← Quay lại trang sách

Chương 3

Thật xấu hổ không thể cầm vững quản bút. Hai bàn tay tôi run. Không phải lúc nào cũng run, nhưng từng cơn, tuy nhiên rất ngắn, vài giây thôi. Tôi tự bắt buộc phải ghi nhận điều đó.

Nếu tôi còn đủ tiền, tôi sẽ lên tàu hỏa đi Amiens. Nhưng tôi đã có cử chỉ phi lí ấy, lúc nãy, khi ở nhà thầy thuốc ra. Dại dột làm sao! Tôi chỉ còn vé trở về và ba mươi bảy xu.

Giả định rằng điều đó đã diễn ra rất tốt đẹp: có thể tôi đã ở cùng chỗ ấy, viết như tôi làm giờ đây. Tôi nhớ rất rõ là đã chú ý đến cái quán rượu nhỏ yên tĩnh ấy, với các phòng trong vắng vẻ, quá tiện lợi, và những chiếc bàn lớn bằng gỗ đẽo dối. (Cửa hàng bánh mì bên cạnh thơm mùi bánh mì nóng). Thậm chí tôi thấy đói.

Vâng, chắc chắn… Lẽ ra tôi đã rút quyển vở này ra khỏi bị, hỏi mượn bút mực và cũng cô hầu ấy sẽ mang đến cùng nụ cười. Có thể tôi cũng sẽ cười. Đường phố tràn đầy ánh nắng.

Khi tôi đọc lại những dòng này ngày mai, sau sáu tuần – sáu tháng có lẽ, ai biết được? – Tôi cảm nhận rằng tôi cầu mong tìm thấy lại ở đó… Chúa ơi, tìm thấy lại ở đó cái gì…? Này nhé, chỉ là chứng cứ rằng tôi đi đi lại lại hôm nay như thường lệ mọi khi, thật là trẻ con.

Trước tiên tôi đi thẳng về phía trước, đến nhà ga. Tôi đi vào trong một nhà thờ cổ mà tôi không biết tên. Có quá nhiều người ở đó. Điều này cũng là trẻ con, nhưng tôi những muốn quỳ thoải mái trên các tấm đá lát, đúng hơn là nằm dài xuống đó, nằm úp mặt xuống đất. Tôi chưa bao giờ cảm thấy dữ dội đến như vậy sự nổi dậy của thể xác chống lại sự cầu nguyện – và rõ rệt tới mức tôi không cảm thấy một chút hối hận nào. Ý chí của tôi không làm gì được ở đây. Tôi không tin rằng cái được gọi bằng một từ tầm thường là sự “lãng trí” có thể có tính năng phân giải và chia nhỏ đó. Vì tôi không đấu tranh chống cái sợ, mà chống một số nhiều, theo bề ngoài thì vô tận, những cái sợ – một cái sợ cho mỗi thớ, vô vàn cái sợ. Và khi tôi nhắm mắt lại, cố gắng tập trung sự suy nghĩ, tôi dường như nghe thấy tiếng rì rầm như của một đám đông mênh mông, vô hình, núp ở đáy sự lo âu của tôi, như trong đêm tối dày đặc.

Mồ hôi tuôn ròng ròng, trên trán tôi, trên các bàn tay tôi. Cuối cùng tôi đi ra. Cái lạnh của đường phố chộp lấy tôi. Tôi bước đi nhanh. Tôi nghĩ nếu như tôi đau đớn, tôi đã có thể tự thương hại mình, khóc cho mình, cho nỗi bất hạnh của mình. Nhưng tôi chỉ cảm nhận một trạng thái nhẹ nhõm khó hiểu. Sự sững sờ của tôi, khi tiếp xúc với đám đông ồn ào, giống như mối kinh ngạc của niềm vui. Nó chắp cánh cho tôi.

Tôi tìm thấy năm franc trong túi áo choàng. Tôi đã để đó dành cho người lái xe của ông Bigre. Tôi quên đưa cho anh ta. Tôi bảo dọn cho tôi cà phê đen và một trong những chiếc bánh mì nhỏ mà tôi đã ngửi thấy mùi thơm trước đó. Bà chủ quán rượu nhỏ tên là bà Duplouy; bà là vợ góa của một người thợ nề, xưa kia sinh sống ở Torcy. Đã từ một lúc, bà lén quan sát tôi từ trên cao của quầy hàng phía trên bức vách ngăn của phòng trong. Bà đến ngồi gần tôi, nhìn tôi ăn. “Ở tuổi ông, bà nói với tôi, người ta ăn nghiến ngấu.” Tôi phải nhận thêm bơ, thứ bơ miền Flandres, thơm mùi quả mâm xôi. Con trai một của bà Duplouy chết vì bệnh lao và cháu gái bà chết vì viêm màng não, lúc mới hai mươi tháng tuổi. Bản thân bà đau bệnh tiểu đường, chân bị sưng, nhưng bà không thể tìm ra người mua cái quán rượu nhỏ này, ở đó chẳng ai đến. Tôi đã cố hết sức an ủi bà. Sự nhẫn nhục của tất cả những người đó làm tôi xấu hổ. Lúc đầu nó không có vẻ gì là siêu tự nhiên, bởi vì họ diễn đạt nó trong ngôn ngữ của họ, và ngôn ngữ đó không còn tính chất Thiên chúa giáo. Cũng như nói rằng họ không diễn đạt nó, bản thân họ không còn tự biểu đạt nữa. Họ làm việc đó nhờ những ngạn ngữ và những lời lẽ trong báo chí.

Biết rằng tối nay tôi mới lại lên tàu, bà Duplouy rất muốn dành cho tôi phòng trong. “Như vậy, bà nói, cha có thể tiếp tục viết bài thuyết giáo trong yên tĩnh.” Tôi phải khó nhọc lắm mới ngăn được bà đốt lò sưởi (tôi còn hơi run vì rét). “Thời tôi còn trẻ, bà nói, các linh mục ăn uống nhiều quá, khí huyết quá nhiều. Ngày nay, các cha gầy hơn những con mèo hoang.” Tôi cho là bà hiểu lầm cái nhăn mặt của tôi, vì bà vội vã nói thêm: “Nhưng bước khởi đầu bao giờ cũng gay go. Bất kể ở tuổi cha, người ta có cả cuộc đời ở phía trước.”

Tôi hé miệng để trả lời và… lúc đầu tôi không hiểu. Đúng, ngay trước khi quyết định điều gì, nghĩ tới điều gì, tôi biết là tôi sẽ giữ im lặng. Giữ im lặng, thuật ngữ mới lạ lùng làm sao! Chính cái im lặng giữ chúng ta.

(Lạy Chúa, Chúa đã muốn điều đó như thế, tôi nhận ra bàn tay của Chúa. Tôi tưởng cảm thấy bàn tay đó trên đôi môi tôi).

Bà Duplouy đã rời tôi để lại đến ngồi trên quầy hàng. Có những người vừa mới vào, những người thợ vào ăn qua loa. Một người trong số họ nhìn thấy tôi qua phía trên vách ngăn, và các bạn anh phá lên cười. Tiếng ồn họ gây nên không quấy rối tôi, trái lại. Cái im lặng bên trong – cái im lặng mà Chúa ban phép lành cho – chưa bao giờ cô lập tôi với người đời. Tuồng như họ vào đó, tôi tiếp đón họ như ở thềm nhà tôi. Và chắc chắn là họ đến đó, họ đến đó mà không biết. Than ôi! tôi chỉ có thể cung cấp cho họ một nơi ẩn náu mong manh. Nhưng tôi hình dung sự im lặng của một số tâm hồn như những chốn nương náu bao la. Những người có lỗi khốn khổ, kiệt sức sờ soạng đi vào đó, ngủ ở đó rồi lại ra đi, được an ủi mà không giữ một kỉ niệm nào về ngôi đền lớn vô hình ở đó họ đã trong chốc lát đặt xuống gánh nặng của mình.

Dĩ nhiên, quả là hơi ngốc khi nhắc đến một trong những mặt huyền bí nhất của sự Giao hòa các Thánh đồ* nhân điều tôi vừa quyết định và chỉ riêng sự cẩn trọng của con người đã rất có thể xui khiến tôi quyết định như vậy. Không phải là lỗi của tôi nếu tôi luôn phụ thuộc vào cảm hứng của thời điểm, hoặc đúng hơn, nói thực ra, của động thái thuộc từ tâm dịu dàng của Chúa, tôi phó mình cho từ tâm đó. Tóm lại, tôi đột ngột hiểu rằng, từ ngày tôi đến khám bác sĩ, tôi nóng lòng muốn phó thác nỗi bí mật của tôi, chia sẻ niềm cay đắng với một người nào đó. Và tôi cũng hiểu rằng muốn tìm thấy lại sự yên tĩnh, chỉ cần im lặng là đủ.

Communion des Saints: quan hệ giữa các tín đồ ở trần thế, ở Luyện ngục và Thiên đường.

Nỗi bất hạnh của tôi không có gì kì lạ. Ngày nay hàng trăm, hàng ngàn người có lẽ, qua thế gian này, sẽ nghe một lời tuyên án như thế với cùng một trạng thái sững sờ như thế, trong số họ, tôi hẳn là một trong những người ít có khả năng nhất để kiềm chế một xung động đầu tiên, tôi quá hiểu sự yếu đuối của tôi. Nhưng kinh nghiệm cũng dạy tôi rằng tôi thừa hưởng của mẹ tôi, và chắc hẳn là của nhiều người đàn bà nghèo khổ khác của giống nòi tôi, một thứ khả năng chịu đựng hầu như không thể cưỡng được về lâu về dài, bởi vì nó không mưu toan đọ sức với nỗi đau khổ, nó trườn mình vào bên trong, biến nỗi đau dần dần thành một thói quen – sức mạnh của chúng tôi là ở đó. Nếu không, làm sao giải nghĩa được niềm hăm hở sống của bao người đàn bà khốn khổ mà lòng kiên nhẫn đáng sợ cuối cùng làm cạn kiệt sự vô ơn và sự bất công của người chồng, của các con và những người thân – ôi! những vú nuôi của những người khốn khổ!

Chỉ có điều, phải im lặng. Tôi phải im lặng lâu chừng nào còn được cho phép im lặng. Và cái đó có thể kéo dài nhiều tuần lễ, nhiều tháng. Khi tôi nghĩ rằng vừa rồi chỉ cần một lời nói, một ánh mắt xót thương, một câu hỏi đơn giản có lẽ! để rồi điều bí mật đó buột ra từ tôi… Nó đã ở trên đôi môi tôi, chính Chúa đã giữ lại. Ôi! tôi biết rất rõ rằng lòng thông cảm của người khác làm dịu đi một chốc lát, tôi không hề coi khinh nó. Nhưng nó không giải được nỗi khát, nó chảy vào tâm hồn như qua một cái sàng. Và khi nỗi đau khổ của chúng ta đã đi qua từ sự thương hại này đến sự thương hại khác, cũng như từ miệng người này sang miệng người khác, dường như với tôi chúng ta không còn có thể kính trọng và yêu mến nó nữa.

Tôi lại một lần nữa ở bên cái sàn này. Tôi muốn nhìn thấy lại ngôi nhà thờ mà từ đó tôi đã bước ra sáng nay, quá xấu hổ về mình. Quả thật nó lạnh lẽo và tăm tối. Điều tôi mong đợi đã không đến.

Khi trở về, bà Duplouy bảo tôi cùng ăn trưa. Tôi không dám từ chối. Chúng tôi đã nói về Ngài cha xứ Torcy mà bà đã biết khi ông làm phó linh mục ở Presles. Bà sợ cha ấy lắm. Tôi đã ăn thịt hầm và rau. Lúc vắng tôi, bà đã đốt lò sưởi và khi ăn xong đã để tôi lại một mình, ấm áp, trước một tách cà phê đen. Tôi cảm thấy dễ chịu, thậm chí đã thiếp đi một lúc. Khi thức dậy…

(Chúa ơi! tôi phải viết điều này ra. Tôi nghĩ đến các buổi sáng, những buổi sáng cuối cùng của tôi trong tuần lễ này, đến sự đón tiếp các buổi sáng đó, đến tiếng gà gáy – đến khuôn cửa sổ cao yên tĩnh, còn đầy bóng đêm, mà một khung kính, bao giờ cũng khung ấy, cái khung bên phải, bắt đầu lóe sáng… Tất cả những thứ đó mới tươi mát và thanh khiết làm sao…)

Vậy là tôi đã đến nhà bác sĩ Lavigne rất sớm. Tôi được đưa vào hầu như ngay sau đó. Phòng đợi khá bừa bãi, một cô người ở quỳ cuốn tấm thảm. Tôi phải chờ vài phút trong phòng ăn được giữ nguyên như tối hôm trước, tôi giả định thế, các cánh chớp và rèm đóng kín, khăn bàn còn trên bàn, với những mẩu vụn bánh mì gãy răng rắc dưới giày tôi, và mùi xì gà đã tắt. Cuối cùng cửa mở ra sau lưng tôi, bác sĩ ra hiệu cho tôi vào. “Tôi xin lỗi tiếp cha trong phòng nhỏ này, ông nói với tôi, đây là phòng chơi của con gái tôi. Sáng nay căn hộ lộn tùng phèo; nó được chủ nhân giao như thế hằng tháng cho một kíp lau chùi khô – thật ngu xuẩn! Ngày hôm ấy tôi chỉ tiếp bệnh nhân lúc mười giờ sáng; nhưng hình như cha vội. Cuối cùng chúng ta có một đi văng, cha có thể nằm lên đấy. Đó là điều chính.”

Ông kéo rèm, và tôi nhìn thấy ông giữa ánh sáng. Tôi không nghĩ là ông trẻ thế. Mặt ông cũng gầy như mặt tôi. Và có sắc rất lạ khiến thoạt tiên tôi tưởng là một tác dụng phối hợp ánh sáng. Cứ như thể ánh phản chiếu của đồng đỏ. Và ông chăm chú nhìn tôi với cặp mắt đen, đượm một thứ dửng dưng, sốt ruột, nhưng không hề tàn nhẫn, trái lại thế. Khi tôi khó nhọc cởi chiếc áo len đan, mạng nhiều chỗ, ông quay lưng lại. Tôi vẫn ngồi hơi nghệt ra trên đi văng không dám nằm xuống. Vả lại chiếc đi văng đó chất đầy đồ chơi ít nhiều đã gãy. Có cả một con búp bê bằng giẻ lấm mực. Viên bác sĩ đặt nó lên một chiếc ghế, đoạn sau vài câu hỏi, ông đã sờ nắn tôi rất kĩ, thỉnh thoảng nhắm mắt lại. Mặt ông ở đúng bên trên mặt tôi, và lọn tóc dài đen của ông chạm lướt trán tôi. Tôi nhìn thấy cái cổ của ông trơ xương, thắt chặt trong một cổ cồn xấu bằng chất dẻo, đã hoàn toàn ngả vàng; và máu dần dần đổ dồn về má, lúc này cho chúng một màu đồng. Ông gây cho tôi sự lo sợ và cả một chút ghê tởm.

Việc khám bệnh của ông kéo dài. Tôi ngạc nhiên là ông rất ít chú ý đến cái ngực đau của tôi, ông chỉ nhiều lần đưa bàn tay của ông qua vai trái của tôi, ở chỗ xương đòn, vừa làm vừa huýt sáo. Cửa sổ mở ra một mảnh sân và tôi thoáng thấy qua các tấm kính một bức tường đen những bồ hóng có những lỗ thủng hẹp tới mức giống những lỗ châu mai. Dĩ nhiên trước kia tôi đã có một ý nghĩ rất khác về giáo sư Lavigne và về nơi ở của ông. Căn phòng nhỏ có vẻ thực sự bẩn thỉu và – tôi không rõ vì sao những đồ chơi bị gãy ấy, con búp bê ấy làm trái tim tôi thắt lại. – “Cha mặc áo quần lại đi,” ông nói với tôi.

Một tuần lễ trước chắc tôi đã đợi cái xấu nhất. Nhưng vài ngày trở lại đây, tôi cảm thấy đỡ nhiều lắm! Dù sao, các giây phút có vẻ rất lâu đối với tôi. Tôi cố nghĩ đến ông Olivier, đến cuộc dạo chơi thứ hai tuần trước, đến con đường rực sáng. Tay tôi run mạnh đến nỗi khi mang lại giày, tôi đã hai lần làm đứt sợi dây giày.

Viên bác sĩ đi đi lại lại ngang dọc trong phòng. Cuối cùng ông trở lại phía tôi, mỉm cười. Nụ cười của ông chỉ làm tôi yên lòng một nửa – “Này nhé, kìa, tôi muốn chụp thêm tia X thì tốt hơn! Tôi sẽ cấp cho cha một ghi nhận đến bệnh viện, cơ quan của bác sĩ Grousset. Rủi thay, cha phải đợi đến thứ hai.” – “Có cần thiết lắm không?” Ông lưỡng lự một lúc. Lạy Chúa, tôi thấy hình như lúc ấy tôi sẽ nghe bất cứ điều gì mà không nao núng. Nhưng, tôi biết điều này do kinh nghiệm, khi dâng lên trong tôi tiếng gọi thầm lặng và sâu kín ấy, nó đi trước sự cầu nguyện, vẻ mặt tôi có một biểu hiện giống biểu hiện của sự lo âu. Bây giờ tôi nghĩ rằng viên bác sĩ đã nhầm lẫn. Nụ cười của ông càng rõ nét hơn, một nụ cười chân thật, gần như thương mến. – “Không, ông nói, đó chỉ là một thủ tục. Cha ở lại đây lâu hơn ích lợi gì? Vậy hãy yên tâm trở lại nhà.” – “Tôi có thể tiếp tục thực hiện giáo chức của mình?” – “Rất chắc chắn. (Tôi cảm thấy máu dồn lên mặt). Ồ! tôi không cho rằng cha đã xong xuôi với những phiền muộn nhỏ của mình, những cơn đau có thể trở lại. Biết làm thế nào? Phải học sống với bệnh của mình; chúng ta đều ít nhiều như thế cả. Tôi thậm chí không áp đặt cha một chế độ ăn uống: hãy mò mẫm, hãy chỉ nuốt những gì qua được. Và khi một thức gì đã qua được không còn qua được nữa, đừng cố ép nài quá, hãy trở về thật từ từ với sữa, với nước đường, tôi nói với cha như chỗ bạn bè, bằng hữu. Khi nào thấy đau quá, cha sẽ uống một thìa canh thứ thuốc nước mà tôi sắp viết công thức, cho cha – cứ hai giờ một thìa, không bao giờ quá năm thìa một ngày, cha rõ chưa?” – “Được, thưa giáo sư.”

Ông đẩy một cái bàn xoay đến gần chiếc ghế bành, trước mặt tôi, và ông thì mặt sát mặt với con búp bê bằng giẻ, nó dường như ngẩng lên phía ông cái đầu dị dạng, từ đó sơn bong từng mảng, như thể những cái vẩy. Ông cáu kỉnh ném nó về phía đầu kia căn phòng, nó phát ra một tiếng kì cục khi chạm vào tường, trước khi lăn xuống đất. Nó nằm ngửa ở đó, ống chân và cánh tay chới với trên không. Tôi không dám nhìn cả người bác sĩ lẫn con búp bê. – “Nghe đây, đột nhiên ông nói, tôi tin chắc chắn là cha phải chụp tia X, nhưng không gì phải gấp. Cha hãy trở lại đây trong tám ngày.” – “Nếu không là tuyệt đối cần thiết…” – “Tôi không có quyền nói với cha khác được. Không ai là không thể sai lầm, nói cho cùng. Nhưng đừng để Grousset kích động cha! Một người chụp tia X là một người chụp tia X, người ta không đòi hỏi anh ta diễn giải… Cha và tôi, chúng ta sẽ cùng nhau nói chuyện về vấn đề này… Dù sao, nếu cha nghe tôi, cha sẽ không thay đổi gì cả cái thói quen của cha, thực ra, thói quen là bạn bè của người, cả những thói quen xấu. Điều tồi tệ nhất có thể đến với cha là ngưng công việc của mình, vì lý do nào chăng nữa.” Tôi hầu như không nghe ông nói. Tôi nóng lòng được lại ở ngoài đường phố, tự do. – “Được ạ, thưa giáo sư.” Tôi đứng dậy. Ông bồn chồn mân mê cửa tay áo sơ mi lật ngược của mình – “Ma nào đã gửi cha đến đây?” – “Ngài bác sĩ Delbende.” – “Delbende? Tôi không biết.” – “Ngài bác sĩ Delbende đã qua đời.” – “A? Vậy thì, mặc kệ! Hãy trở lại trong tám ngày. Tôi đã suy nghĩ rồi. Tôi sẽ đích thân dẫn cha đến chỗ ông Grousset. Thứ ba trong tám ngày nữa, thống nhất rồi nhé?” Ông ta hầu như đẩy tôi ra khỏi phòng. Trong vài phút qua, khuôn mặt rất u tối của ông có một vẻ lạ lùng; nó dường như vui, một niềm vui co giật, nhớn nhác, như niềm vui của một người che giấu một cách rất vất vả sự sốt ruột của mình. Tôi đi ra không dám bắt tay ông, và vừa ra đến phòng ngoài, tôi nhận thấy rằng, tôi đã để quên đơn thuốc. Cánh cửa đúng là vừa mới đóng lại, tôi tưởng nghe tiếng chân bước trong phòng khách, tôi nghĩ là căn phòng trống không, tôi chỉ việc lấy đơn thuốc trên bàn và không quấy rầy ai… ông đứng kia, trong khuôn cửa sổ hẹp, và một vạt quần gấp xuống, ông đưa tới gần đùi một bơm tiêm nhỏ mà tôi thấy bộ phận kim loại lóe sáng giữa những ngón tay ông. Tôi không thể quên nụ cười gớm ghiếc mà sự ngạc nhiên không làm tắt được ngay: nó còn phảng phất quanh khuôn miệng hé mở trong khi ánh mắt chằm chằm vào tôi một cách giận dữ. – “Có chuyện gì thế?” – “Tôi vào tìm đơn thuốc.” Tôi ấp úng. Tôi tiến một bước về phía bàn, tờ giấy không còn đó nữa. – “Có lẽ tôi đã bỏ nó lại vào túi, ông nói với tôi. Xin chờ một lát.” Ông rút lẹ kim ra và vẫn đứng trước tôi, bất động không rời mắt khỏi tôi, bơm tiêm còn cầm trong tay. Ông có vẻ thách thức tôi – “Với cái này, thưa cha thân mến, người ta có thể không cần đến Chúa lòng lành.” Tôi nghĩ rằng sự bối rối của tôi đã làm ông nguôi – “Nào, đó chỉ là một câu nói đùa của sinh viên y khoa. Tôi kính trọng mọi ý kiến, kể cả ý kiến tôn giáo. Vả lại, tôi không có ý kiến nào. Đối với một thầy thuốc, không có các ý kiến, chỉ có những giả thuyết.” – “Thưa ngài giáo sư…” – “Tại sao gọi tôi là ngài giáo sư? Giáo sư về gì?” Tôi cho ông ta là một người điên. – “Trả lời tôi đi, mẹ kiếp. Cha được một đồng nghiệp của tôi giới thiệu mà tôi không biết ngay cả tên người đó và cha coi tôi là giáo sư.” – “Ngài bác sĩ Delbende đã khuyên tôi tìm hỏi giáo sư Lavigne.” – “Lavigne? Có phải cha chế nhạo tôi không? Bác sĩ Delbende của cha phải là một tay lẫn cẫn ra trò. Lavigne đã qua đời tháng giêng vừa rồi ở tuổi bảy mươi tám! Ai cho cha địa chỉ của tôi?” – “Tôi tìm thấy nó trong niên bạ.” – “Xem nào? Tôi tên là Laville, không phải là Lavigne. Cha biết đọc không?” – “Tôi lơ đễnh, tôi nói với ông, xin ông tha lỗi.” Ông đứng giữa tôi và cửa ra vào; tôi tự hỏi có bao giờ tôi ra được khỏi cái phòng này không, tôi cảm thấy như bị mắc bẫy, ở đáy một cái bẫy sập. Mồ hôi chảy trên má tôi, làm mờ mắt tôi. – “Chính tôi xin lỗi cha. Nếu cha muốn, tôi có thể giới thiệu cha với một giáo sư khác, Dupetitré chẳng hạn? Nhưng, giữa chúng ta với nhau, tôi thấy việc ấy vô ích, tôi am hiểu nghề bằng những người tỉnh lẻ ấy, tôi đã là nội trú các bệnh viện Paris, và đứng thứ ba trong kì thi tuyển, thế nữa! Tha thứ cho tôi đã tự khen chính mình. Trường hợp của cha không có gì rắc rối, bất cứ ai cũng sẽ giải quyết như tôi.” Tôi lại đi một lần nữa ra cửa. Những lời của ông không hề gợi cho tôi sự ngờ vực, chỉ có cái nhìn của ông gây cho tôi một sự ngượng nghịu không chịu nổi. Nó cực kì chói sáng và chăm chú. – “Tôi không muốn lạm dụng,” tôi nói với ông. – “Cha không lạm dụng (ông rút ra chiếc đồng hồ), những cuộc khám của tôi chỉ khởi đầu lúc mười giờ. Tôi phải thú nhận với cha rằng, ông tiếp tục, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một người trong số các cha, tức là với một linh mục, một linh mục trẻ. Điều đó làm cha ngạc nhiên? Tôi thú thực là sự việc khá lạ lùng.” Tôi chỉ tiếc là đã làm ông có quan niệm không hay đến thế về tất cả chúng tôi, tôi trả lời. Tôi là một linh mục tầm thường.” – Ôi! xin làm ơn cho! Trái lại cha làm tôi rất chú ý. Cha có một nét mặt rất… rất đặc biệt. Người ta chưa bao giờ nói với cha điều ấy ư?” – “Dĩ nhiên là chưa, tôi kêu lên. Tôi nghĩ rằng ông chế nhạo tôi.” Ông quay lưng về phía tôi và nhún vai – “Cha có biết nhiều linh mục không, trong gia đình cha ấy?” – “Không một người nào, thưa ông. Sự thật là tôi không biết gì mấy về những người trong gia đình tôi. Những gia đình như gia đình tôi không có lịch sử.” – “Chính điều đó đánh lừa cha. Lịch sử gia đình cha được khắc trong mỗi đường nhăn của khuôn mặt cha, và trên khuôn mặt cha có những đường nhăn đấy.” – “Tôi không mong đọc ở đấy, ích gì? Hãy để người chết chôn cất người chết.” – “Họ chôn cất được cả những người sống đấy. Cha nghĩ rằng mình tự do ư, cha ấy?” – “Tôi không biết phần tự do của tôi được bao nhiêu, lớn hay nhỏ? Tôi chỉ tin rằng Đức Chúa trời đã để lại cho tôi phần tự do vừa đủ để một ngày nào đó, tôi đưa lại nó vào tay Người.” “Hãy tha thứ cho tôi, ông tiếp tục sau một lúc im lặng. Chắc tôi phải có vẻ thô lỗ, đối với cha. Chính vì bản thân tôi thuộc một gia đình… loại như gia đình cha, tôi cho là thế. Khi nhìn thấy cha, lúc nãy, tôi có cảm tưởng khó chịu đứng trước… trước bản sao của chính mình. Cha tưởng tôi điên?” Tôi vô tình đưa mắt nhìn cái bơm tiêm. Ông bèn cười lên. – “Không, chất moóc phin không làm say đâu, cha hãy yên tâm. Nó còn gỡ rối khá tốt cho não. Tôi mong đợi ở nó cái mà chắc cha mong đợi ở kinh cầu nguyện: sự lãng quên.” – “Xin lỗi, tôi nói với ông, người ta không yêu cầu ở kinh cầu nguyện sự lãng quên, mà sức mạnh.” – “Sức mạnh không còn giúp ích gì cho tôi nữa.” Ông nhặt dưới đất lên con búp bê bằng giẻ, đặt nó cẩn thận trên lò sưởi. – “Kinh cầu nguyện, ông tiếp tục bằng một giọng mơ màng, tôi cầu chúc cha cầu nguyện cũng dễ dàng như tôi tự đâm cái kim tiêm này vào dưới da. Những người lo âu kiểu như cha không cầu nguyện, hoặc cầu nguyện tồi. Đúng hơn hãy thú nhận rằng cha chỉ thích trong cầu nguyện sự nỗ lực, sự ép buộc; đó là một bạo lực mà cha thực hiện chống lại bản thân mình mà không biết. Người dễ bị kích thích mạnh luôn là đao phủ của bản thân mình.” Giờ đây khi tôi nghĩ ngợi về những lời đó, tôi không thể giải thích cho mình thứ xấu hổ mà chúng đã gieo vào tôi. Tôi không dám đưa mắt nhìn lên nữa. – “Đừng coi tôi là một nhà duy vật kiểu cổ. Bản năng cầu nguyện có trong mỗi người chúng ta, và nó cũng khó lý giải chẳng kém các bản năng khác. Một trong những hình thức của cuộc đấu tranh mờ mịt của cá thể chống lại giống nòi, tôi giả định. Nhưng giống nòi hấp thu tất cả một cách lặng lẽ. Và đến phiên nó, loài nuốt chửng giống, để cho cái ách những người chết đè nát hơn một chút những người sống. Tôi không tin là từ nhiều thế kỉ, không có người nào trong số những tổ tiên của tôi từng cảm thấy ham muốn nhỏ nhất biết được nhiều hơn những người đẻ ra mình. Trong cái làng ở hạ Maine tại đó chúng tôi đã luôn sinh sống, người ta thường nói: cứng đầu như Triquet – Triquet là biệt danh của chúng tôi, một biệt danh xa xưa. Và cứng đầu, ở chỗ chúng tôi, có nghĩa là ngu đần. Này nhé, tôi sinh ra với sự cuồng nhiệt học tập mà các vị gọi là libido sciendi*. Tôi đã làm việc như người ta ăn ngấu nghiến. Khi tôi nghĩ đến những năm tuổi thanh xuân, đến căn phòng nhỏ ở đường Jacob, đến những đêm của thời ấy, tôi cảm nhận một thứ khiếp sợ, sự khiếp sợ gần như tôn giáo… Và để cuối cùng đi đến cái gì? Cái gì? tôi xin hỏi cha. Sự hiếu kì xa lạ với những người trong gia đình tôi, giờ đây tôi giết nó từng phát nhỏ một. Những phát tiêm moóc phin. Và nếu cái đó chậm đến quá… Cha không bao giờ có mưu toan tự tử cả, phải không cha? Sự việc không hiếm, thậm chí nó còn bình thường ở những người thần kinh bị kích thích loại như cha…” Tôi không tìm được gì để trả lời cả; tôi bị thôi miên – “Sự thật là thị hiếu tự tử là một năng khiếu, một giác quan thứ sáu, gì tôi không biết nữa, người ta sinh ra với nó. Hãy ghi nhận rằng nếu làm, tôi sẽ làm điều đó một cách kín đáo. Tôi còn đang đi săn. Bất cứ ai cũng có thể vừa đi qua một hàng rào vừa kéo theo một khẩu súng phía sau mình – pằng! Và buổi sớm hôm sau, bình minh sẽ thấy anh chúi mũi trong cỏ, người đầy sương, rất mát, rất yên tĩnh, với những ngọn khói đầu tiên bên trên các cây, tiếng gà gáy, tiếng chim hót. Thế nào? cái đó không cám dỗ cha ư?” Chúa ôi! Tôi đã tưởng trong một lúc rằng ông ấy biết vụ tự tử của bác sĩ Delbende, rằng ông diễn cho tôi xem vở hài kịch tồi tệ đó. Nhưng không! Ánh mắt của ông chân thật. Và dẫu bản thân tôi cảm động đến mấy, tôi nhận thấy sự có mặt của tôi – vì lí do gì tôi không biết nữa – làm ông thảng thốt, cứ mỗi giây ông lại càng không thể chịu nổi, tuy nhiên ông tự thấy không thể bỏ mặc tôi được. Chúng tôi là tù nhân của nhau. – “Những người như chúng ta phải ở sau đuôi những con bò, ông tiếp tục với giọng trầm đục. Chúng ta không nương nhẹ mình, chúng ta không nương nhẹ cái gì cả. Chúng ta hãy đánh cuộc rằng ở tu viện cha là giống hệt như tôi ở trường trung học Provins. Đức Chúa hoặc Khoa học, chúng ta lao vào, chúng ta lao vào, chúng ta có lửa ở bụng. Và thế nào? Chúng ta đang ở đây trước cùng một…” Ông ngừng lại đột ngột. Lẽ ra tôi phải hiểu, tôi chỉ luôn nghĩ đến việc thoát ra: – “Một người như ông, tôi nói, không quay lưng lại mục đích.” – “Chính mục đích quay lưng lại tôi, ông trả lời. Sáu tháng nữa, tôi sẽ chết.” Tôi đã tưởng ông còn nói về việc tự tử, và chắc ông đã đọc được ý nghĩ đó trong mắt tôi. – “Tôi tự hỏi tại sao tôi lại diễn trò vụng trước cha. Cha có cái nhìn làm người ta có ý muốn kể các chuyện, bất cứ chuyện gì. Tôi tự tử? Thôi đi nào! Đó là trò tiêu khiển của bậc công hầu, của thi sĩ, một sự thanh lịch ngoài tầm tay của tôi. Tôi cũng không muốn cha coi tôi như một kẻ hèn nhát.” – “Tôi không coi ông là người hèn nhát, tôi nói với ông, tôi chỉ mạo muội nghĩ rằng… chất ma túy đó…” – “Đừng nói trăng nói cuội về chất moóc phin… Bản thân cha, một ngày kia…” Ông nhìn tôi với vẻ dịu dàng. – “Cha có bao giờ nghe nói đến bệnh bạch mô hạt ác tính? Không? Hơn nữa, đây không phải là một bệnh cho công chúng. Xưa kia tôi đã làm luận án về nó, cha hãy hình dung. Vì vậy, không cách gì nhầm lẫn, tôi cũng không cần đợi sự xét nghiệm của phòng thí nghiệm nữa. Tôi tự cho mình ba tháng, cùng lắm là sáu tháng nữa. Cha thấy là tôi không quay lưng lại với mục đích. Tôi nhìn nó mặt đối mặt. Khi chứng ngứa quá nặng, tôi gãi, nhưng, biết làm thế nào, khách hàng có những đòi hỏi của họ, người bác sĩ phải lạc quan. Những ngày khám bệnh, tôi chích một ít. Nói dối với những người bệnh là một sự cần thiết của chức nghiệp chúng tôi.” – “Có lẽ ông nói dối họ quá nhiều đấy…” – “Cha tin thế ư?” Ông nói với tôi. Và giọng của ông cũng dịu dàng như thế – “Vai trò của cha ít khó khăn hơn vai trò của tôi! Cha chỉ có việc với những người sắp chết, tôi cho là thế… Phần lớn các sự hấp hối là sảng khoái. Đánh ngã bằng một đòn duy nhất, bằng một lời nói duy nhất, toàn bộ hy vọng của một con người là chuyện hoàn toàn khác. Điều đó đã xảy ra với tôi một hay hai lần. Ô! tôi biết điều cha có thể trả lời tôi, các nhà thần học của cha đã biến sự ước mong thành một đức tính, sự ước mong của cha có hai bàn tay chắp lại. Niềm mong ước thì còn khả thứ, chưa ai từng nhìn thấy vị thần đó rất gần. Nhưng niềm hy vọng là một con thú, tôi nói với cha, một con thú trong con người, một con thú hùng mạnh, và hung dữ. Tốt hơn cứ để nó tự tắt lịm đi rất nhẹ nhàng. Hoặc lúc đó, đừng bắn trượt nó. Nếu cha bắn trượt nó, nó cào cấu, nó cắn xé. Và những người bệnh có lắm mánh khóe biết bao! Người ta hoài công hiểu biết họ, người ta để cho mình bị mắc bẫy ngày này hay ngày khác. Này nhé, một viên đại tá già, một người chịu đựng giỏi của quân đội thuộc địa, người đã hỏi tôi sự thật, với tư cách bạn bè… hừ hừ!…” – “Phải chết dần dần, tôi ấp úng, tập dần cho quen.” – “Những số đen! Cha đã tuân theo sự luyện tập đó, phải không cha?” – “Ít nhất tôi đã thử. Vả lại tôi không tự so sánh với những người thế tục có công việc làm ăn, có gia đình. Cuộc đời một linh mục nghèo như tôi không quan trọng cho ai cả.” – “Có thể. Nhưng nếu cha không thuyết giáo gì ngoài việc chấp nhận số mệnh, điều đó không mới.” – “Sự chấp nhận vui vẻ,” tôi nói với ông. – “Mặc kệ! Con người tự nhìn mình trong niềm vui của mình như trong một cái gương, và nó không nhận ra mình, thằng ngu đần! Người ta chỉ hưởng thụ bằng cách làm thiệt hại đến mình, thiệt hại đến chính bản chất của mình – nỗi buồn niềm vui chỉ là một.” – Cái mà cha gọi là niềm vui, hẳn thế. Nhưng sứ mệnh của Nhà thờ chính là tìm lại suối nguồn của những niềm vui đã mất.” Cái nhìn của ông cũng dịu dàng như giọng nói của ông. Tôi cảm nhận một sự mệt mỏi không thể tả. Tôi tưởng như đã ở đó trong nhiều giờ rồi. – “Giờ đây, hãy để tôi đi,” tôi la lên. Ông rút từ túi ra tờ đơn thuốc, nhưng không đưa cho tôi. Và đột nhiên, ông đặt bàn tay lên vai tôi, cánh tay dang thẳng, đầu cúi xuống, cặp mắt nhấp nháy. Khuôn mặt ông làm tôi nhớ đến những ảo giác của thời thơ ấu của tôi! – “Nói cho cùng, có thể người ta có được chân lí nhờ những người như cha.” Ông lưỡng lự trước khi nói tiếp. Dẫu điều đó có vẻ phi lí đến đâu, các từ đập vào tai tôi nhưng không gợi lên ở tôi một ý nghĩ nào. Hai mươi phút trước đây tôi đã vào ngôi nhà này, nhẫn nhục, tôi có thể nghe bất luận điều gì. Mặc dù tuần lễ cuối cùng ở Ambricourt để lại cho tôi một cảm giác không giải nghĩa nổi về sự an toàn, sự tin cậy, và như cả một sự hứa hẹn hạnh phúc, những lời nói lúc đầu rất làm yên tâm của ông Laville vẫn cứ gây cho tôi một niềm vui lớn. Bây giờ tôi hiểu rằng niềm vui đó chắc hẳn lớn hơn nhiều so với tôi nghĩ, sâu sắc hơn. Nó cũng là cái cảm giác được giải thoát, hoan hỉ mà tôi đã được nếm trải trên đường đi Mézargues nhưng trộn lẫn vào đó là sự hứng khởi của một nỗi sốt ruột khác thường. Trước tiên tôi những muốn thoát khỏi ngôi nhà này, những bức tường này. Và chính xác vào lúc cái nhìn của tôi tuồng như đáp lại câu hỏi không thành tiếng của bác sĩ, tôi chỉ còn chú ý đến tiếng rì rầm mơ hồ của đường phố. Thoát! Trốn! Tìm lại bầu trời mùa đông trong trẻo đến thế, mà ở đó sáng nay tôi đã thấy, qua cửa toa tàu, bình minh dâng lên! Ông Laville ắt đã nhầm lẫn. Vả lại, ánh sáng đã đột ngột hiện ra ở trong tôi. Trước khi ông kết thúc câu nói, tôi đã chỉ còn là một người chết giữa những người sống.

Tiếng La tinh có nghĩa là: Dục vọng hiểu biết, Khát khao hiểu biết.

Ung thư… ung thư dạ dày… Nhất là từ đó đã đánh gục tôi. Tôi chờ đợi một từ khác. Tôi đợi từ “ho lao”. Tôi phải có một nỗ lực chú ý lớn để thuyết phục mình là sắp chết vì một bệnh mà quả thật người ta rất ít tìm thấy ở những người thuộc lứa tuổi tôi. Chắc tôi chỉ nhíu mày như khi đọc đầu đề một bài toán khó. Tôi tập trung tư tưởng tới mức tôi không cho rằng mình đã tái mặt đi. Cái nhìn của bác sĩ không rời cái nhìn của tôi, tôi đọc được ở đó sự tin cậy, sự thông cảm, tôi không biết còn gì nữa. Đó là cái nhìn của một người bạn thân, của một bạn đường. Bàn tay ông lại một lần nữa tì vào vai tôi, – “Chúng ta sẽ đi hỏi Grousset, nhưng để cho trung thực, tôi không tin mấy có thể mổ được cái của bẩn thỉu ấy. Tôi thậm chí ngạc nhiên là ông đã trụ được lâu đến thế. Khối u ở dạ dày rất lớn, tình trạng nhờn dính đáng kể, và tôi vừa mới nhận ra dưới xương đòn trái một dấu hiệu đáng tiếc là rất chắc chắn, cái mà chúng tôi gọi là hạch Troizier. Hãy ghi nhận là sự tiến triển có thể chậm nhiều hay ít, mặc dầu tôi phải nói rằng ở tuổi cha…” – “Ông cho tôi thời hạn bao lâu?” Ông ta chắc còn bị lầm bởi vì giọng tôi không run. Chao ôi! sự bình tĩnh của tôi chỉ là trạng thái sững sờ. Tôi nghe rất rõ rệt tiếng lăn của tàu điện, những tiếng chuông, tôi đã bằng ý nghĩ ở thềm ngôi nhà tang tóc này, tôi đã mất hút trong đám đông chuyển nhanh… cầu Chúa tha tội cho tôi! Tôi đã không nghĩ đến Người. – “Khó trả lời cho ông. Cái đó tùy thuộc chủ yếu ở sự xuất huyết. Nó rất hiếm khi nguy hại, nhưng sự lặp lại thường xuyên… Úi chà! Ai biết được? Khi tôi khuyên cha lúc nãy là cứ tiếp tục một cách thanh thản công việc của mình, tôi không đóng kịch đâu. Với một ít may mắn, cha sẽ chết đứng, như vị hoàng đế nổi tiếng, hoặc gần như thế. Vấn đề tinh thần. Nếu không…” – “Nếu không…” – “Cha bền bỉ, ông nói với tôi, lẽ ra cha sẽ làm một thầy thuốc tốt. Vả lại, tôi muốn chỉ dẫn cặn kẽ cho cha bây giờ hơn là để cha mầy mò trong các quyển từ điển. Này nhé, nếu một ngày nào đó cha cảm thấy đau ở mặt trong của đùi trái, cộng thêm một ít sốt, cha hãy đi nằm. Thứ viêm tĩnh mạch ấy rất thường có trong trường hợp của cha, và cha có nguy cơ bị chứng nghẽn mạch. Bây giờ, cha thân mến, cha đã biết cũng nhiều bằng tôi.”

Cuối cùng, ông trả lại cho tôi tờ đơn thuốc mà tôi tuồn một cách máy móc vào sổ tay bỏ túi của tôi. Tại sao tôi đã không đi ra ngay lúc đó? Tôi không biết nữa. Có lẽ tôi đã không nén được một cử chỉ tức giận, nổi loạn chống lại con người không quen vừa mới tùy ý sử dụng tôi một cách bình thản như sử dụng một tài sản của ông ta. Phải chăng tôi đã quá tập trung sự chú ý vào công việc phi lý là hòa hợp trong vài giây nghèo nàn những ý nghĩ của tôi, những dự định của tôi, cả những kỉ niệm của tôi, toàn bộ cuộc đời tôi với niềm tin chắc mới mẻ nó biến tôi thành một con người khác? Tôi nghĩ đơn giản rằng tôi đã bị sự rụt rè làm tê liệt như thường lệ, tôi không biết chào từ biệt như thế nào. Sự im lặng của tôi làm bác sĩ Laville ngạc nhiên. Tôi nắm được điều đó qua sự run rẩy trong giọng ông. – “Còn có điều là ngày nay có trên thế giới hàng ngàn bệnh nhân trước đây bị các thầy thuốc cho là không thể chữa được mà hiện đang trở thành những người trên dưới một trăm tuổi. Người ta ghi nhận sự tan đi của những khối u ác tính. Dù sao, một người như cha không bị đánh lừa lâu bởi những chuyện nhảm nhí của Grousset, chỉ làm yên lòng những kẻ ngu đần. Không gì nhục nhã hơn là moi dần dần sự thật từ những thầy bói ấy, vả chăng họ thường cóc coi ra cái gì nhũng điều họ kể lể. Với chế độ tắm vòi hoa sen kiểu Scotland, người ta để mất lòng tự trọng và những người can đảm nhất cuối cùng cũng đi theo những người khác và ra đi theo số mệnh, hỗn độn cả một lũ. Hẹn gặp lại trong tám ngày nữa, tôi sẽ đưa cha đến bệnh viện. Từ đây đến đó, cứ làm lễ nhà thờ, cho các bà mộ đạo xưng tội, đừng thay đổi gì những thói quen của cha. Tôi biết rất rõ xứ đạo của cha. Tôi có cả một người bạn thân ở Mézargues.”

Ông chìa tay cho tôi. Tôi vẫn ở trong trạng thái lơ đễnh, đãng trí. Dù có làm gì, tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể hiểu được bởi điều kì lạ gớm ghiếc nào, trong bối cảnh như vậy, tôi có thể quên đến cả tên của Chúa. Tôi cô đơn, cô đơn khôn tả, đối diện với cái chết, và cái chết đó chỉ là sự tước mất cái tồn tại – không gì hơn. Thế giới hữu hình dường như trôi đi với một tốc độ khủng khiếp và trong sự hỗn loạn của những hình ảnh không phải là tang tóc, mà trái lại chan hòa ánh sáng, chói lọi. “Có thể thế chăng? Vậy là tôi đã yêu nó đến thế chăng?” tôi tự hỏi. Những buổi sáng ấy, những buổi chiều ấy, những con đường ấy. Những con đường luôn thay đổi, đầy bí ẩn ấy, những con đường đầy dấu chân người ấy. Vậy là tôi đã yêu những con đường đến thế ư, những con đường của chúng ta, những con đường của thế gian? Đứa trẻ nghèo nào, được nuôi trong bụi của đường, lại không trao cho con đường những giấc mộng của mình? Chúng mang đi chậm rãi, oai vệ, những giấc mộng đó không rõ đến những biển vô định nào, hỡi những dòng sông lớn của ánh sáng và bóng tối, chở giấc mộng những người nghèo! Tôi tin rằng chính cái tên Mézargues đã làm tan nát trái tim tôi như vậy. Ý nghĩ của tôi dường như ở rất xa Ngài Olivier, xa cuộc dạo chơi của chúng tôi; vậy mà lại không hề như thế. Tôi không rời mắt khỏi khuôn mặt viên bác sĩ, và bỗng chốc khuôn mặt đó biến mất. Tôi không hiểu ngay rằng tôi đã khóc.

Vâng, tôi khóc. Tôi khóc không một tiếng nấc, không cả một tiếng thở dài. Tôi khóc, đôi mắt mở to, tôi khóc như đã thấy những người sắp chết khóc; đó còn là sự sống trào ra khỏi tôi. Tôi lau với ống tay áo dòng của tôi, tôi lại phân biệt được khuôn mặt của viên bác sĩ. Ông có một vẻ ngạc nhiên và thông cảm khó tả. Nếu người ta chết được do sự ghê tởm, tôi đã chết, nhưng tôi không dám. Tôi đợi Đức Chúa trời gợi cho tôi một lời nói, một lời nói của linh mục, tôi sẽ trả lời nói đó bằng cuộc đời tôi, bằng những gì tôi còn lại của cuộc sống. Ít nhất tôi muốn xin lỗi, tôi chỉ ấp úng được tiếng đó, những giọt nước mắt làm tôi nghẹt thở. Tôi cảm thấy chúng chảy trong họng tôi, chúng có vị của máu. Có gì mà tôi không cho để chúng đúng là máu, quả vậy! Chúng từ đâu đến? Ai nói được? Chính là không phải vì tôi mà tôi khóc, tôi xin thề như thế. Tôi không bao giờ gần với sự tự ghét mình đến như vậy. Tôi không khóc về cái chết của tôi. Thời thơ ấu, đã có lúc tôi thức dậy như vậy, vừa khóc nức nở. Từ giấc mộng nào tôi vừa tỉnh dậy lần này? Chao ôi! Trước đây tôi tưởng mình đi qua thế gian mà gần như không thấy nó, như người ta bước đi đôi mắt cúi gằm giữa đám đông lộng lẫy, và thậm chí đôi khi tôi hình dung là đã coi thường thế gian. Nhưng lúc đó chính tôi xấu hổ về tôi chứ không phải về nó. Tôi như một người đàn ông tội nghiệp yêu mà không dám nói, cũng không dám tự thú là mình yêu. Ôi! Tôi không phủ nhận những giọt nước mắt này có thể là hèn nhát! Tôi cũng nghĩ rằng đó là những giọt nước mắt yêu thương…

Cuối cùng, tôi quay lưng, tôi đi ra, tôi thấy mình lại ở trên đường phố.

Nửa đêm, ở nhà ông Dufréty

Tôi tự hỏi tại sao tôi không nảy ra ý kiến mượn bà Duplouy hai mươi franc, tôi đã có thể ngủ ở khách sạn. Quả thật là tối qua tôi không còn suy nghĩ nhiều được, tôi thất vọng vì đã trật tàu. Vả lại bạn khốn khổ của tôi đã tiếp tôi một cách thật đứng đắn. Tôi thấy hình như mọi việc đều tốt.

Chắc hẳn người ta sẽ chê trách tôi đã nhận, dù chỉ là một đêm, sự tiếp đón của một linh mục ở trong tình trạng không bình thường (nó là tồi tệ). Cha xứ Torcy sẽ coi tôi là người chuốc khổ vào mình. Cha không sai. Tôi tự nhủ điều đó, hôm qua khi leo cái thang gác hôi thối và tăm tối đến thế. Tôi dừng lại vài phút trước cửa phòng. Một danh thiếp đã hoàn toàn ố vàng nằm đó, đính bằng bốn đinh ghim: Louis Dufréty, đại diện. Thật là khủng khiếp.

Sớm hơn vài tiếng, tôi đã không dám vào, có lẽ. Nhưng tôi không còn một mình nữa. Trong tôi, có cái ấy, vật ấy… Tóm lại, tôi kéo chuông, với niềm hy vọng mơ hồ là không tìm thấy ai cả. Anh đã đến mở cửa cho tôi. Anh mặc sơ mi không, với một quần vải bông mà chúng tôi thường mặc dưới áo dòng, hai chân trần trong giày păng túp. Anh nói với tôi giọng hơi xẵng – “Lẽ ra cha phải báo trước cho tôi. Tôi có một phòng riêng ở đường Onfroy. Ở đây tôi chỉ trú tạm. Ngôi nhà là đê tiện.” Tôi ôm hôn anh. Anh có một cơn ho. Tôi cho rằng anh cảm động hơn là vẻ muốn tỏ ra bên ngoài. Những thứ còn lại sau bữa ăn còn ở trên bàn – “Tôi phải nuôi sống mình, anh tiếp tục với một sự trịnh trọng xót xa, và đáng buồn là tôi ăn không ngon miệng lắm. Cha còn nhớ món đậu ở tu viện? Điều tồi tệ là phải nấu ăn ở đây, tại hốc kê giường. Tôi đâm ghét mùi mỡ rán, thật là dễ bị kích động. Giá như ở chỗ khác, tôi đã ăn ngấu nghiến.” Chúng tôi ngồi bên nhau, tôi hầu như không nhận ra anh. Cổ anh dài ra quá mức và cái đầu ở bên trên cổ có vẻ rất nhỏ, như thể đầu chuột. – “Cha rất dễ thương đã đến. Chân thành mà nói, tôi đã ngạc nhiên là cha đã trả lời các thư của tôi. Ở đằng ấy, cha không có tinh thần quá rộng rãi, nói riêng giữa chúng ta.” Tôi đã trả lời điều gì chẳng biết – “Xin lỗi, anh nói với tôi. Tôi đi rửa ráy một tí. Hôm nay, tôi hơi nhởn nhơ, nhưng đúng ra là hiếm. Biết nói thế nào? Cuộc sống hoạt động có cái tốt. Nhưng tôi không tin là đã trở thành một người ngu độn! Tôi đọc nhiều lắm. Chưa bao giờ tôi đọc nhiều đến thế. Cũng có thể một ngày nào đó… Tôi có kia những ghi chép rất lí thú, rất có thực. Chúng ta sẽ lại nói về vấn đề đó. Ngày trước, hình như cha vận dụng không kém loại thơ mười hai âm tiết* phải không? Những lời khuyên của cha đối với tôi sẽ rất quý.”

Alexandrin: Trong thơ Pháp, loại thơ 12 âm tiết, gọi là 12 pieds (12 chân).

Một lát sau qua cánh cửa hé mở tôi nhìn thấy anh trườn về phía cầu thang, một hộp sữa trên tay, tôi ở lại một mình với… Chúa ơi! Quả thật tôi lẽ ra đã tình nguyện chọn một cái chết khác! Những lá phổi tan ra dần dần như một miếng đường trong nước, một trái tim kiệt sức mà người ta phải khích động không ngừng, hoặc ngay chứng bệnh kì quái của Ngài bác sĩ Laville mà tôi đã quên tên, tôi thấy dường như sự đe dọa của mọi thứ đó ắt phải giữ vẻ hơi mơ hồ, trừu tượng… Trong khi chỉ đưa tay ở bên trên áo dòng vào chỗ mà những ngón tay của viên bác sĩ đã ngừng lại rất lâu, tôi tưởng như cảm nhận… Trí tưởng tượng, hẳn thế? Mặc kệ! Tôi hoài công lặp lại với mình rằng không có gì thay đổi nơi tôi từ nhiều tuần nay, hoặc gần như thế, ý nghĩ trở về nhà với… tóm lại là với vật ấy, làm tôi xấu hổ, làm tôi nản lòng. Tôi đã quá sẵn chiều hướng chán ngấy đối với con người mình, và tôi hiểu nỗi hiểm nguy của một tình cảm như thế, cuối cùng sẽ lấy đi ở tôi mọi sự can đảm. Bổn phận đầu tiên của tôi, ở nơi khởi đầu những thử thách đang chờ đợi tôi, chắc chắn phải là tự giải hòa với bản thân mình.

Tôi suy nghĩ nhiều về sự nhục nhã sáng nay. Tôi cho rằng nó do một sự nhầm lẫn trong phán đoán đúng hơn là do sự hèn nhát. Tôi không có lương tri. Rõ ràng là đối mặt với cái chết, thái độ của tôi không thể là thái độ của những người rất ưu việt hơn tôi, mà tôi khâm phục. Chẳng hạn ông Olivier, hoặc cha xứ Torcy. (Tôi cố tình để kề nhau hai cái tên đó!). Trong một bối cảnh như thế, cả hai người sẽ giữ thứ tao nhã tối cao, nó là sự hồn nhiên, sự thoải mái, của những tâm hồn lớn. Bá tước phu nhân cũng vậy… Ôi! tôi vẫn biết đó là những phẩm chất đúng hơn là những đức tính, chúng không thể tự tạo ra được! Chao ôi! Phải có ở tôi một cái gì của những phẩm chất ấy, bởi vì tôi yêu chúng biết mấy ở những người khác… Như là một ngôn ngữ tôi nghe hiểu rất tốt, mà không nói được. Những thất bại không sửa được tôi. Vậy thì, vào lúc lẽ ra tôi cần đến toàn bộ sức lực mình, cái cảm giác về sự bất lực của tôi làm tôi xúc động sâu sắc đến mức tôi mất dòng liên tục của lòng can đảm khốn khổ nơi tôi như một diễn giả vụng về mất dòng liên tục của bài diễn thuyết. Thử thách này không mới. Xưa kia tôi tự an ủi bằng niềm hy vọng ở một biến cố huyền diệu, không thể dự kiến – sự tử vì đạo có lẽ? Ở tuổi tôi, cái chết có vẻ quá xa vời đến mức trải nghiệm hằng ngày về sự tầm thường kém cỏi của bản thân chúng ta chưa thuyết phục được ta. Chúng ta không muốn tin rằng sự cố đó không có gì kì lạ, rằng nó chắc sẽ chẳng tầm thường kém cỏi nhiều hơn hoặc ít hơn chúng ta, theo hình ảnh của chúng ta, hình ảnh của số mệnh chúng ta. Nó không có vẻ thuộc về thế giới quen thân của chúng ta, chúng ta nghĩ đến nó như đến những miền hoang đường mà chúng ta đọc tên trong các sách. Chính là vừa rồi tôi đã tự nhủ rằng nỗi lo âu của tôi là nỗi lo âu của một niềm thất vọng tàn nhẫn, tức thời. Cái mà tôi tưởng mất hút bên kia những đại dương tưởng tượng lại đang ở trước mặt tôi. Cái chết của tôi ở đấy. Đó là một cái chết giống bất cứ cái chết nào khác, và tôi đi vào đó với những cảm xúc của một người rất bình thường, rất tầm thường. Thậm chí cũng chắc chắn là tôi không hề biết chết tốt hơn là quản lí con người tôi. Ở đó tôi cũng sẽ vụng về, lóng ngóng không kém. Người ta thường nhắc lại với tôi: “Hãy giản dị!” Tôi cố hết sức mình. Giản dị khó biết bao! Nhưng người đời nói: “những người giản dị” như họ nói: “những người khiêm nhường”, với cùng một nụ cười bao dung. Lẽ ra họ phải nói: những ông vua.

Hỡi Đức Chúa trời, tôi hiến dâng cho người tất cả, với tấm lòng thành. Chỉ có điều tôi không biết hiến dâng, tôi hiến dâng như là người ta để lấy đi. Điều tốt nhất là giữ bình thản. Bởi vì nếu tôi không biết hiến dâng, thì Người, Người biết đón nhận… Tuy nhiên tôi những mong được một lần, chỉ một lần thôi, rộng rãi, và hào hoa đối với Người!

Tôi cũng rất bị quyến rũ đi tìm ngài Olivier, đường Verte. Thậm chí tôi đã lên đường, tôi trở lại. Tôi cho rằng, tôi sẽ không thể giấu ông điều bí mật của tôi. Bởi vì trong vài ba ngày nữa, ông ấy đi Maroc, điều đó sẽ không có tầm quan trọng lớn, nhưng tôi cảm thấy giá như ở trước mặt ông, tôi sẽ, mặc dù không muốn, đóng một vai, nói một giọng không phải của tôi. Tôi không muốn bất chấp gì cả, thách thức gì cả. Chủ nghĩa anh hùng ở kích thước của tôi tức là không có nó, và vì tôi thiếu sức mạnh, bây giờ tôi những muốn cái chết của tôi là nhỏ bé, càng nhỏ bé càng tốt, muốn nó không khác biệt với những sự cố khác của đời tôi. Nói cho cùng, chính nhờ sự vụng về hồn nhiên của tôi mà tôi có được sự bao dung và tình bạn của một người như cha xứ Torcy. Có lẽ nó không phải là không xứng đáng với tình cảm đó? Có lẽ nó là cái vụng về hồn nhiên của thời thơ ấu chăng? Dù đôi khi tôi có phán xét mình nghiêm khắc đến đâu, tôi không bao giờ nghi ngờ việc tôi có tinh thần của sự nghèo nàn. Tinh thần của thời thơ ấu giống tinh thần của sự nghèo nàn. Không nghi ngờ gì nữa, hai cái chỉ là một.

Tôi hài lòng đã không gặp lại ngài Olivier. Tôi hài lòng bắt đầu ngày đầu tiên của sự thử thách ở đây, trong căn phòng này. Vả lại đây không phải là một căn phòng, người ta đặt cho tôi một chiếc giường ở một hành lang nhỏ, ở đó người bạn tôi xếp các mẫu hàng bán thuốc. Tất cả các gói ấy thối kinh khủng. Không có sự cô đơn nào sâu xa hơn một vẻ xấu xí nào đó, một sự sầu não về vẻ xấu xí. Một ngọn đèn khí, thuộc những đèn khí được gọi là đèn bướm, tôi nghĩ thế, rít và kêu phì phì trên đầu tôi. Tôi có vẻ như nép mình trong sự xấu xí này, sự nghèo cực này. Giá như trước kia, nó đã gợi cho tôi sự gờm tởm. Tôi hài lòng là ngày nay nó đón nhận sự bất hạnh của tôi. Tôi phải nói là tôi không tìm kiếm nó, thậm chí tôi đã không nhận ra nó tức khắc. Tối qua sau cơn ngất thứ hai, tôi thấy mình ở trên chiếc giường này, ý nghĩ của tôi chắc chắn là bỏ trốn, trốn bằng mọi giá. Tôi nhớ lại trận ngã ngoài trời, trước khoảnh đất rào kín của ông Dumouchel. Thật là tồi tệ. Tôi không chỉ nhớ lại con đường trũng, tôi còn thấy cả ngôi nhà của tôi, mảnh vườn nhỏ của tôi. Tôi tưởng nghe thấy cây dương lớn, những đêm thanh vắng nhất, thức dậy rất lâu trước bình minh. Tôi ngây ngô hình dung trái tim tôi ngừng đập – “Tôi không muốn chết ở đây! tôi kêu lên. Hãy đưa tôi xuống, hãy kéo tôi đến bất kì đâu, cũng được!” Chắc tôi đã không còn tỉnh táo nữa, nhưng tôi vẫn nhận ra giọng nói của người bạn khốn khổ của tôi. Giọng nói đó vừa giận dữ vừa run rẩy. (Anh ta bàn cãi ở chân cầu thang với một người khác). – “Em muốn tôi làm gì? Em không một mình bê anh ta được, và em biết rõ là ta không thể yêu cầu điều gì cả ở người gác cổng!” Lúc đó tôi xấu hổ, tôi hiểu rằng tôi hèn nhát.

Vả chăng, tôi phải giải thích ở đây, dứt khoát chỉ một lần thôi. Vậy tôi tiếp tục lại câu chuyện kể ở điểm tôi đã bỏ nó vài trang trên kia. Sau khi người bạn của tôi ra đi, tôi ở lại một mình một lúc lâu. Đoạn, tôi nghe thì thầm ở hành lang và cuối cùng anh đi vào, vẫn cầm hộp sữa ở tay, rất hổn hển, mặt rất đỏ – “Tôi hy vọng cha sẽ ăn tối ở đây, anh nói với tôi. Chúng ta có thể trò chuyện trong lúc chờ đợi. Có lẽ tôi sẽ đọc cha nghe mấy trang. Đây là một loại nhật kí và nó mang tên: Những chặng đường của tôi. Trường hợp của tôi phải gây hứng thú cho nhiều người. Nó là điển hình.” Trong khi anh nói, chắc tôi đã bị một cơn choáng váng đầu tiên. Anh ép tôi uống một cốc lớn rượu vang, tôi cảm thấy đỡ hơn, trừ một nỗi đau đớn dữ dội ở ngang rốn, nhưng nó dịu dần. “Biết làm thế nào, anh tiếp tục, chúng ta chỉ có máu xấu trong các tĩnh mạch. Các trường dòng nhỏ không hề đếm xỉa đến những tiến bộ của vệ sinh, thật là khủng khiếp. Một thầy thuốc đã nói với tôi: “Các ông là những người trí thức thiếu dinh dưỡng từ bé.” “Điều đó giải nghĩa nhiều điều, cha không thấy thế ư?” Tôi không thể nhịn mỉm cười. – “Cha đừng tưởng tôi tìm cách biện minh! Tôi chỉ ở một phe: phe của sự chân thật hoàn toàn, với người khác cũng như với bản thân mình. Mỗi người có sự thật của mình, đó là đầu đề một vở kịch đặc sắc, của một tác giả nổi tiếng.”

Tôi thuật lại đúng những lời của anh. Chúng sẽ có vẻ buồn cười nếu tôi không cùng một lúc thấy trên mặt anh, dấu hiệu hiển nhiên của nỗi tuyệt vọng, mà tôi không còn trông mong sự thú nhận. – “Nếu không có chứng bệnh ấy, anh tiếp tục sau một lúc im lặng, tôi tưởng rằng tôi luôn ở cùng một điểm với cha. Tôi đọc nhiều. Rồi nữa, khi ra khỏi trại điều dưỡng, tôi phải tìm một địa vị, thử sức mình với may rủi. Vấn đề của ý chí, của sự cả gan, nhất là của sự cả gan. Dĩ nhiên chắc cha phải hình dung không gì dễ hơn là đưa bán các hàng hóa, phải không? Sai lầm, sai lầm nghiêm trọng! Dẫu người ta bán thuốc hoặc bán những mỏ vàng, dẫu người ta là Ford hoặc một đại diện khiêm tốn, vấn đề luôn là điều khiển những con người. Sự điều khiển con người là trường học tốt nhất của ý chí; bây giờ tôi biết một ít về điều đó. May thay, bước nguy hiểm đã qua. Sáu tuần nữa thôi, công việc làm ăn của tôi sẽ ổn định, tôi sẽ được biết những ngọt ngào của sự độc lập. Cha hãy chú ý là tôi không khuyến khích ai theo tôi. Có những lối đi qua đầy khó khăn, và nếu lúc đó tôi không có để làm chỗ tựa cho mình, ý thức trách nhiệm của tôi với một người đã hy sinh cho tôi địa vị rực rỡ nhất và với người đó… Nhưng tha thứ cho tôi sự ám chỉ đến sự việc…” – “Tôi biết việc đó,” tôi nói với anh – “Vâng… dĩ nhiên. Vả lại chúng ta có thể nói về nó một cách rất khách quan. H?