← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHẤT

Mặn tình cát lũy nhạt tình tao khang.

NGUYỄN DU

Tài ngáp hai ba cái liền rồi hỏi mẹ:

- Sao mãi không thấy cậu về mợ nhỉ...?

Bà Sinh vẻ mặt buồn buồn bảo con:

- Nào tao biết đâu với cậu mày!

Câu nói vừa dứt, bà thở dài rồi tự bảo: “Nghĩ mà thêm chán. Nhà với cửa, chẳng còn ra sao cả!”

Tài thoảng nghe thấy câu nói của mẹ. Tuy cậu còn nhỏ - cậu mới lên bảy - nhưng cậu đã mang máng hiểu rằng câu hỏi của mình đã làm mẹ phải suy nghĩ, buồn nản. Cậu hơi hối hận. Như muốn cho mẹ khỏi phải nghĩ ngợi lan man, cậu đã thông minh tìm cách lảng sang chuyện khác. Cậu âu yếm bá vai mẹ rồi khoe lấy khoe để: Mợ ạ, hôm nay con làm tính đúng cả, thầy giáo cho “dix”. Bà Sinh không hiểu “dix” là thế nào, nhưng thấy con có vẻ ngộ nghĩnh cũng khen con:

- Gớm nhỉ! Con tôi giỏi quá!

Tài thấy mẹ như đã bớt vẻ buồn, mừng rỡ nhảy nhót trên sập liến thoắng đọc một bài thơ mới học ở nhà trường:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Bà Sinh nhìn con, nhưng không nói gì, cứ để mặc con đọc tiếp:

Một lòng thờ mẹ kính cha.

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Đến đó, thấy con ngừng, bà chắc con đã quên những câu sau bèn hỏi:

- Rồi làm sao nữa?

- Thưa mợ hết ạ.

- Người ta dạy rằng “một lòng thờ mẹ kính cha” thế Tài có kính cậu và mợ không?

Tài lại ôm chặt lấy cổ mẹ

- Có, con yêu cậu mợ lắm... Nhưng con yêu mợ hơn.

- Tại sao thế?

- Vì cậu cứ hay đi chơi cả đêm để mợ phải chờ.

Câu nói chất phác của Tài lại làm bà nghĩ lan man. Cái ngộ nghĩnh đượm vẻ vô tư lự ở cái tuổi thơ ấu của con giai như phản tượng với tâm hồn buồn rầu của bà lúc đó.

Tài lại ngáp. Bà giục con đi ngủ vì đã hơn mười giờ đêm. Tài lại nhảy nhót trên giường:

- Con chưa buồn ngủ. Con hãy còn tỉnh táo thế này cơ mà!

Nói xong, Tài nhảy mạnh hơn như để tỏ cho mẹ biết rõ rằng mình chưa buồn ngủ. Giữa lúc đó, Huệ, chị Tài ở trong buồng đi ra, giục em: “Chị buông màn cho Tài rồi đấy. Vào mà ngủ. Mười giờ hơn rồi còn gì! Học vệ sinh thì bảo không nên thức khuya mà bây giờ hãy còn nô nghịch mãi!”

Nghe lời chị, Tài rón rén từ trên giường bước xuống, rồi vào buồng trong đi ngủ. Huệ xếp mấy chiếc chén và khay trầu để trên giường, ngay chỗ mẹ ngồi, vào góc một chiếc bàn kê gần đó rồi bảo mẹ:

- Mợ hãy đứng xuống đất một tý, để con buông màn cho mợ ngủ.

Bà Sinh vẫn cứ ngồi yên chỗ cũ, thở dài:

- Thôi được, mày cứ đi ngủ trước đi. Bao giờ tao ngủ tao buông màn lấy cũng được.

Huệ biết ngay rằng mẹ lại cố thức để chờ cha mình. Nhìn thấy cái vẻ mặt gầy còm, buồn nản của mẹ, nàng bỗng đem lòng thương mẹ và có chút ác cảm với cha. Nàng hơi xẵng tiếng nói với mẹ:

- Mợ lẩn thẩn quá! Biết bao giờ cậu về mà chờ mới được chứ! Chẳng làm gì mà tối nào mợ cũng thức đến một hai giờ đêm cho gầy cả người đi!

Trong lời trách móc đó, bà Sinh cảm thấy rõ tình thương của con đối với mình hơn là sự vô lễ, nên bà không những chẳng hề mắng con mà lại còn ra ý nể nang. Bà khẽ bảo con: “Mày cứ nói thế chứ! Hôm nào thì tao cũng thức đến chừng hơn mười một giờ là cùng!”

- Thì mới đêm hôm qua chứ lâu la gì! Con nghe thấy rõ ràng đồng hồ đánh một giờ mà mợ vẫn còn ngồi ở góc giường này - Nàng đưa tay trỏ một góc giường rồi lại nói tiếp: - Con thấy mợ mệt quá, hết tựa lưng vào tường lại nắm tay đấm lưng bình bịch.

Thấy con nói đúng sự thực quá, bà Sinh lẳng lặng, Huệ lại giục mẹ đứng dậy để nàng buông màn. Bà đành chiều ý con. Bà vừa đặt chân xuống đất vừa nói:

- Lúc mà đã không ngủ được thì mày nhốt tao vào trong lồng tao cũng không ngủ được nữa là trong màn.

- Mợ cứ nghe con, tắt đèn rồi đi vào giường nằm là dần dần sẽ ngủ đi được.

Nàng nhanh nhẹn dắt diềm màn xuống dưới chiếu, rồi lấy gối bỏ trong giường. Nàng sai vú già thắp ngọn đèn dầu con để vào một góc bàn rồi nàng tắt đèn điện vào buồng trong đi ngủ. Sắp bước chân lên giường nàng còn giục mẹ:

- Mợ đi ngủ đi.

Thấy con cứ giục giã mãi, bà phát gắt nói to:

- Thì mày cứ mặc tao, việc gì mà phải rối lên thế! Ai khiến mày. Có dễ ai cũng dễ ăn dễ ngủ như mày được hay sao?

Câu nói cuối cùng như để thổ lộ cái buồn chán, nỗi lo nghĩ trong lòng bà hơn là để mắng lại con.

Đã mấy tháng nay, rất ít khi chồng bà ở lại nhà. Ngày nào cũng vậy, bữa cơm chiều xong, ông lại quần áo ra đi. Thường thường vào quãng một hai giờ đêm mới về. Có khi đi suốt đêm, rồi sáng sau đi thẳng ngay tới sở cho tới trưa mới lại trở về ăn cơm. Bà có hỏi han vì lẽ gì, ông chỉ nói là đi xem chiếu bóng hoặc đánh tổ tôm tại nhà một người bạn.

Cái lối vắng nhà đó từ trước tới nay chưa hề có. Bà đem lòng suy nghĩ. Mới đầu bà cũng tin lời chồng. Nhưng dần dần bà nghiệm thấy rằng không phải là đi xem chiếu bóng hoặc đánh tổ tôm. Bà nghĩ:

- Có thực như thế, thì mỗi tháng chỉ độ một hai lần thôi chứ! Sao lại tuần lễ bảy ngày thì tới bốn, năm ngày vắng nhà.

Từ đó bà đem lòng ngờ vực là chồng đã dan díu với một người nào. Bà ra công dò xét. Đã mấy lần, chờ cho chồng ra đi được một lúc bà lẽo đẽo theo sau ngay, cố trốn lẩn để chồng không nhìn thấy rồi dò la cho dễ. Lần thứ nhất, bà thấy chồng vào nhà một người bạn. Bà ngồi ở một hàng xén gần ngay đó. Bà chờ mãi không thấy chồng ra, bà tin ngay là đã thành bàn tổ tôm. Bà yên lòng ra về. Lần thứ hai bà đi theo cũng lại thấy chồng vào nhà quen. Sau hai lần đó, bà tin rằng chồng bà chỉ mê man bài bạc thôi. Cái mê hám đó tuy không làm hài lòng bà nhưng đã khiến bà bớt được sự lo lắng rằng chồng bà đã đa mang thêm vợ con riêng. Một hai lần bà gặp chồng đi chơi quanh ngoài phố với ông Tùng. Bà bớt hẳn lo nghĩ, vì bà biết ông Tùng là người cùng làm một sở với chồng mà lại đứng đắn không chơi bời. Bà đã quen thân với ông vì cái nhà bà đang ở là thuê của ông và tháng tháng ông vẫn tới thu tiền.

Song bà Sinh cũng chỉ bớt lo được một dạo bởi lẽ ông Sinh cứ đi chơi tối luôn luôn... Sự ngờ vực lại trở lại trí óc bà; nhất là bà mới được một người quen kể chuyện rằng ông chỉ tới đó chơi cho đến chừng mười giờ thôi, rồi lại đi chơi chỗ khác và không khi nào ngủ lại nhà người đó. Bà lại bắt đầu dò xét, nhưng cũng chẳng có hiệu quả gì. Chẳng lẽ bà lại đi hỏi dò từng nhà quen xem chồng bà có lại đó chơi không và tới vào giờ nào rồi ra về vào lúc nào. Tuy có giận chồng thực nhưng lòng tự trọng đã can ngăn bà hạ mình làm việc đó. Đêm nay chẳng biết là đêm thứ mấy mươi bà thui thủi ngồi một mình bên ngọn đèn hoa kỳ để chờ chồng. Bà muốn rằng chồng sẽ biết đến lòng tận tâm của bà và nhất là sự ngóng trông của bà trong đêm khuya rồi đem lòng thương đến bà mà tự sửa, sống lại cuộc đời cũ. Bà cũng muốn chờ đợi như thế để hòng có dịp rồi khuyên ngăn chồng. Nhưng đã bao lâu, bà uổng công chờ đợi các dịp đó. Bà ngồi chờ chán buồn ngủ rồi đi ngủ. Chẳng hề thấy bóng chồng về. Hoặc chồng có về thì vừa mới đặt chân vào tới nhà đã mắng át ngay bà:

- Sao không đi ngủ, lại cứ chờ đợi người ta làm gì!

Không để bà nói xen một câu, ông nói dồn ngay:

- Vui chúng vui bạn thì đánh dăm ba hội tổ tôm chứ ai đi ăn trộm ăn cướp gì mà phải đợi với chờ rồi lại than thân là khổ với sở.

Bà nhớ rõ rằng lần nào chồng bà cũng có những câu nói như vậy, hay gần giống như vậy và lần nào chồng bà cũng có cái bộ dạng cau có, làm bà rất khó chịu. Cứ nghĩ rằng cố chịu thức suốt đêm để mở cửa cho chồng mà lại bị chồng gắt gỏng ra vẻ hắt hủi như vậy, bà đã thấy trong lòng uất ức đến cực điểm. Rồi lại những tiếng nói lãnh đạm mà bà thấy chồng thường dùng ít lâu nay như tiếng “ai” hay “người ta”, lại càng khiến bà bực tức, luôn luôn phải suy nghĩ. Trước sự thay đổi về cách cư xử của chồng đối với mình, bà chỉ biết thở dài, giữ kín nỗi buồn riêng trong lòng. Thỉnh thoảng Huệ có dò la hỏi bà xem có chuyện gì, bà chỉ buồn buồn bảo con:

- Chuyện gì! Hình như cậu mày có vợ lẽ giấu giếm ở đâu chứ còn chuyện gì?

Đồng hồ thong thả đánh mười hai tiếng. Các đồng hồ của những nhà gần đấy cũng liên tiếp nhau đánh chuông. Mỗi cái có một thứ tiếng riêng. Có khi len lẫn nhau có khi tách hẳn. Trong đêm khuya yên lặng bà nghe rõ thấy tiếng đó vang ra mồn một. Tất cả nhà đã ngủ. Tiếng ngáy đều đều của Tài từ trong buồng đưa ra yếu ớt như một thứ tiếng từ xa lại, bị luồng gió đánh bạt. Chỉ có những tiếng tíc tắc của chiếc đồng hồ treo trong góc tường là rõ rệt, bật hẳn lên.

Bà Sinh đã thấy người mỏi mệt, xương sống nhức và hai vai nặng trĩu. Bà ngáp mấy cái liền, dựa lưng vào thành ghế, nhưng vẫn còn thấy mỏi. Bà chắc rằng hôm nay cũng như đêm qua chồng bà chẳng về, có cố thức ngồi chờ cũng vô ích, bà mở màn vào giường.

Nằm thẳng người, gối đầu trên chiếc gối bông bà thấy gân cốt như nở giãn. Một cảm giác rất dễ chịu khiến bà không còn thấy mệt nhọc nữa. Bà tưởng rằng đặt mình xuống giường, tất sẽ ngủ ngay được. Nhưng bà vẫn còn trằn trọc mãi. Và bà lại liên miên nghĩ ngợi. Bà nghĩ đến những điều bà đã thường nghĩ tới trong ban ngày. Và ít lâu nay, bà chỉ quanh quẩn ra vào thơ thẩn như người không hồn. Mọi công việc bà bỏ mặc người vú già và Huệ; bà chẳng hề muốn trông nom tới. Cái buồn nản luôn luôn gặm nhấm trí óc, cõi lòng bà, khiến bà không còn thiết tha đến một điều gì. Cả đến Tài mà bà vẫn thường nâng niu âu yếm nay bà cũng như quên hẳn đi, coi như không có đứa con giai đó. Bà chỉ quan tâm đến một người: chồng bà. Vì bà đã hiểu rằng nếu người làm trụ cột đó trong gia đình mà thành ra chơi bời, rồi vợ nọ con kia thì cả nhà sẽ sa vào cái cảnh khổ sở thương tâm. Đã bao nhiêu gia đình, vì người cha ham mê ngườỉ vợ lẽ rồi ruồng bỏ vợ cả, ruồng bỏ cả đàn con phải lâm vào những cảnh đau thương. Bà đã được biết những người đó, bà thương họ và bà lại ghê sợ cho chính bà. Bà nơm nớp sợ rằng sau này bà sẽ không tránh được cái khổ đó. Bà lo cho chính bà thì ít, bà lo cho hai đứa con bà thì nhiều. Bà thường tự bảo: “Con gái thì phải tìm cách gả chồng, mà con giai thì phải lo liệu cho nó ăn học, còn thi cử rồi cũng phải kiếm vợ cho nó. Bỗng dưng mà tay không ra đứng đường thì rồi lấy gì mà lo liệu cho chúng nó!”

Cái ý nghĩ ấy đã làm bà buồn phiền mất ăn mất ngủ. Và bao giờ nó tới óc bà, bà lại thì thầm cầu nguyện: “Lạy trời, lạy phật, đừng có để mẹ con tôi phải đến cái đận ấy”. Cứ mỗi lần bà thốt ra lời cầu nguyện đó, bà lại tin rằng không lẽ nào bà lại sẽ phải sống khổ sở, và không có lý nào chồng bà lại ruồng bỏ bà được. Từ trước đến nay, trong gia đình, bà vẫn giữ địa vị một người vợ hiền, và một người mẹ tận tâm. Càng đi ngược lại những ngày đã qua bà lại tự hiểu rằng mình không hề có điều gì đáng tự trách. Bà chẳng dám khoe là giỏi giang hơn mọi người đàn bà, nhưng cứ so sánh kỹ càng, bà còn hơn nhiều người đàn bà khác, việc nhà bỏ bừa bỏ bãi, không hề chăm nom gì tới.

Bà đi lấy chồng từ năm mười tám tuổi. Và bắt đầu từ cái tuổi đó cho tới năm hai mươi bốn, ròng rã sáu năm trời bà đã phải chịu không biết bao nỗi khó nhọc; bởi lẽ gia đình chồng bà không được dồi dào đồng tiền cho lắm. Ở vào cái thời còn là con gái, bà cũng có nhan sắc. Mấy ông phán, ông tham và nhiều gia đình giàu có trong tỉnh muốn hỏi. Nhưng người mẹ sợ rằng gả vào những chỗ chức tước, nhiều tiền của rồi người ta sẽ khinh nghèo mà hành hạ con gái chăng. Vì vậy mẹ bà đã gả bà cho một nơi quen, cùng tỉnh cùng nghèo như gia đình bà. Sự không chênh lệch ấy, mẹ bà tin rằng sẽ có lợi cho cặp vợ chồng. Khi bà bước chân về nhà chồng thì chồng mới thi đỗ sơ học Pháp Việt và vào trường Bưởi theo học. Chồng bà mồ côi cha ngay từ thuở nhỏ nên cả nhà chỉ quanh quẩn có một đứa ở, người mẹ chồng với bà. Khi mới lấy nhau thì còn ở Kiến An, mọi món tiền chi tiêu trong nhà và tiền học của chồng đều trông mong vào cái cửa hàng xén khá to dọn ngay ở một phố lớn nhất trong tỉnh. Được gần một năm sau công việc buôn bán ở Kiến An không được phát đạt, người mẹ chồng bèn thu xếp về quê ở để trông nom gần chục mẫu ruộng đã tậu được trong thời kỳ buôn bán có lãi nhiều. Hoa lợi của mấy mẫu ruộng không đủ chi tiêu trong nhà và không đủ cho chồng bà ăn học, bà lại phải xoay cách cân gạo bán cho khách buôn. Vì quê bà về ở là một huyện lỵ nhỏ, huyện Kim Thành cách ga xe lửa có hơn hai cây số nên công việc cân gạo cũng dễ dàng. Thường thường một tháng ba hay bốn kỳ bà tải gạo đi Hải Dương hoặc Hải Phòng bán tại bến chợ Sắt. Nhờ sự siêng năng, tháo vát và nhất là cái đức tính tằn tiện của bà, trong nhà cũng bớt túng bấn. Năm chồng bà lên học năm thứ hai thì người mẹ chồng mất. Một mình bà phải cáng đáng lo liệu mọi việc ma chay cho được yên ổn. Cách đó mấy tháng thì bà đẻ Huệ. Thế là trơ trọi chỉ có một mình bà phải vật lộn lo liệu đủ mọi cái để nuôi con trong nhà và nuôi chồng ăn học cho tới lúc thi ra. Chồng bà cũng có mấy người anh họ giàu và đã đi làm có lương cao, có thể giúp được bà trong lúc thiếu quẫn đó; nhưng bà không muốn phiền lụy đến một người nào. Và những người ấy đối với chồng bà cũng ra vẻ lãnh đạm, gần như muốn xa lánh nên bà đã không muốn nối tình thân thiện. Thực là những năm khó nhọc mà có lẽ không bao giờ bà quên được. Bà bắt đầu được an nhàn đôi chút từ năm chồng thi đỗ Thành Chung rồi vào làm Tòa Sứ. Mới đầu bổ về Phúc Yên. Bà thu xếp công việc nhà rồi cùng con gái đi theo chồng, ở Phúc Yên mấy năm thì phải đi Sơn Tây chừng ba bốn năm cho đến bây giờ đổi về Nam Định đã được hơn hai năm.

Từ ngày chồng đi làm là bắt đầu những ngày êm ấm của bà. Cái cảnh chồng một vợ một không có chú, bác, cô, dì nào dính dáng tới để xảy ra chuyện này, chuyện khác không hay cho gia đình đã nhiều lần khiến bà sung sướng, thầm ơn mẹ đã không tham lam những nơi giàu sang để gán gả mình, mà chỉ cầu lấy sự thân yêu lẫn nhau. Đôi vợ chồng đã cùng qua những ngày túng thiếu nên khi nhàn hạ càng thương yêu nhau hơn. Thực không còn cảnh gia đình nào đầm ấm hơn nữa. Ngày ngày người chồng đi làm, bà ở nhà trông nom, thu vén việc nhà và săn sóc đến con cái. Ngày hai buổi đi làm về, chồng bà chỉ quanh quẩn trong nhà, xem báo, hoặc bàn bạc về các việc chi tiêu trong nhà để cố tằn tiện số tiền lương hàng tháng. Cái cảnh sống êm đềm, đầy thân yêu đó đã có ngay từ khi chồng bà mới được bổ đi làm. Cảnh gia đình lại vui sướng thêm khi bà đẻ Tài. Cả ngày bà thấy chồng nô giỡn với đứa con giai, không còn muốn rời nó ra. Trước sự vui vẻ đó mà nghĩ đến những ngày vất vả đã qua, bà cũng thấy ấm áp cõi lòng, bà thấy cả thân thể như rung động bởi một nguồn vui sống, hăng hái. Thực không khác một kẻ đang ở một nơi ẩm thấp, giá rét được vùng vẫy ở một nơi khoáng đạt đầy ánh nắng dịu.

Nhớ lại cái thời qua đó và so sánh với cái cảnh chơi bời đi suốt đêm của chồng trong mấy tháng nay, bà Sinh lại càng lo sợ, buồn rầu. Bà cố suy nghĩ để tìm được mưu kế mà khuyên răn chồng trở lại con đường cũ. Và suy nghĩ mãi bà vẫn chỉ thấy có hai cách: Một là ngọt, hai là xẵng, rồi “làm cho ra chuyện, muốn sao thì sao”. Chỉ có thế. Không cách nọ tất phải dùng cách kia. Càng suy nghĩ bà càng thấy rõ rằng bất cứ bằng cách nào, rồi câu chuyện cũng cần phải “cho vỡ lẽ”, chứ bà không muốn sống trong sự mập mờ mãi như thế này được.

Đồng hồ đánh một giờ. Bà cố lắng tai nghe. Ngoài cửa vẫn không có một tiếng động. Chắc hẳn rằng chồng bà đêm nay lại không về. Bà thở dài:

- Hai đêm liền!

Bà lại suy nghĩ lan man, dần dần người mệt lả rồi bà ngủ thiếp lúc nào không rõ.

Ông Sinh đã thoát. Ông vẫn không quên rằng vợ mình vẫn tìm cách dò la, nên bao giờ cũng vậy, trước khi tới nhà người vợ lẽ, ông hay dùng cái lối rẽ qua vào nhà một người bạn hay một người nào quen uống nước, nói chuyện có khi mất tới hai, ba giờ ông mới ra đi. Nếu chẳng dùng cái mưu kế đó thì ông lại lang thang qua hết phố này sang phố khác rồi mới đến chỗ nhà riêng. Ông đã biết được rằng vợ ông vẫn dò la, vì một buổi tối bất ngờ ông đã nhìn thấy người vợ theo sau: Ông vừa qua một cửa hàng xén, bày bừa bộn những hàng mới sang: nào giây lưng da, nào mùi-xoa và cà-vạt mới, đủ các màu. Ông dừng lại nhìn và trong khi quay trước, quay sau, ông nhác thấy bà Sinh vừa dừng chân ở đầu phố, có lẽ vì đã nhìn thấy ông đứng lại. Từ ngày đó, ông bắt đầu giữ gìn để vợ không biết được đường lối và cũng để nói dối vợ cho dễ, mỗi khi bà hỏi han câu nọ câu kia.

Ông đã đi thoát. Vừa tới nơi, mở cửa bước vào, ông đã thấy Nga ăn mặc chỉnh tề, kem phấn hẳn hoi ngồi chờ ở phòng khách. Nàng đon đả chạy ra, cười cười nói nói, bá vai ông Sinh rồi cố lấy giọng giọt ngào:

- Em chờ anh mãi.

Trả lời câu nói đó, ông Sinh chỉ mỉm cười rồi ôm chặt đầu Nga trên ngực, hôn liền hai cái. Mùi thơm của nước hoa và phấn làm ông thấy rộn rực trong người bởi những cảm xúc mới lạ. Cửa ngoài đã đóng chặt. Nga rót một chén nước to đặt trên bàn và cất tiếng mời:

- Anh uống nước.

Nàng lại vừa cười vừa nhìn chồng nói thêm:

- Nước chè mạn ướp sen, em gửi mua tận Phú Thọ về cơ đấy.

Ông Sinh vui mừng, nâng chén nước uống một hớp to và tấm tắc khen:

- Ngon thật! Kể ra mình cũng sành ăn, sành uống đấy!

Nga lộ ra vẻ sung sướng trên nét mặt. Hai người cùng đắc chí, lẳng lơ nhìn nhau. Nga vào nhà trong mang bộ pỵjama cho chồng thay rồi cả đôi đưa nhau vào trong buồng nằm trên một chiếc giường tây kiểu mới; người nọ gối lên cánh tay người kia thì thầm nói chuyện. Tiếng cười len tiếng nói. Sự vui vẻ, đầm ấm như bao phủ cả người và vật trong gian phòng.

Có hôm ông Sinh ở lại đấy cho tới một hai giờ đêm rồi ra về, cũng có hôm ông ở hẳn lại cho hết đêm. Đó là khi mới bắt đầu gian díu với Nga. Ít lâu nay, thường thường ông ngủ hẳn lại đấy rồi sáng sau đi làm ngay. Cái bầu không khí trong gian nhà của Nga đối với ông có vẻ thân mật, đáng yêu hơn là nhà chính của ông. Mọi cái đều như lưu luyến một cách thầm kín. Không những thế, gần Nga ông thấy cái xuân tươi quyến rũ, trái hẳn người vợ cũ của ông. Hình như Nga cũng hiểu như vậy nên nàng lại càng cố tìm đủ hết cách trang hoàng gian nhà cho ra vẻ sang trọng; và không bao giờ nàng quên rằng khéo trang điểm, phấn sáp thì vẫn dễ lấy được lòng chồng. Bởi thế mà cứ bữa cơm chiều xong là nàng chải đầu, tỉ mỉ lật từng sợi tóc, rẽ cái đường ngôi cho thực thẳng rồi xoa một lớp phấn thực mịn. Nàng chăm chú nhất tới đôi má hồng. Chả thế mà đã mấy lần chồng phải khen nàng là hai má tươi như đôi bông hoa. Các quần áo thì cứ mỗi ngày nàng thay một bộ khác. Tuy nàng đã sống với ông Sinh như đôi vợ chồng và ông cũng đã coi nàng như một người vợ, nhưng nàng vẫn cố tìm cách đóng vai một cô nhân tình. Nàng tin rằng đã chiếm đoạt được lòng chồng bằng cái vẻ đẹp bề ngoài thì nàng chỉ có thể quyến rũ được chồng bằng cách giữ gìn cái vẻ đẹp đó. Nàng đã khôn khéo chiều đãi chồng, không khác gì ngày mới gặp nhau. Nàng cần phải lựa cách khôn ngoan với chồng như thế vì nàng đã biết rằng chồng đã có vợ từ lâu. Nàng vẫn nơm nớp sợ rằng có ngày kia chồng sẽ ruồng bỏ mình để trở lại sống yên tĩnh với người vợ cũ. Vì thế nàng cần phải giữ lấy tình yêu của chồng và hơn nữa nàng lại còn muốn chiếm đoạt hẳn lấy cái tình yêu đó, để rồi chồng mình phải bỏ hẳn người vợ xưa và chỉ biết đến một mình nàng. Nàng đã dự định như thế ngay từ khi nàng mới về ở với chồng và biết chồng đã có vợ cả. Nàng tin chắc chắn với cái xảo quyệt của nàng thì thế nào nàng cũng giữ được phần thắng.

Ông Sinh đã quen biết nàng trong một buổi đi hát với mấy người bạn ở Thái Bình. Cái ngày ấy, một người bạn của ông làm ở sở máy sợi trúng số một trăm đồng, ngỏ ý muốn “khao anh em một chầu” như lời ông nói. Những người bạn đều ưng thuận là ăn xong rồi đi hát. Nhưng trong số bạn mới, có một người bảo cô đầu ở thành Nam thì đã chán lắm rồi, không còn có gì là mới lạ nữa. Người đó bèn bàn định sang hát bên Thái Bình. Người nào cũng muốn đi xa và cũng để so sánh cái lối chơi của “chị em” bên ấy với bên này. Thế là họ đưa nhau sang Thái.

Nga là một đào hát nổi tiếng nhất ở bên đó. Và có lẽ cũng là một ả đào có sắc đẹp hơn cả. Ngay từ tối hát đầu tiên ông Sinh đã để ý tới nàng. Rồi sau cái tối đó, ông không thể rời nàng ra được nữa. Chẳng thứ bảy nào người ta không thấy ông ở nhà Nga. Rồi về sau mê nàng quá, có ngày ông đi làm ở sở ra đi luôn ngay chuyến xe cuối cùng sang Thái, ở lại đó với Nga một đêm rồi sáng sau về chuyến xe thứ nhất để vào sở làm. Ông không hay chơi bời gì. Nhưng ông cũng như nhiều người khác đang sống hiền lành mà bất ưng bước ra ngoài khuôn khổ thì không còn thể tự chủ được nữa. Vì thế mà ông không hề nghĩ đến cách giữ mình, khi đã mê Nga.

Trừ ông, còn nhiều người khác cũng mê man Nga, nên ông lại càng cần phải luôn luôn gần nàng để giữ làm của riêng mình. Ông chiều đãi Nga, và muốn cho Nga không còn mơ tưởng đến một người nào khác, ông đã ăn tiêu một cách rất hào phóng, ông bỏ tiền sắm sửa cho Nga đủ mọi thứ cần dùng, và thỉnh thoảng lại đãi riêng Nga chừng ba, bốn chục đồng để nàng tiêu pha. Cứ như thế trong gần một tháng, Nga đã đem lòng yêu ông, và lúc đó ông mới ngỏ lời muốn lấy Nga làm lẽ. Nàng nhận lời ngay. Để nàng bên Thái Bình thì không còn e sợ vợ cả nhưng lại không tiện cho sự đi lại. Mà lại còn tốn phí nhiều nữa! Ông bèn thu xếp thuê một gian nhà riêng ở con đường Vụ Bản rồi đưa Nga về đó. Các đồ đạc trong nhà, ông bỏ tiền ra rồi chính tay Nga đi sắm sửa lấy. Nàng đã thừa hiểu rằng một gian nhà bày biện sang trọng với những đồ đạc quý giá thì bao giờ cũng lưu luyến người ta hơn. Vì nàng đã nghiệm thấy rằng khi nàng còn là một ả đào, thì khách chơi nào cũng chỉ tìm tới những nhà hát sang, có vẻ giàu, ít khi đặt chân tới một nhà hát nghèo nàn. Bởi thế nàng đã sắm sửa toàn những đồ vật đắt tiền. Giường, bàn, tủ cùng các đồ vật khác đều đóng bằng gỗ lát đánh véc-ni bóng loáng. Bộ sa-lông thì chính là của ông Sinh mang ở nhà tới. Bao nhiêu người đòi mua lại ông đều từ chối, vì mặt bàn và mặt ghế lại ghép bằng sẹo gỗ lúp có vân trông tựa đá hoa mà lại rất nhẹ. Khi ông đưa Nga ở Thái Bình về Nam Định, thấy nàng đòi sắm cả sa-lông, ông thấy tốn phí nhiều quá, ông bèn xoay cách mang bộ sa-lông ấy tới. Ông nói dối Nga là mua lại của một người bạn thân. Còn đối với vợ cả ở nhà thì ông dối rằng ông cho một người bạn mượn để đặt tiệc. Bà Sinh ưng thuận để cho ông mang đi. Lâu lâu không thấy mang về, bà cứ hỏi gặng mãi. Trước ông còn bảo là người bạn muốn mượn trong ít lâu nữa. Sau hết, biết rằng cái cách nói dối đó không được ổn, ông điềm tĩnh bảo vợ:

- Cái bộ sa lông ấy thì mất đứt rồi còn gì. Mình nghĩ cũng dại quá. Mang ngay lại nhà cái người bạn ấy rồi... ông ta bảo rồi sẽ trả tiền mình mà chẳng hề thấy gì. Còn ai dám cất tiếng hỏi tiền ông ta nữa mới được chứ!

Bà Sinh nghe những câu đó của chồng, thực thà tin ngay và bà chỉ biết bảo chồng:

- Thôi thì của thiên lại giả địa.

Từ đó bà không còn nhắc nhỏm đến bộ sa-lông đó nữa. Thế là ông Sinh được yên lòng sang tay Nga. Nàng lại còn đòi sắm chiếc đồng hồ nữa. Ông mua một chiếc đồng hồ con báo thức. Nàng nhất định bảo chỉ dùng tạm chiếc đồng hồ đó, rồi phải mua cho nàng chiếc đồng hồ treo. Nàng đã khôn khéo lợi dụng lúc ông còn mê hám nàng để bắt ông sắm sửa cho đủ mọi vật. Về phần ông Sinh thì không bao giờ ông muốn trái ý người yêu, sợ đeo tiếng là con người keo bẩn. Mỗi khi Nga đòi thức nọ, thức kia mà ông sắm được cho nàng thì ông lấy làm mãn nguyện, sung sướng lắm. Nhưng sắm sửa nhiều quá thành ra ông phải tiêu quá số lương. Vì ông còn muốn giấu người vợ cả nên lương tháng ông vẫn đưa về đủ và tiền sắm sửa cho Nga ông đã phải đi vay lãi. Chiếc đồng hồ treo hạng tốt cũng mất tới hai chục đồng. Ông tính toán, ông thấy món tiền cũng không phải là ít, ông bèn xoay cách. Rồi ông sẽ bảo với vợ cả là đồng hồ nhà chạy không được đúng giờ cho lắm phải mang đi chữa. Ông sẽ mang thẳng lại nhà Nga treo. Sở dĩ nay chiếc đồng hồ hãy còn ở nhà chưa sang tay Nga vì dần dần nàng đã quên hẳn cái ý muốn có chiếc đồng hồ treo trên tường, và nàng không còn nhắc nhỏm đến nữa.

Từ khi đèo thêm cái gia đình thứ hai này, ông Sinh đã bòn mót ở nhà mang đi không biết bao nhiêu đồ dùng, cả đến những vật nho nhỏ như chiếc lọ cắm hoa, cái chao đèn hay chiếc khăn phủ bàn. Khi thì ông lấm lét lấy giấu vợ cả, khi thì ông đường hoàng mang đi, bảo là để chữa lại hay cho một người nào mượn. Ông cứ bồi đắp thu vén cho một gia đình, thì một gia đình cứ kém kém dần. Chẳng khác một con sâu sống trong một thân cây. Thân cây cứ mòn, mòn dần rồi mục nát, và con sâu thì ngày một to lớn mãi lên. Và trong một gia đình thành chểnh mảng, mất hết tình thân mật thì trong một gia đình lại đầy sự yêu thương, đầy sự chiều chuộng lẫn nhau.

Khi đã thu xếp nhà cửa được gọn gàng cho Nga ở rồi, ông Sinh có cảm tưởng như gia đình của mình chính là nhà Nga. Còn người vợ cả và hai đứa con đối với ông đã gần như những người xa lạ. Và những lúc ông trở về nhà với vợ con, ông tưởng như mình đã đặt chân đến một gia đình ở đó ông chỉ có thể tạm trú chân trong ít lâu. Không lẽ bỗng tự nhiên ông bỏ hẳn nhà để ở với Nga rồi không nhìn nhận gì đến vợ và con nữa thì đeo tiếng là ác nghiệt quá rồi những người quen biết người ta chê cười. Bởi vậy nên tuy không muốn, ông vẫn phải gượng sống bên vợ con. Buổi trưa ăn cơm xong, ông kéo một giấc ngủ. Buổi chiều xong bữa, ông khoác áo ra đi. Những ngày thứ nhất bà Sinh không hề giữ ông. Nhưng khi bà đã bắt đầu ngờ vực, bà cố không cho ông đi. Đã một hai lần hai người lôi kéo nhau, ông dằng đi, bà lôi lại đến rách cả quần áo. Rồi không biết làm thế nào, sau hết ông đành chịu ở nhà. Có khi muốn tránh cái cảnh giằng co khó chịu ấy, buổi chiều ở sở ra ông về ngay với Nga rồi ăn cơm ở nhà Nga. Bà Sinh thấy vậy đành phải nhượng bộ. Hễ thấy ông ra đi thì chỉ dùng lời ngọt ngào căn ngăn, ông không nghe bà đành chịu vậy rồi chỉ biết thức suốt đêm để chờ cửa chồng về. Nhiều khi nghĩ lại cái cảnh bỏ vợ một mình để ra đi với Nga, ông cũng thấy hơi tự thẹn. Nhưng dần dần thành một thói quen, ông chẳng hề thấy khó chịu nữa. Mỗi lần vợ có ngỏ lời trách móc, ông lại mắng át ngay: “Rõ khéo lắm, chỉ lo bò trắng răng. Ai người ta chơi bời gì mà phải dò với la, săn với đón!”

Trước vẻ cau có và sự hắt hủi của chồng, bà đành nén lòng chịu vậy; không to tiếng kiếm chuyện sợ hàng xóm chê cười. Tất cả những lời kêu than vì nỗi buồn nản của bà thường thường chỉ gồm trong những tiếng: “Nghĩ mà thêm chán! Nhà với cửa, chẳng còn ra sao cả!”

Đã năm giờ rưỡi chiều, Những người làm trong Tòa Sứ người một đi ra. Gần chục chiếc xe nhà đi đón đã kề cả vào bờ hè. Mấy người thư ký trẻ lững thững dắt xe đạp ra. Họ dừng lại và trâng tráo nhìn Huệ đứng ở ngay ngoài cổng. Một người nói thầm: “Chừng lại một cô ả đào non chờ kép nào trong này chứ gì!” Một người khác bảo bạn đi bên mình: “Hay là của mày đấy! Thú thực đi. Chúng tao không canh ty mất đâu!”. Trong số đó, một thiếu niên ăn mặc đứng đắn, Huyên, ngắm nghía Huệ mãi rồi khẽ nói với các bạn: “Các anh khỉ lắm. Con ông phán Sinh đấy chứ ai!” Mọi người đều không tin. Người thiếu niên muốn chứng thực những lời mình nói và cũng muốn để khoe ta là chỗ quen biết bèn lại gần Huệ. Nàng nhận ra Huyên, người ở cùng một phố với nàng và đã lại chơi với cha mình mấy lần, Huyên lễ phép hỏi:

- Thưa cô, xin lỗi cô, cô muốn chờ ông phán Sinh?

Huệ rụt rè đáp:

- Vâng, thưa ông, cậu cháu đã sắp về chưa?

- Cũng sắp ra. Độ chừng năm phút nữa thôi. Hôm nay ông hơi bận nên phải làm thêm.

Người thiếu niên từ giã Huệ. Các bạn chàng đều giữ vẻ yên lặng đi theo chàng, không dám cợt nhả nữa. Họ thấy Huệ có nhan sắc nhưng cậy phải cố lấy vẻ đứng đắn. Họ e Huệ về mách cha thì rồi ông Sinh lại kiếm chuyện lôi thôi với họ vì họ toàn là những người mới vào làm tập sự, công nhật; còn dưới quyền ông cả.

Huệ chờ đã khá lâu. Nàng thấy nóng ruột, định ra về. Nhưng nghe lời Huyên nàng lại cố kiên tâm đứng chờ thêm. Mẹ nàng giục mãi nàng mới chịu tới đón cha nàng ở đó. Nàng tính vốn cả thẹn. Vả lại đứng chờ ở cổng một công sở rất dễ làm cho nhiều người nghi ngờ. Nàng thấy rõ điều ấy từ khi mới bắt đầu đứng đợi. Mọi người qua đường đều nhìn nàng bằng con mắt khác thường hình như đầy vẻ khỉnh bỉ. Nàng muốn ra về ngay nhưng sợ trở về lại bị mẹ mắng. Vả nàng cũng thương mẹ. Không làm vừa ý mẹ, nàng cũng băn khoăn khó chịu. Cứ nghĩ đến mẹ mấy ngày này không thấy chồng về qua tới nhà, nàng lại buồn bực như muốn khóc.

Vừa đúng sáu ngày, cha nàng không hề lai vãng về tới nhà. Hết ngày thứ ba, thấy chồng không về, bà Sinh đã ra Tòa Sứ đón ở cổng. Nhưng ông đã nhìn thấy bà, e rồi lại có chuyện không hay, ông đành phải bảo người gác mở cổng để ra lối sau. Ba bốn ngày sau cũng vậy, cứ bước chân ra khỏi bàn giấy là ông đã dòm ngó. Và mấy ngày liền ông đều thấy vợ đứng đợi ở cổng, ông lại đành phải lánh mặt. Về phần bà Sinh, bà rất lấy làm khó chịu vì nỗi ra tận sở đón mà ba bốn ngày liền đều không được gặp chồng. Bà uất ức trong lòng không còn thế nào tự chủ được nữa. Bà tưởng như gặp chồng lúc đó thì có lẽ bà sẽ làm xấu xa đến thể diện của chồng. Nghĩ lại những ngày chồng vắng nhà không thể nào bà lại không giận dữ chồng được. Luôn luôn mấy ngày liền sáng cũng như chiều, cứ cơm làm xong bưng lên để trên bàn rồi cả nhà ngồi chờ. Có khi đói quặn cả ruột cũng chẳng dám ăn trước. Cứ bữa sáng không thấy chồng về bà lại hy vọng bữa chiều, rồi qua những ngày sau cũng vậy. Bữa nào bà cũng ra công nấu nướng thật ngon lành. Bà muốn lưu luyến chồng với gia đình bằng cái tài bếp nước của bà. Bà không biết đến sự điếm đót lòe loẹt, hoặc những cử chỉ nũng nịu. Đó không còn là cái tuổi của bà, và ngay từ khi còn là con gái đối với chồng cũng chẳng bao giờ bà có vẻ cợt nhả như Nga thường dùng. Vì vậy bà chỉ biết xoay xở các món ăn, và luôn luôn nấu những món ăn đắt tiền. Bà vẫn nuôi cái hy vọng là trong bữa cơm ngon, chồng bà sẽ được vừa ý, vui lòng, rồi nhân dịp bà sẽ tìm lời êm dịu để khuyên ngăn chồng. Nhưng chẳng bao giờ bà được toại ý, vì các món ăn để cho tới kỳ nguội ngắt mất hết mùi vị chồng bà vẫn không về. Bà lại thấy khó chịu về nỗi có giở cái tài nấu nướng ra chăng nữa, thì cũng chỉ làm mình ăn, chứ người chồng cũng chẳng thưởng thức gì đến. Rồi sau cùng bà chẳng hề dòm ngó tới nữa. Món ăn mặn hay nhạt bà cũng chẳng biết đến. Cái chán nản trong lòng bà như đã khiến bà mất hết cả các xúc quan.

Trong những bữa cơm chờ đợi bà chỉ thương hại Tài. Đói quá không chịu được, cậu nhăn mặt trông rất đáng thương. Con có đòi ăn bà Sinh lại bảo: “Cố chờ một tý nữa thôi. Ngộ cậu mày có về thì cùng ăn cho nó vui nhà”.

Tài ngúng nguẩy, ra vẻ không bằng lòng, bà lại ôn tồn bảo:

- Không chờ cậu thì cậu về cậu đánh tuốt xác ra chứ đừng có tưởng. Đến tao đây cũng còn không dám ăn trước nữa là. Cậu không đi làm thì ai nuôi mày mà mày lại không chờ cậu?

Bà đã cố đe dọa Tài như vậy là bà muốn rằng nếu chồng có về ăn cơm thì sẽ có đông đủ cả nhà. Và như thế thì câu chuyện phân giải của bà sẽ dễ nói, bớt ngượng lời. Thấy mẹ dọa, Tài cũng đành cố chờ, có khi đói quá, cậu nằm lả trên một góc giường rồi ngủ thiếp đi, đến lúc gọi dậy cho ăn cũng uể oải không buồn ăn, rồi sau một hai bát cơm, mồ hôi chảy ra như tắm cả người khiến cậu mệt quá ngồi không vững. Bị hai bữa như thế, bà Sinh sợ quá, bữa nào cũng cho Tài ăn cơm trước, chỉ có bà và Huệ chờ. Thường thường bữa sáng hai mẹ con chờ cho tới gần một giờ chiều, và bữa tối chờ mãi tới bảy giờ, bảy rưỡi mới ăn. Những món ăn tự tay bà nấu ra và quả thực là những món ăn ngon mà khi nhai trong miệng, bà chẳng hề thấy có mùi vị gì. Huệ thì đói quá cũng chỉ ăn cho no, chẳng để ý đến món nào ngon, món nào nấu khéo. Trong bữa cơm đã thiếu hẳn một thứ gia vị rất tốt là sự vui vẻ đoàn tụ của gia đình.

Cứ chờ đợi như thế tới ba bốn ngày liền. Rồi sau hết, ngày hai buổi bà thân chinh đi đón chồng tựa một người mẹ hay người vú già đi đón một đứa trẻ ở trường học ra để tránh xe pháo ngoài phố. Nhưng lần nào bà cũng bị chồng lánh mặt. Cứ bà chờ ở cổng này thì chồng lại trốn bằng cổng kia. Có khi ông lại liều lĩnh về trước giờ. Lần này bà sai Huệ ra đón. Bà vẫn mong mỏi chồng về tới nhà được gặp mặt rồi bà sẽ “làm cho ra chuyện”, bà không muốn sống trong cái cảnh chập chừng này nữa. Bà thúc giục mãi, Huệ mới chịu đi. Khi nàng đã ra tới cửa, bà còn kỹ càng dặn thêm:

- Con phải khéo nói mới được. Cứ bảo thằng Tài nó bị sốt nặng đã hai hôm nay thì cậu về xem nó ra sao để còn thuốc thang cho nó.

Huệ thấy mẹ là người kỹ càng vẫn hay kiêng nói gở miệng như vậy mà lần này lại phải dùng đến cái mưu kế đó. Nàng định cãi lại mẹ và bảo mẹ tìm một cách gì khác thì mẹ lại tiếp lời:

- Thôi thì cứ nói trí trá như thế vậy con ạ. Mẹ đã nghĩ chán rồi, chả còn kế gì để gọi cậu mày về nữa...

Bà đã gióng một dặn con, nghẹn ngào nói chẳng ra lời và chẳng được rõ câu. Huệ nghe mẹ. Trong cái giọng nói đầy nước mắt của mẹ, nàng đã thấy rõ cái khổ tâm của mẹ trong ít lâu nay. Nàng lẳng lặng ra đi, thất thểu bước một, mẹ nàng còn đứng trên bục cửa. Nàng không dám quay lại nhìn mẹ. Nàng biết rằng nhìn lại nét mặt buồn buồn và cái hình vóc gầy còm của mẹ trong lúc đó hẳn nàng sẽ không cầm được nước mắt.

Khi Huệ tới sở thì mới gần năm giờ. Nàng đã đứng mất tới hơn nửa giờ. Nàng nóng ruột quá, chẳng hiểu rồi có được gặp cha không. Khi thấy các người làm cùng sở đã tản mát ra về gần hết, mà chưa thấy cha nàng ra, nàng nhấp nhô nhìn quanh, trong lòng hơi thất vọng tưởng rằng cha mình đã trốn mình để về từ lâu. Thấy thầy Huyên nói cha nàng còn ở lại và chừng năm phút nữa sẽ ra, Huệ lại cố công đứng chờ, hai mắt luôn luôn nhìn vào cái cửa chính của các buồng giấy. Nàng tin rằng cẩn thận như thế thì cha mình không còn cách nào trốn lẩn được nữa.

Mà thật, một lúc sau nàng thấy cha từ buồng giấy bên trong cầm mũ đi ra. Nàng vội vàng chạy xổ vào và gọi to:

- Cậu! Cậu!

Ông Sinh biết rằng không còn có thể trốn tránh được đành phải mau bước lại gần chỗ con đứng. Ông đưa mắt nhìn con, trong đôi mắt như chứa chấp không biết bao sự hối hận. Đối với đứa con đứng trước mặt, ông có ý nghĩ như đã phạm một tội nặng. Trong cái vẻ nhìn ngây thơ của Huệ, ông tưởng như có ngụ những lời trách móc sâu xa. Cái cảm giác ấy đã khiến ông thành ra nể nang Huệ lúc đó, nể nang gần như sợ sệt. Ông cố trấn tĩnh, giữ vẻ mặt bình tĩnh hỏi con:

- Mày đi đâu?

Đặt xong câu hỏi đó, ông đưa mắt ra xa, không dám nhìn Huệ, vì ông biết ngay rằng đó là một câu hỏi thừa vì Huệ đã biết chắc rằng vì sao phải tới đó, hẳn cha mình đã rõ. Huệ chưa kịp đáp lại câu hỏi của ông, ông đã nói tiếp ngay:

- Mợ mày cho mày đi tìm cậu phải không?

Huệ vẫn còn rụt rè: nàng chỉ e sợ cha sẽ mắng mỏ mình về nỗi đã sỗ sàng vào tới tận trong sở mà gọi lên và nàng lại còn sợ cha sẽ tức giận về nỗi đi săn đón như đi tìm một khách nợ. Bỏi vậy nàng chưa dám cả quyết nghe lời mẹ nói ra nhưng câu mẹ dặn dò. Vả lại đó là những câu dối trá nên cứ mỗi khi gần nói ra, nàng lại thấy ngượng ngùng quá.

Ông Sinh thấy con ra vẻ sợ sệt, không nói gì, ông lại hỏi:

- Mợ mày cho tìm tao có việc gì?

Lúc đó Huệ mới dám trả lời:

- Thưa cậu, mợ bảo cậu về ngay vì ở nhà em Tài bị sốt.

Rồi nàng chỉ còn như cái máy nói nhắc lại những lởi mẹ dặn như một người học trò đọc bài:

- Em Tài sốt đã hai ngày hôm nay. Cậu về xem có thế nào còn liệu thuốc thang cho em...

Nghe con nói, và nghĩ lại những ngày bà Sinh đã tới cổng đón mình, ông bỗng như có linh khiếu làm ông ngờ ngợ ngay rằng đó là một điều bịa đặt, một mưu kế lừa lọc để ông phải về nhà. Song ông vẫn không dám tin hẳn ở cái linh khiếu đó, và cũng hơi lo lắng, e rằng đó là sự thực. Ít lâu nay đối với con cái trong nhà, ông tỏ vẻ rất lãnh đạm. Cả đến Tài, đứa con giai mà ông vẫn nâng niu, yêu quý, nay ông cũng chẳng hề lưu luyến. Ông đã gần như quên rằng mình có đứa con giai đó. Cái tin Tài bị sốt nặng bỗng làm ông xúc động. Và trong giây lát, tình thương yêu con lại trở lại lòng ông. Ông thấy trong người xao xuyến, lo lắng. Huệ đã nhận rõ thấy vẻ mặt buồn rầu của cha sau mấy câu hỏi của mình. Nàng thương hại cha và như hơi hối hận đã nghe lời mẹ dối trá để cha mình phải buồn bực. Ông Sinh không được vững dạ hỏi thêm:

- Em nó sốt làm sao?

Đã trót nói dối, Huệ đành phải cứ theo đà nói dối mãi. Và bây giờ thì nàng không còn nhắc lại lời mẹ nữa. Nàng đã dùng cái trí thông minh của nàng để bịa đặt cho thêm phần quan trọng:

- Thưa cậu, em nó sốt to lắm, rên suốt ngày suốt đêm. Mồ hôi chảy ra như tắm. Nó chẳng chịu ăn uống gì cả. Người gầy còm xanh xao lắm.

- Thế mợ mày đã cho uống thuốc gì chưa?

- Chưa, mợ con lo lắng quá, cả ngày chỉ ngồi bên em Tài khóc lóc. Mợ còn chờ cậu về để xem sao. Cả ngày mợ con chỉ thở dài kêu than là khổ với sở.

Nói đến đây, Huệ nhớ rõ lại nỗi băn khoăn uất ức của mẹ trong những ngày mong đợi cha mình, bỗng nhiên lòng thương mẹ khiến nàng vừa nói với cha vừa nghẹn ngào như muốn khóc. Ông Sinh thấy vậy lại càng tin là có thực. Ông ôn tồn bảo Huệ:

- Được, con cứ về trước. Rồi cậu sẽ về sau.

Huệ sợ rằng cha sẽ lại trốn tránh, lại bảo cha bằng một giọng rất tha thiết: “Cậu về ngay bây giờ mới được. Mợ con ở nhà đang mê mẩn cả người”.

- Thế nào cậu cũng về mà. Cậu ra đằng này có chút việc cần chỉ độ mươi phút thôi.

Nói xong, sợ rằng Huệ lại kiếm lời lôi thôi nữa, ông vội vàng đi ra cổng sở rồi gọi xe đi về phía ga, Huệ tưng hửng nhìn cha, rồi tự bảo thầm:

- Chẳng biết rồi có về hay đi mất tăm mãi!

Ông Sinh ngồi trên xe lại bắt đầu nghi ngờ rằng đó chỉ là một mưu kế của vợ cả bày đặt ra. Khi còn đứng trước Huệ, thấy cái vẻ mặt buồn buồn và cái giọng nói cảm động của con, ông đã sẵn lòng tin, nhưng bây giờ xa con, chẳng hiểu tại sao, sự nghi ngờ bỗng nhiên lại nẩy nở trong trí óc ông.

Ông bảo xe kéo về phố Nga ở. Khi tới nhà, cũng như mọi ngày khác, ông thấy Nga đã chờ ở cửa. Nàng tươi cười nhìn ông, ra chiều âu yếm. Và trong giây phút đó, ông đã gần quên hẳn cái chứng sốt của Tài mà Huệ đã kể cho ông nghe; ông lại không muốn trở về nhà nữa. Sự thực thì trong tuần lễ vừa qua, ông cũng chỉ muốn ở sở ra thì qua lại với Nga một chút rồi về nhà. Nhưng cứ đặt chân tới chỗ Nga ở ông lại thấy ngay sự lưu luyến của gian nhà. Sống bên Nga mà nghĩ lại cái gia đình của mình - người vợ suốt ngày bận bịu, hai đứa con quanh quẩn - ông Sinh bỗng thành chán cảnh nhà. Đã bốn mươi tuổi mà được sống bên một cô gái hai mươi, luôn luôn ngọt ngào bằng những tiếng “anh, em” hay “mình”, ông thấy như trẻ hẳn lại và vui thích hơn là sống bên một người vợ ngoài ba mươi, chỉ kém mình chừng hai ba tuổi, đã trở về già, con cái đìu iu. Không phải là bà Sinh đã hết xuân, đã có trai, có gái nên ra vẻ thờ ơ cùng chồng; chính bà cũng cố tìm cách chiều đãi để lấy lòng ông. Nhưng cái chiều đãi của bà ở chỗ khác: Bà năng nổ việc nhà, trông nom con cái, rồi cơm nước được ngon lành. Bà không có cái lối cợt nhả, lẳng lơ của Nga thường dùng. Còn về trang sức thì bà chỉ biết ăn mặc cho đứng đắn sạch sẽ dễ coi. Chẳng bao giờ bà nghĩ đến sự “tô son điểm phấn” để làm tăng vẻ người. Đến ngày từ khi còn là con gái bà cũng không hề nghĩ đến sự trang điểm lòe loẹt nữa là ngày nay đã gần trở về già! Lúc nào bà cũng tự bảo thầm: “Đẹp người không bằng đẹp nết”. Chính cũng vì thế mà ông Sinh đã như chán bà. Ông chỉ còn coi bà gần như một người vú già cần mẫn ngoan ngoãn trong gia đình. Và ông tìm cách xa lánh bà để luôn luôn được quanh quẩn bên Nga.

Cũng như mọi buổi khác, khi chồng đi làm về, Nga vội vàng đi lấy nước rửa mặt và bưng ra một tách nước chè mạn ướp sen.

Trước kia ông Sinh không hề biết uống nước chè. Từ ngày ở với Nga ông thành ra nghiện thứ chè đó. Khi mới được Nga đãi chén nước chè đó, ông ngượng ngùng không muốn dùng, nhưng thấy Nga ân cần, ông cố tự ép uống để chiều lòng nàng. Rồi sau một hai lần thành nghiện. Đến nỗi khi về nhà với vợ cả, ông uống nước nụ thấy khó chịu không được vừa lòng.

Ông Sinh súc miệng uống hết hai tách nước chè nóng liền rồi bảo Nga: “Hôm nay mình ăn cơm một mình nhé. Tôi phải về qua đằng nhà, hình như thằng bé ốm”.

Nga vội níu áo chồng lại: “Ai ốm! Thôi mình đừng dối tôi”.

- Thực đấy mà! Hôm nay con bé nhớn ra sở tìm. Thằng bé con bị sốt đã hai ngày rồi...

- Thôi, tôi còn lạ gì! “Bà ấy” lại đặt chuyện ra để dối anh chứ gì! Cứ kệ, ở đây ăn cơm rồi nghỉ cho nó khỏe người. Chẳng tội gì anh ạ.

Ông Sinh thấy Nga ra vẻ săn sóc cũng muốn ở lại nhưng e ở nhà Tài ốm thực mà cứ bỏ vạ cho một mình vợ thì không đành lòng, ông bèn bảo Nga: “Tôi chỉ đi một lúc sẽ về ngay. Cứ chờ tôi về tôi ăn cơm với”.

Nga vui vẻ nhìn chồng nũng nịu:

- Thực đấy nhé! Mình đừng để tôi phải chờ lâu quá! Tôi giận đấy nhé!

Ông Sinh mở cửa đi ra.

Khi đã sai Huệ ra sở đón chồng, bà Sinh ở nhà lại ra công làm một bữa cơm ngon. Trừ món gà tần, món dấm ghém, bà còn làm thêm hơn hai chục chiếc chả rán. Bà vừa nấu nướng vừa cố suy nghĩ để xếp đặt câu chuyện, lựa cách phân trần với chồng về việc trong gia đình sao cho êm thấm. Bà tin rằng thế nào chiều nay chồng cũng về. Một lẽ vì bỏ nhà đã từ lâu, và một lẽ nữa chắc chắn hơn là bà đã dặn Huệ nói dối Tài ốm. Bà vẫn tin rằng điều đó sẽ làm chồng phải nóng ruột lo sợ, dù có ghét bỏ bà chăng nữa.

Gần sáu giờ, Huệ trở về nhà. Thấy con nói “Thế nào cậu con cũng về nhưng về sau” bà càng nóng ruột trông ngóng. Bà mong đợi chồng với sự sung sướng pha lẫn chút lo ngại. Sung sướng vì hy vọng sẽ có thể lại được hòa hợp cùng chồng trong gia đình, và lo ngại rằng cái cảnh sống hiện tại cứ giằng dai mãi như vậy.

Bữa cơm nóng sốt vừa bày trên bàn, thì ông Sinh ở trên xe bước xuống. Trả tiền xong, ông vội vã bước vào nhà trong, vứt chiếc mũ trên chiếc ghế ngựa kê gần ngay đó. Bà Sinh nhìn thấy chồng bẽn lẽn lo sợ vì nỗi đã phải tìm cách dối trá. Chồng bà như hơi tự hổ đã bỏ nhà đi mấy ngày liền. Ông cố đánh bạo hỏi vợ, nhưng hỏi tựa như người còn trống không:

- Thằng Tài sốt siếc làm sao? Để nó nằm đâu?

Bà chưa biết trả lời sao, thì Tài, vú già vừa tắm cho xong, ở ngoài sân đi vào. Tài nhảy nhót lại gần cha, reo to lên:

- Cậu! A, a! Cậu đã về!

Tài ôm chặt lấy cha hỏi luôn.

- Sao hôm nay cậu mới về nhà?

Ông Sinh ngượng ngùng trước câu hỏi của con, tìm cách lảng chuyện:

- Sao bảo con sốt?

Tài ngây ngô chẳng hiểu gì, cứ thực thà bảo cha: “Con chả sốt bao giờ cả. Con vẫn đi học đấy chứ!” Rồi Tài mang chuyện chờ cơm, bị đói lả nằm ở góc giường liến thoắng kể lại cho cha nghe. Tài vỗ bụng “bốp, bốp” rồi trợn hai mắt tròn xoe nói: “Gớm, con đói, đói lả! Con bảo ăn cơm, mợ cứ bắt chờ cậu mãi”.

Bà Sinh đang soạn bát đĩa trên bàn để sắp sửa ăn cơm, nghe giọng nói ngộ nghĩnh của con phải bật cười. Bà sung sướng rằng bất ngờ con bà đã làm được một việc bà thường mong ước: Tỏ cho chồng hay rằng ngay những lúc vắng chồng bà cũng vẫn là người vợ hiền, chỉ nghĩ đến sự chiều chuộng chồng.

Tài không thấy cha ngắt lời mình lại nói luôn: “Hôm nào mợ cũng làm cỗ to to là, để chờ cậu về ăn, chờ mãi cậu không về, cả nhà lại ăn hết!” Tài nuốt nước dãi đánh “ực” một cái rồi lại nói to: “Gớm, ngon ngon là!”

Bà Sinh thích chí lại thẳng thắn cười to. Ông Sinh nghe con nói cũng không sao nín được cười. Khi đặt chân về tới nhà và biết rằng mình đã bị vợ đánh lừa, ông tức tối trong lòng và ông tưởng như ông sẽ có thể thành độc ác, hành hạ vợ một cách tàn nhẫn được. Nhưng cái ngộ nghĩnh của đứa con kháu khỉnh đã bất ngờ làm tan được cái tức tối đó và đã gây trong lòng ông những tính tình vui vui, rộng lượng. Nghe lời con nói lại những bữa cơm vừa qua, ông khẽ đưa mắt nhìn trộm vợ và ông hơi thấy lòng rung động về sự tận tâm của vợ. Những kỷ niệm quá khứ trong cảnh đời vất vả khi ông còn là người học trò dồn dập trở lại trong trí nhớ. Và lòng hối hận đã ruồng bỏ người vợ cũ khiến ông thành buồn buồn nét mặt. Trong giây phút đó, ông bỗng thấy mình ở vào một tình thế rất khó xử. Bỏ vợ cả và hai con đẻ để ở với Nga thì không đành lòng mà bỏ hẳn Nga để trở lại sống cuộc đời cũ, thì lại cang không được nữa. Vì ông đã tự hiểu rằng không thể nào xa hẳn được Nga. Ông đã quá say mê nàng rồi.

Bà Sinh đưa mắt nhìn chồng. Thấy chồng có vẻ suy nghĩ, bà biết rằng cái cảnh gia đình dưới mắt ông đã làm ông phải băn khoăn. Bà biết ngay đó là lòng hối hận. Bà tuy có giận chồng nhưng trong lúc đó thấy cái vẻ buồn phiền của chồng bà cũng đem lòng thương hại. Hình như đó là một lòng thương đối với một kẻ đã trót lầm lỡ hơn là của vợ đối với chồng. Bà rụt rè khẽ cất tiếng mời chồng:

- Ông đi ăn cơm cho các con chúng nó ăn với...

Nghĩ đến câu chuyện Tài vừa kể cho cha nghe, bà lại nói thêm:

- Kẻo rồi thằng Tài nó lại đói lả như mấy hôm nọ.,

Bà thấy chồng vẫn ngồi im chỗ cũ và không nói gì, bà nhìn Tài rồi ngọt ngào nói:

- Con giai của mợ mời cậu sang ăn cơm hộ mợ chứ.

Mẹ vừa nói dứt lời, Tài nhanh nhẩu cầm cánh tay cha lôi sang bàn ăn. Ông Sinh ngớ ngẩn như cái máy, ngoan ngoãn theo con ngồi trước. Tài kéo chiếc ghế ngồi ngay bên cha. Tiếp đến bà Sinh và Huệ. Đã hơn tuần lễ nay mới lại thấy cảnh cả nhà sum họp quanh bàn ăn. Song bữa cơm không hề có vẻ được tự nhiên, vui vui như hồi ông Sinh chưa hề bỏ nhà đi. Hai vợ chồng ngượng ngùng trong khi ăn. Chẳng khác gì hai người khách lạ bị ghép ngồi ăn cùng một mâm với nhau. Hai vợ chồng như cố tránh nhìn lẫn nhau. Bà Sinh tưởng như đó là bữa cơm đầu tiên bà cùng ngồi ăn với chồng khi mới về làm dâu. Nhưng cái rụt rè, e lệ hồi đó có một cái thú vị rạo rực; còn bây giờ sự giữ ý tứ trước mặt nhau chỉ như để giấu giếm những tính tình riêng. Đôi con mắt thỉnh thoảng trộm nhìn nhau không phải là để tỏ chút tình tứ như trong thời kỳ mới bắt đầu chung sống, mà chỉ để dò la lẫn nhau rồi liệu cách xoay chiến lược với nhau.

Trước cái cảnh bất hợp của cha mẹ. Huệ cũng thành sợ sệt, rụt rè trong khi gắp, khi nhai. Chỉ có Tài là vẫn giữ cái vẻ ngộ nghĩnh. Đòi ăn hết món này sang món khác rồi cười nói luôn luôn. Cái ngây thơ của đứa trẻ thực là một phản tượng đau đớn cho tâm hồn của hai vợ chồng trong lúc đó.

Bà Sinh chỉ muốn dậm dựa vào con để tìm cách gây thiện cảm cùng chồng. Bà khẽ cất tiếng, như muốn nói một mình:

- Cái thằng ấy nó quý cậu nó lắm đấy! Mấy hôm không có nhà mà nó cứ nhắc đến luôn.

Sau câu nói khơi mào đó, bà định lựa nhời để quay sang câu chuyện phân trần, nhưng cứ sắp bắt đầu thì bà lại thấy ngượng ngùng. Thấy nét mặt có vẻ quá ư nghiêm trọng của chồng, bà lại càng thành e dè hơn. Bà cố ý nghĩ rằng nếu chẳng nói ra trong bữa cơm này thì hẳn chẳng còn dịp nào nữa. Nhưng bà vẫn không có can đảm lên tiếng. Sau hết bà nghĩ thầm: Xong bữa rồi sẽ hay, đang ăn, chuyện nọ chuyện kia rồi lại mất ngon. Có lẽ đó là một câu mà vì sự nhút nhát trước mặt chồng bà đã viện ra với chính mình để có cớ hoãn binh hơn là bà sợ chồng ăn sẽ không thấy ngon miệng. Với cái ý nghĩ trên đây bà lại yên lặng ngồi ăn.

Ông Sinh cũng không ăn gì nhiều. Có lẽ muốn lấy lòng vợ để vợ khỏi tủi về sự tận tâm của mình, ông đã ăn chừng vực bát cơm, ăn nửa cái chả rán rồi uể oải đứng dậy. Bà Sinh cố lấy vẻ tự nhiên mời:

- Ông ăn thêm mấy miếng chả nữa.

Ông khẽ đáp như nói trống không:

- Thôi, no rồi.

Bà Sinh rất khó chịu về câu trả lời ngắn ngủi đó. Không còn lấy một chút của cái giọng thân mật, âu yếm khi xưa; chỉ chứa đầy sự thờ ơ ghẻ lạnh. Tài láu lỉnh bảo cha:

- Cậu ăn ít để còn dành cho mợ và con đấy mà!

Đáp lại câu nói của con, ông chỉ biết mỉm cười. Thực là cái mỉm cười chua chát cho cõi lòng ông. Câu nói của đứa con không ngờ đã là một lời trách móc sâu xa. Vì sự thực có phải đâu như đứa con nhỏ đã tưởng. Đã từ lâu, nào ông còn nghĩ gì đến vợ và con! Trước kia thì thường thường lòng thương vợ và hai đứa con đã nhiều lần làm ông tằn tiện nhiều cái để nhường nhịn cho những người đó. Trong bữa cơm, có món gì ngon, bao giờ đến miếng cuối cùng mà vợ giục ông ăn nốt, ông cũng có nói một câu dưới đây.

- Thôi để dành lại cho mợ và em Tài.

Tài vẫn còn nhớ những bữa cơm sung sướng đó và nay thấy cha ăn ít cậu lại tưởng nhớ đến sự nhường nhịn khi xưa. Nào ngờ đâu câu nói chỉ nhắc lại một kỷ niệm đau đón cho người cha, vì ông đã ăn ít là chỉ bởi ông ăn không thấy ngon miệng lắm. Một phần tại ông đang lo nghĩ trong lòng. Nhưng một phần lớn cũng tại thiếu n