác ở trên này, rằng ít ra nó cũng đang nhìn tôi chết đi), tôi vẫn chẳng chiếm hữu được nó. Dù lúc này tôi có nhìn thấy nó, trắng đến thế, tươi mới đến thế (nhân dịp lễ Các Thánh, dân làng quét lại tường bằng vôi pha màu xanh lơ), tôi không thể quên rằng nó đã ở đấy từ nhiều thế kỷ, sự cổ xưa của nó làm tôi sợ. Rất lâu trước khi ngôi nhà thờ bé nhỏ được xây dựng, vào thế kỷ XV, tại nhà thờ ấy tôi cũng chỉ là một kẻ đi qua, thì ở nơi đây nó đã nhẫn nại chịu đựng nóng, lạnh, mưa, gió, nắng, khi thịnh vượng, khi khốn cùng, bám lấy mảnh đất mà nó hút lấy các chất nhựa, mà nó trả lại các người chết của nó. Kinh nghiệm sống của nó hẳn phải thầm kín, sâu xa biết mấy! Nó sẽ thắng được tôi như những người khác, chắc chắn là nhanh hơn những người khác.
Có một số ý nghĩ mà tôi chẳng dám giãi bày cùng ai, tuy rằng tôi thấy chúng không điên rồ, còn lâu mới điên. Thí dụ, tôi sẽ ra sao, nếu như tôi cam phận với vai trò mà nhiều người Thiên chúa giáo mong muốn giữ tôi trong đó, họ đặc biệt bận tâm bảo tồn xã hội, nghĩa là chung quy bảo tồn chính họ. Ồ! tôi không lên án các vị đó là giả dối, tôi cho rằng họ chân thành. Biết bao người tự nhận là thiết tha với trật tự, song họ chỉ bảo vệ những thói quen, thậm chí đôi khi chỉ bảo vệ một cách nói năng mà các từ ngữ đã bị sự thông dụng mài nhẵn, cắt xén kỹ đến mức chúng biện bạch cho hết thảy mọi điều và chẳng bao giờ đặt lại vấn đề về cái gì hết? Một trong những nỗi xấu số khó hiểu nhất của con người là phải ký thác những gì quý báu nhất nơi mình vào một thứ không bền, dễ nhào nặn, hỡi ôi, như từ ngữ. Cần phải có rất nhiều can đảm để mỗi lần lại thẩm tra công cụ, làm cho nó vừa với ổ khóa riêng của mình. Chẳng thà lấy ngay công cụ đầu tiên rơi vào tay mình, gò gẫm đôi chút, và nếu lưỡi khóa xoay, thì người ta chẳng đòi hỏi gì hơn. Tôi thán phục những người cách mạng tốn nhiều công sức vất vả đến thế để dùng mìn phá tung các bức tường, trong khi chùm thìa khóa của những người giàu tín ngưỡng lẽ ra cung cấp cho họ cách đi vào yên ổn qua cửa, chẳng làm ai thức dậy hết.
Sáng nay nhận được một bức thư mới của anh bạn xưa, còn kỳ dị hơn bức thư đầu. Thư kết thúc như sau:
“Sức khỏe của mình không tốt, và đó là vấn đề duy nhất khiến mình thực sự lo ngại, bởi chết đi thật đáng tiếc cho mình, khi mình cập được bến sau bao giông bão. Inveni portum*. Tuy nhiên, mình không tránh căn bệnh, nó cho mình thì giờ rảnh rỗi mà mình cần, mà mình sẽ chẳng bao giờ được biết nếu không có nó. Mình vừa ở viện an dưỡng mười tám tháng. Điều đã cho phép mình đào bới một cách nghiêm túc vấn đề cuộc sống. Mình cho rằng cứ ngẫm nghĩ đôi chút, bạn sẽ đi đến những kết luận như mình. Aurea mediocritas*. Hai từ này chứng minh với bạn rằng kỳ vọng của mình vẫn khiêm tốn, rằng mình không phải là kẻ nổi loạn. Ngược lại mình vẫn giữ một kỷ niệm tốt đẹp về các thầy dạy chúng ta. Toàn bộ sự tai hại không phải do các học thuyết, mà do nền giáo dục các thầy đã tiếp nhận, và đã truyền lại cho chúng ta bởi chẳng biết cách suy nghĩ khác, cách cảm nhận khác. Nền giáo dục ấy đã biến chúng ta thành những kẻ cá nhân chủ nghĩa, những kẻ cô độc. Chung quy, chúng ta chưa bao giờ ra khỏi tuổi thơ, chúng ta bày đặt không ngừng, chúng ta bày đặt ra nỗi khổ của mình, niềm vui của mình, chúng ta bày đặt ra Cuộc Đời, thay vì sống cuộc đời đó. Đến mức trước khi dám mạo hiểm bước một bước ra khỏi thế giới nhỏ bé của chúng ta, chúng ta phải làm lại hết mọi sự từ đầu. Đó là một công việc gian khổ, chẳng phải không đòi hy sinh lòng tự ái, nhưng sự cô độc còn gian khổ hơn nữa, một ngày nào đó bạn sẽ hiểu ra.
Tiếng La tinh: Tôi đã tới bến.
Tiếng La tinh: Vinh quang tầm thường.
Đừng nói về mình với những người xung quanh bạn làm gì. Một cuộc đời cần cù, lành mạnh, rốt cuộc bình thường (từ bình thường được gạch dưới ba lần) phải không có gì bí mật với ai hết. Hỡi ôi, xã hội của chúng ta được tạo ra như vậy, ở đó hạnh phúc bao giờ cũng có vẻ khả nghi. Mình cho rằng một Cơ đốc giáo nào đó, rất xa tinh thần Phúc âm, có liên quan đến thành kiến này, thành kiến chung ở tất cả mọi người, tín ngưỡng hay không tín ngưỡng. Vì tôn trọng tự do của người khác, cho đến nay mình vẫn muốn giữ im lặng là hơn. Sau khi đã suy nghĩ nhiều, hôm nay mình quyết định phá vỡ sự im lặng ấy vì lợi ích của một người xứng đáng được tôn trọng nhất. Tuy tình trạng của mình đã khá lên nhiều từ vài tháng nay, hãy còn những mối lo ngại nghiêm trọng mà mình sẽ cho bạn biết. Hãy đến nhanh lên.”
Inveni portum… Người bưu tá đưa cho tôi bức thư sáng nay khi tôi ra khỏi nhà để đi giảng giáo lý sơ yếu. Tôi đọc thư trong nghĩa trang, cách chỗ Arsène vài bước, anh ta bắt đầu đào một cái huyệt, cho bà Pinochet sẽ đem chôn ngày mai. Cả anh ta nữa cũng đào xới cuộc đời…
Câu “Hãy đến nhanh lên!” làm tim tôi thắt lại. Sau những lời lẽ tội nghiệp rất tỉa tót (tôi ngỡ nhìn thấy anh đang gãi gãi thái dương bằng đầu quản bút, như ngày trước), cái từ “trẻ thơ” mà anh không kìm giữ được nữa, nó buột ra khỏi anh… Tôi đã cố gắng trong chốc lát nghĩ rằng mình tự kích động, rằng anh được một người trong gia đình săn sóc, thế thôi. Tiếc thay, tôi biết anh chỉ có một bà chị hầu hạ trong quán rượu Montreuil. Hẳn chị không phải là “cái người xứng đáng được tôn trọng nhất”.
Chẳng sao, nhất định tôi sẽ đi.
Bá tước đến thăm tôi. Rất nhã nhặn, vừa nể vì vừa thân mật, như xưa nay. Ông xin phép hút thuốc, và đã để lại cho tôi hai con thỏ ông vừa bắn được trong rừng Sauveline. “Sáng mai bà Pégriot sẽ nấu cho cha. Bà ấy đã được báo trước như vậy.”
Tôi không dám nói với ông rằng lúc này dạ dày tôi chỉ chịu được bánh mì chay. Món thịt hầm rượu của ông sẽ làm tôi tốn mất nửa ngày công cho người phục vụ, bà này cũng chẳng ăn đâu, bởi cả nhà ông giám thủ đều chán ngấy thịt thỏ. Quả thật tôi có thể bảo chú bé lễ sinh đem chỗ còn lại đến cho bà già kéo chuông, nhưng phải đem ban đêm, để đừng ai chú ý. Mọi người bàn tán về sức khỏe kém của tôi quá nhiều rồi.
Bá tước không tán thành lắm các dự định của tôi. Ông đặc biệt khuyên tôi cảnh giác với đầu óc bất lương của dân chúng, theo ông, họ bị nhồi nhét từ thời chiến tranh, và cần để nhẩn nha từ từ. “Cha đừng vội tìm họ quá, đừng tự bộc lộ ngay. Hãy để họ đến trước.”
Ông là cháu họ của hầu tước De la Roche – Macé mà lãnh địa chỉ cách quê tôi có hai dặm. Ngày trước, ông ở đó một phần các kỳ nghỉ, và ông nhớ rất rõ người mẹ tội nghiệp của tôi, thời ấy phục dịch tại lâu đài, thường làm cho ông những lát bánh phết bơ thật to, giấu ngài hầu tước tính tình rất keo kiệt, nay đã quá cố. Tôi đã khá nông nổi hỏi han ông nhưng ông trả lời ngay một cách thật dễ thương, không hề vướng chút ngượng ngùng lúng túng. Mẹ thân yêu! Ngay khi còn trẻ đến thế, và nghèo đến thế, bà đã biết làm cho người ta quý trọng, có thiện cảm. Bá tước không nói: “Cụ thân sinh ra cha”, theo tôi, có vẻ hơi kiểu cách, mà nói: “Bà cụ nhà” và nhấn mạnh tiếng “nhà” với sự nghiêm trang, kính trọng khiến tôi rưng rưng nước mắt.
Nếu một ngày nào đó những dòng này tình cờ lọt vào những con mắt thờ ơ, nhất định người ta sẽ thấy tôi rất ngây ngô. Và hẳn là tôi ngây ngô – thật thế – bởi chắc chắn chẳng có gì thấp kém trong niềm hâm mộ của tôi đối với người đàn ông dung mạo hết sức giản dị, thậm chí đôi khi hết sức vui tươi này, thành thử ông ta có vẻ như cậu học sinh vĩnh cửu sống trong kỳ nghỉ vĩnh cửu. Tôi không coi ông là thông minh hơn người khác, và mọi người bảo rằng ông khá khắc nghiệt với tá điền. Ông cũng không phải một người mẫu mực trong xứ đạo, bởi các chủ nhật ông đều dự lễ tiểu mi xa, song tôi chưa bao giờ thấy ông ở bên Bàn Thờ. Tôi tự hỏi liệu ông có chịu lễ ban thánh thể vào dịp Phục sinh hay không? Vì sao ông lại chiếm được ngay vị trí – rất hay bỏ trống, than ôi! – của người bạn, người đồng minh, đồng hành bên tôi? Có lẽ vì tôi cho là tôi thấy được ở ông vẻ tự nhiên mà tôi tìm kiếm vô hiệu ở nơi khác. Ý thức về địa vị cao, niềm ưa thích ra lệnh mang tính di truyền, ngay cả tuổi tác cũng không để lại được nơi ông dấu vết của sự trang trọng ảm đạm, của cái vẻ quả quyết đa nghi mà riêng đặc quyền tiền bạc đã đủ trao cho những nhà tư sản nhỏ nhất. Tôi cho rằng những người đó không ngừng bận tâm giữ khoảng cách (để dùng ngôn ngữ của chính họ) trong khi ông giữ địa vị của mình. Ồ! tôi biết rằng có rất nhiều sự làm dáng – tôi muốn tin là vô ý thức trong cái giọng gọn lỏn, gần như sẵng, ở đó không hề có chút hạ cố nào, mà cũng không hề hạ nhục ai, nó gợi nên nơi kẻ nghèo khổ nhất ý tưởng về một kỷ luật quân sự, được tự ý chấp thuận, hơn là ý tưởng về một sự lệ thuộc nào đó. Rất nhiều sự làm dáng, tôi sợ như vậy. Nhưng tôi vui thích được nghe giọng ấy. Và khi tôi bàn với ông về lợi ích của xứ đạo, của các linh hồn, của Giáo hội, mà ông nói “chúng ta” như thể ông và tôi chỉ có thể phục vụ cùng một chính nghĩa, tôi thấy điều đó tự nhiên, tôi không dám chữa lời ông.
Cha xứ Torcy chẳng ưa ông mấy. Cha cứ gọi ông là “bá tước bé nhỏ”, “bá tước bé nhỏ của anh”. Điều này làm tôi bực tức. Tôi đã hỏi cha: – Tại sao lại “bá tước bé nhỏ”?
– Bởi vì đó là một đồ trang trí, một đồ trang trí dễ thương, và hợp thời. Đặt trên tủ đựng bát đĩa nhà nông dân, nó gây ấn tượng. Tại hiệu đồ cổ, hoặc nơi bán đấu giá vào một ngày om xòm náo động, thậm chí anh chẳng nhận ra nó nữa kia.
Khi tôi thú thật rằng hãy còn hy vọng làm ông quan tâm đến chuyện tôi đỡ đầu đám thanh niên, cha nhún vai:
– Bá tước bé nhỏ của anh là một cái ống đựng tiền xinh đẹp bằng hàng sứ miền Saxe, nhưng không đập vỡ được đâu.
Quả thật, tôi không cho rằng ông rất rộng rãi. Tuy ông không hề gây cảm giác là ông bị tiền tài nắm giữ, như rất nhiều người khác, nhưng ông trọng tiền tài, chắc chắn như vậy.
Tôi cũng muốn nói với ông đôi lời về tiểu thư Chantal, nỗi buồn của cô khiến tôi băn khoăn. Tôi thấy ông có rất nhiều điều không nói ra, rồi lại vui vẻ một cách đột ngột, dường như gượng gạo. Tên của cô Louise có vẻ làm ông hết sức bực bội. Mặt ông đỏ lên, rồi trở thành khắc khổ. Tôi ngừng bặt.
Một hôm cha Durieux, thày dạy tôi, nhận xét: “Con có thiên hướng về tình bạn. Hãy cẩn thận đừng để nó chuyển thành đam mê. Trong mọi đam mê, đó là đam mê duy nhất mà người ta không bao giờ chữa khỏi được.”
Chúng tôi bảo tồn, được. Nhưng chúng tôi bảo tồn để cứu vớt, đó là điều thế giới không chịu hiểu, bởi nó chỉ muốn tồn tại. Nay, nó không thể an phận tồn tại nữa.
Thế giới cũ, có lẽ còn tồn tại được. Tồn tại lâu dài. Nó được tạo ra để làm điều đó. Nó nặng kinh khủng, nó gắn với mặt đất bởi một trọng lượng cực lớn. Nó đã quyết định tán đồng sự bất công. Lẽ ra dùng mưu mẹo đối phó với bất công, nó lại chấp nhận trọn vẹn, nguyên khối sự bất công, nó đã làm cho sự bất công thành một thể chế như các thể chế khác. Nó đã lập ra chế độ nô lệ. Ôi! dù nó có thể đạt đến trình độ hoàn hảo như thế nào chăng nữa, nó vẫn chẳng vì thế mà không gánh chịu lời nguyền rủa giáng xuống Adam. Điều đó, quỷ không lạ gì, quỷ còn biết rõ hơn ai hết. Nhưng trút gần như toàn bộ sự nguyền rủa ấy lên vai một loài gia súc – người, cũng cứ là một việc gay go, người ta vẫn có thể làm cho gánh nặng giảm đi nhiều. Tổng lượng lớn hết mức những dốt nát, phản kháng, tuyệt vọng dành cho một loại dân chúng bị hy sinh, một dân chúng không có tên, không lịch sử, không của cải, không đồng minh – ít ra là những đồng minh có thể thừa nhận được – không gia đình – ít ra là gia đình hợp pháp – không có tên và không có thần thánh. Các phương pháp cai trị đã giản lược vấn đề xã hội biết chừng nào!
Nhưng cái thể chế có vẻ không lay chuyển được ấy thực ra lại mong manh nhất. Để mãi mãi tiêu diệt nó, chỉ cần phế bỏ nó trong một thế kỷ. Có lẽ một ngày cũng đủ. Một khi các thứ bậc lại được hòa trộn, một khi dân chúng dùng để chuộc tội đã tán loạn, thì liệu sức mạnh nào có thể làm cho dân chúng lại khoác lấy ách?
Thể chế đã chết, và Thế giới Cũ đã sụp đổ cùng nó. Người ta tin, người ta giả vờ tin vào tính tất yếu của nó, người ta chấp nhận nó như một sự thực. Người ta sẽ không lập lại nó. Nhân loại không dám thử cái vận hội gớm guốc ấy nữa, như thế sẽ quá mạo hiểm. Luật pháp có thể dung túng sự bất công thậm chí ngấm ngầm giúp đỡ nó, song luật pháp không phê chuẩn nó nữa. Sự bất công sẽ chẳng bao giờ còn địa vị hợp pháp nữa, điều này kết thúc rồi. Nhưng nó vẫn rải rắc trên thế giới. Không dám sử dụng nó vì lợi ích của một số ít nữa, xã hội buộc phải tiếp tục công việc tiêu diệt một điều ác mang trong mình, bị đuổi ra khỏi luật pháp, điều ác này lại xuất hiện gần như tức thì trong tập tục để bắt đầu theo chiều ngược lại, không mệt mỏi, vẫn con đường vòng quanh hiểm độc ấy. Muốn hay không muốn, từ nay trở đi xã hội phải cùng chia sẻ thân phận của con người, trải qua cùng một cuộc phiêu lưu siêu phàm. Trước kia nó thờ ơ với cái thiện hay cái ác, chẳng biết luật nào khác ngoài luật quyền lực của bản thân, nay Cơ đốc giáo đã cho nó một linh hồn để hủy hoại hoặc để cứu rỗi.
Tôi đã đưa cho cha xứ Torcy đọc những dòng trên, nhưng không dám nói là do tôi viết. Cha cực kỳ sắc sảo – còn tôi nói dối hết sức kém – thành thử tôi tự hỏi liệu cha có tin tôi hay không. Cha trả lại tôi tờ giấy và cười lên tiếng cười khẽ mà tôi biết rất rõ, nó chẳng báo điều gì tốt lành. Cuối cùng, cha bảo:
– Bạn anh viết không dở, thậm chí còn quá hay ho nữa. Nhìn chung, nếu như suy nghĩ đúng bao giờ cũng có lợi, cứ dừng lại ở đó thì tốt hơn. Người ta nhìn thấy sự vật như nó vốn thế, không âm nhạc, và người ta không mắc nguy cơ tự hát một bài ca cho riêng mình. Khi anh bắt gặp một sự thật, anh hãy nhìn nó cho kỹ sao cho nhận ra được nó, nhưng đừng chờ đợi nó liếc mắt đưa tình với anh. Các sự thật trong Phúc âm khi nào liếc mắt đưa tình. Về những sự thật khác mà người ta chẳng bao giờ nói đúng được chúng đã lê la ở đâu trước khi đến với anh, những cuộc trò chuyện riêng là nguy hiểm. Ta không muốn nêu một người già cả thô lậu như ta ra làm gương. Tuy nhiên, thảng hoặc ta nảy ra ý tưởng gì – một trong những ý tưởng có thể hữu ích cho các linh hồn, dĩ nhiên rồi, bởi vì những ý tưởng khác thì…! – ta cố đưa nó đến trước Chúa, ta chuyển ngay nó vào lời cầu nguyện của ta. Nó thay hình đổi dạng mới kỳ lạ làm sao. Có những lúc không nhận ra nó nữa…
Chẳng hề gì. Bạn anh có lý. Xã hội hiện đại có thể cứ chối bỏ chúa mình, cả nó nữa vẫn được cứu chuộc, giờ đây cai quản di sản chung không đủ với nó nữa, muốn hay không muốn nó cũng ra đi như tất cả chúng ta, kiếm tìm nước Chúa. Và nước ấy không thuộc thế gian này. Vậy nó sẽ không bao giờ dừng bước. Nó không sao ngừng chạy được. “Hãy tự cứu hoặc chết đi!” Chẳng thể nói ngược lại.
Điều bạn anh nói về chế độ nô lệ cũng rất đúng. Luật pháp xưa dung thứ chế độ nô lệ và các vị sứ đồ cũng dung thứ nó như Luật pháp. Các vị đã không bảo người nô lệ: “Hãy tự giải thoát khỏi chủ ngươi” trong khi các vị bảo kẻ dâm đãng chẳng hạn: “Hãy tự giải thoát khỏi nhục dục và ngay lập tức!” Đó là một sự khác biệt nhỏ. Và tại sao vậy? Ta giả định rằng các vị muốn cho thế gian có thì giờ thở trước khi ném nó vào một cuộc phiêu lưu phi phàm. Và anh hãy tin rằng một người mạnh mẽ như thánh Paul cũng không ảo tưởng đâu. Thủ tiêu chế độ nô lệ chẳng diệt trừ việc bóc lột con người. Xét cho kỹ, một nô lệ phải mua với giá đắt, điều ấy vẫn cứ khiến cho người chủ phải có sự coi trọng nhất định với anh ta. Trong khi đó, thời trẻ ta biết một gã bẩn thỉu chủ xưởng chế tạo pha lê, y để những đứa trẻ mười lăm tuổi thổi ống, và để thay thế chúng khi lồng ngực bé bỏng tội nghiệp của chúng vỡ ra, gã súc sinh ấy tha hồ lựa chọn. Thà làm nô lệ cho một thị dân La Mã trung hậu, nói cho công bình, họ chẳng đến nỗi quá hà tiện, ta còn thích gấp trăm lần. Không, thánh Paul không ảo tưởng! Người chỉ tự nhủ rằng Cơ đốc giáo đã buông ra thế gian một sự thật không gì ngăn lại được nữa bởi nó đã ở từ trước trong đáy các lương tâm và con người lập tức tự nhận ra mình nơi sự thật ấy: Chúa đã cứu vớt mỗi chúng ta, và mỗi chúng ta đáng giá máu của Chúa. Anh có thể diễn giải điều này tùy ý anh, bằng ngôn ngữ duy lý cũng được – thứ ngôn ngữ ngu dại nhất – điều ấy buộc anh kéo gần lại những từ ngữ hơi động đến là nổ tung. Xã hội tương lai cứ thử ngồi lên đó mà xem! Chúng sẽ châm lửa dưới trôn nó, thế thôi.
Song thế gian tội nghiệp vẫn cứ ít nhiều mơ về bản giao kèo xưa kia thỏa thuận với quỷ, bản giao kèo phải đảm bảo cho nó được bình an. Làm cho một phần tư hoặc một phần ba loài người hóa thành thân phận gia súc, nhưng là gia súc cao cấp, có lẽ như vậy không phải là trả giá quá đắt cho sự đăng quang của các siêu nhân, những kẻ thuần chủng, của vương quốc trần gian thực sự… Người ta nghĩ điều đó, người ta chẳng dám nói ra. Chúa của chúng ta khi nhận cảnh nghèo hèn đã nâng kẻ nghèo lên thật cao về phẩm giá, thành thử người ta không đưa được kẻ nghèo xuống khỏi bệ đài nữa. Chúa đã cho người nghèo một ông tổ – mà một ông tổ như thế nào chứ! Một tên họ – mà tên như thế nào chứ! Người ta còn yêu mến anh ta khi nổi loạn hơn khi nhẫn nhục, anh ta như đã thuộc về nước Chúa, nơi mà, những kẻ đứng đầu sẽ thành những kẻ đứng cuối, anh ta có vẻ một bóng ma trở về – một bóng ma trở về từ yến hội Hợp hôn, với tà áo trắng… Thế là, làm thế nào được, Nhà nước bắt đầu bằng cách gặp thất bại cũng cứ vui lòng. Nó lau chùi cho trẻ con, băng bó người què quặt, giặt áo, nấu xúp cho kẻ lang thang, đánh bóng ống nhổ cho người lẫn cẫn, nhưng nhìn đồng hồ mà tự nhủ liệu mọi người có để nó còn thì giờ lo toan công việc của chính nó hay không. Chắc hẳn nó còn hy vọng đôi chút để máy móc giữ vai trò xưa kia dành cho nô lệ. Thôi đi! Máy móc không ngừng quay, người thất nghiệp không ngừng tăng, thành thử máy móc có vẻ chỉ chế tạo ra người thất nghiệp, anh có thấy điều đó không? Người nghèo có cuộc sống thật vất vả. Cuối cùng họ vẫn còn định ở nơi ấy, bên Nga… Anh hãy chú ý rằng ta không cho là người Nga tệ hơn những người khác – họ điên tuốt, hóa dại tuốt, những con người thời nay! – nhưng những tay người Nga này có gan. Các gã ấy là dân xứ Flandres của miền cực bắc. Họ nuốt được mọi thứ, một hoặc hai thế kỷ nữa, họ có thể nuốt cả sinh viên bách khoa mà không toi mạng.
Ý tưởng của họ, chung quy, không ngốc đâu. Dĩ nhiên, vấn đề vẫn là tiêu diệt người nghèo – người nghèo là nhân chứng của Jésus-Christ, người thừa kế của dân tộc Do thái, chứ sao! – nhưng thay vì hủy hoại người nghèo thành gia súc, hoặc chết đi, thì họ đã nghĩ ra việc biến anh ta thành người hưởng lợi tức niên kim nho nhỏ hoặc thậm chí – giả định là sự việc tốt dần lên – thành viên chức nhỏ. Chẳng có gì dễ bảo hơn thế, thuần hóa hơn thế.
Ở nơi khuất nẻo của tôi, có lúc tôi cũng nghĩ những người Nga. Bạn bè tôi tại đại chủng viện thường hay nói về họ một cách tầm bậy tầm bạ, tôi nghĩ thế. Đặc biệt nhằm lòe các thày giáo. Các đồng nghiệp dân chủ của tôi rất dễ thương, rất sốt sắng, nhưng tôi thấy họ – biết nói thế nào nhỉ? – hơi trưởng giả. Vả lại dân chúng chẳng yêu mến họ lắm, đó là một sự thực. Vì họ không hiểu dân chúng, hẳn thế? Tóm lại, tôi nhắc lại rằng có lúc tôi nghĩ đến những người Nga với một thứ hiếu kỳ, thương mến. Khi ta đã biết cảnh khốn cùng, biết những niềm vui bí ẩn của nó, những niềm vui không thể truyền cho ai – thì các nhà văn Nga chẳng hạn, làm ta khóc được. Năm cha tôi mất, mẹ phải mổ một khối u, và đã ở bệnh viện Berguette bốn hoặc năm tháng. Một bà dì đã đón tôi về. Bà mở một quán rượu nhỏ gần ngay Lens, một túp nhà ván xấu xí kinh khủng, ở đó bà bán lẻ rượu đỗ tùng cho những người thợ mỏ quá nghèo không đến được nơi khác, vào một tiệm giải khát thực thụ. Trường cách đấy hai cây số, và tôi ngồi học bài trên sàn nhà, sau quầy hàng. Sàn, tức là một cái bục gỗ tồi tàn đã mục nát. Mùi đất bốc lên qua các khe hở, một thứ đất bao giờ cũng ẩm ướt, đất bùn. Những tối lĩnh lương, khách hàng của chúng tôi chẳng buồn ra ngoài tiểu tiện, họ đi giải ngay xuống đất và ngồi bên dưới quầy, tôi sợ đến mức ngủ thiếp ở đó. Chẳng sao: thày giáo tiểu học rất yêu mến tôi, thày cho tôi mượn sách. Tôi đã đọc hồi ức thời thơ ấu của Maxime Gorki tại đây.
Có những trung tâm cùng khổ ở Pháp, dĩ nhiên. Những hòn đảo nhỏ cùng khổ. Chẳng bao giờ đủ lớn để những người khốn cùng có thể thực sự sống giữa họ với nhau, sống cuộc đời cùng khổ thực sự. Bản thân cái giàu ở đây cũng quá nhiều sắc thái tinh vi, quá nhiều nhân tính, thế nào nhỉ? thành thử thế lực ghê gớm của đồng tiền, sức mạnh mù quáng của nó, sự tàn ác của nó không hề lồ lộ, tỏa ngời, chói lọi ở đâu hết. Tôi hình dung rằng dân tộc Nga đã từng là một dân tộc cùng khổ, một dân tộc của những người cùng khổ, rằng họ đã biết cơn say của nỗi cùng khổ, sự chiếm hữu của nó. Nếu như Giáo hội có thể đặt một dân tộc lên bàn thờ, và nếu như Giáo hội tuyển chọn dân tộc này, hẳn Giáo hội sẽ khiến dân tộc đó thành vị thánh bảo hộ cho sự cùng khổ, thành người thỉnh cầu giùm đặc biệt cho kẻ khốn cùng. Hình như Gorki đã kiếm được rất nhiều tiền, và sống một cuộc sống sang trọng, ở đâu đó, ven Địa trung hải, ít ra tôi đã đọc điều này trên báo. Thậm chí nếu thật như thế – trước hết nếu thật như thế! – thì tôi hài lòng là ngày nào cũng cầu nguyện cho ông, từ bao năm nay. Ở tuổi mười hai, tôi không dám nói rằng tôi không biết Chúa, bởi giữa rất nhiều tiếng nói khác ầm ầm trong đầu óc tội nghiệp của tôi như dông bão, như nước lụt, tôi đã nhận ra được tiếng nói của Người. Thế mà trải nghiệm đầu tiên về sự bất hạnh vẫn thật tàn khốc! Phước thay cho ai từng tránh được cho một trái tim trẻ thơ khỏi phải tuyệt vọng! Đó là một điều mà người đời không hiểu lắm, hoặc quên đi, vì nó sẽ làm họ quá sợ. Giữa những người nghèo cũng như giữa những người giàu, một đứa bé khốn cùng luôn luôn đơn độc, cũng đơn độc chẳng khác một hoàng tử. Ít ra là ở quê tôi, tại miền ấy, nỗi cùng khổ không chia sẻ, mỗi kẻ khốn cùng đơn độc trong nỗi cùng khổ của mình, một nỗi cùng khổ chỉ của riêng anh ta như mặt anh ta, chân tay anh ta. Tôi không cho là tôi có một ý niệm rõ ràng về sự cô đơn ấy, hoặc tôi chẳng có ý niệm gì về nó cũng nên. Tôi chỉ tuân theo quy luật ấy của đời mình, mà không hiểu nó. Cuối cùng tôi đâm ra yêu mến nó. Chẳng có gì cứng rắn hơn lòng kiêu hãnh của kẻ khốn cùng và đây, bỗng nhiên cuốn sách ấy, đến từ nơi rất xa xôi, từ những miền đất hoang đường kia, cho tôi cả một dân tộc làm bầu bạn.
Tôi đã cho một người bạn mượn cuốn sách ấy, anh không trả lại tôi, dĩ nhiên. Tôi sẽ chẳng thích đọc lại nó, để làm gì chứ? Chỉ cần nghe thấy một lần – hoặc tưởn