← Quay lại trang sách

ĐOẠN KẾT

Bà Sinh chạy ra rồi lại chạy vào, thì thầm một mình:

- Sao mà lâu thế không biết! Giây thép thì về từ sáng sớm mà người thì chưa thấy tăm hơi đâu cả!

Bà lo lắng nói ra câu đó vì bà e sợ đã có điều gì không hay xảy ra cho Tài. Chẳng hiểu tại sao bà nóng ruột tưởng như con trai bà đã mắc tai nạn. Thỉnh thoảng bà lại lên tiếng hỏi mẹ:

- Sao cái thằng Tài lại lâu về thế bà nhỉ? - Chắc nó còn đi chơi báo tin mừng cho các bạn bè chứ còn đi đâu.

Nghe mẹ nói vậy, bà cũng hơi được vững dạ.

Tài vào thi kỳ thư ký phủ Toàn Quyền đã từ hai ba ngày nay. Bà Sinh ở nhà hết sức ngóng đợi tin tức con. Bà chẳng hề đọc báo hàng ngày bao giờ mà trong mấy hôm liền bà cũng sai Bớt ra hiệu sách mua báo về xem tin thi cử của con. Ngày được biết Tài đã vào vấn đáp bà hơi vui vui. Đến hôm nay bà lại nhận được giây thép của Tài đánh về, nói là đã đỗ hẳn và chiều nay sẽ trở về Kiến An. Được tin ấy bà đã reo to vỗ tay vui mừng tựa một đứa trẻ, bà nói cho mẹ rõ. Bà khoe với cả cô con gái út và người vú già. Thực là một ngày vui cho tất cả nhà. Từ khi được tin đó, bà Sinh sung sướng quá, chẳng còn biết làm gì, chỉ quanh ra quanh vào chờ con về. Bà ngóng đợi ngay từ lúc mới có điện tín tới. Bà luôn luôn chạy ra cửa, nhìn trước nhìn sau để xem Tài đã về chưa. Bữa cơm chiều hôm đó bà đã cho vú già đi chợ mua thêm thức xào nấu để làm cho Tài một bữa cơm sang. Khi vú già nhận tiền đi chợ, vú cũng ra vẻ sung sướng bảo bà:

- Hôm nay bà ăn mừng cậu con.

Bà Sinh vui vẻ trả lời vú:

- Ừ, ăn mừng cậu Tài. Vú cứ chịu khó đi rồi bao giờ được bổ đi làm tôi bảo nó may cho vú một bộ áo thật đẹp...

- Cậu con đỗ đạt là con mừng rồi chứ chả cần phải có áo đẹp mới là mừng.

Vú mang rổ đi chợ. Gặp ai vú cũng mang cái tin đó ra khoe. Và chỉ mới từ lúc gần trưa cho tới lúc hai ba giờ chiều, mọi người quen biết ở gần bà Sinh đã được biết là Tài thi đỗ vào phủ Toàn Quyền.

Có lẽ đó là cái ngày Tài làm cho mẹ được vui sướng nhất từ khi đã lớn lên và đã biết suy nghĩ. Cái kết quả đó, không hề làm chàng ngạc nhiên vì ngay từ đầu năm học chàng đã chăm chỉ rồi.

Hết kỳ nghỉ hè năm thứ ba, chàng ở Vĩnh Yên về với một món tiền tám chục đồng chàng đã tằn tiện trong mấy tháng hè dạy học. Ông chủ nhà mỗi tháng trả mười lăm đồng, dạy ba người con ba lớp khác nhau. Chàng lại có thêm bốn người học trò ngoài tới học, dồn lại chàng thu mỗi tháng được hơn ba chục. Trừ tiền đi về và các khoản chi tiêu vặt chàng còn mang gọn về được cho mẹ tám chục đồng. Khi mới lên ở đó, chàng cũng thấy buồn buồn vì chỉ có một mình ở một tỉnh nhỏ khá hẻo lánh. Công việc dạy học cũng khá vất vả. Ông chủ nhà cũng như nhiều ông chủ khác có tiền mượn “cậu giáo”, đối với chàng cũng chẳng hề có chút tình cảm gì. Ông chỉ biết bắt chàng dạy nhiều giờ và sòng phẳng trả tiền. Chàng lấy thế làm khó chịu lắm nhưng rồi cũng cố quên những nỗi bực tức trong khi ở nhà ông chủ cho tới hết vụ hè để kiếm tiền học.

Mẹ chàng giữ cho chàng món tiền đó; cứ cuối tháng gửi lên cho chàng mười hay mười một đồng. Tính số tiền ăn tiền học cho hết năm thứ tư thì cũng còn thiếu tới gần hai chục đồng. Mẹ chàng đã tằn tiện để bù vào đó cho chàng. Vì vậy mà cả năm học cuối cùng của chàng ở trường Bưởi, chàng không hề phải bận tâm về vấn đề tiền tài. Chàng lại tìm tới chỗ bà chủ trọ cũ ở Yên Thành. Trong khi đi xa chàng vẫn có thư gửi về hỏi thăm bà luôn. Tất cả những người xa lạ mà chàng đã đụng chạm trong khi phải sống xa mẹ có lẽ chỉ có Sung bạn chàng và bà chủ trọ này là chiếm được nhiều cảm tình của chàng. Còn những người khác, thứ nhất là những người có tiền đã mượn chàng dạy học chỉ gây sự ghét bỏ cho chàng. Không phải chàng ghen tị là họ giàu có hơn chàng, nhưng chàng nghiệm thấy rằng đối với chàng họ toàn là những người khủng khỉnh vô tình cả.

Ngày chàng cắp sách vở lại trường cũ để lên năm thứ tư là ngày chàng thấy mãn nguyện vô chừng. Nghèo như chàng mà đã có thể cố gắng được đến bực đó, nhiều khi chàng cho là một sự lạ. Vì thế mà ngay từ ngày khai trường chàng đã hăng hái học. Cái tin tưởng rằng gia đình chàng sẽ ra sao là do cái năm học cuối cùng đó định đoạt lại càng khiến chàng luôn luôn gắng công. Có lẽ chàng tin cậy ở chính chàng thì ít mà mẹ chàng và người bà tin tưởng ở chàng thì nhiều. Cả đến đứa em gái nhỏ của chàng hình như đã hiểu biết và cũng đặt nhiều hy vọng vào chàng. Vì vậy mà Tài không muốn rằng tất cả những người thân mật, mến yêu đó sẽ bị thất vọng. Nên không năm nào bằng năm nay, chàng gắng sức học. Và cái kết quả đã làm cả nhà được vừa ý.

Cuối năm thứ tư chàng thi đỗ Thành Chung. Sang tháng bảy tây thì có kỳ thi tuyển thư ký vào phủ Toàn Quyền. Chàng nộp đơn thi. Thấy nhiều người nói phải mất tiền, phải tìm chỗ đút lót mới có thể đỗ được, chàng cũng hơi thất vọng. Nhưng chàng đã tin chắc ở sức học nên chàng cứ vào thi. Và chàng đã đỗ một số khá cao - thứ tư trong số hơn ba mươi người được trúng tuyển.

Khi đã tuyên bố danh sách, chàng vội vàng đánh giây thép về cho mẹ ngay. Mẹ chàng chờ chàng đã khá lâu, nhưng mãi tới hơn năm giờ chiều Tài mới ở Hà Nội về. Bà Sinh hớn hở nhìn con mắng yêu:

- Gớm mợ chờ mãi. Giây thép đánh về từ bao giờ mà bây giờ mới thấy người. - Thưa mợ con còn đi thăm và báo tin cho mấy người bạn biết... Rồi bà chủ trọ cứ nhất định bảo ở lại để bà ấy ăn mừng... Bà ấy thấy con đỗ bà ấy thích lắm.

Bà Sinh nhìn con sung sướng, và nghĩ tới bà chủ trọ bà lại thấy cảm động trong lòng. Bà ngọt ngào giục Tài:

- Thôi thay quần áo rồi đi ăn cơm kẻo đói, con ạ.

Vú già đã bưng mâm cơm đặt trên giường. Trông thấy Tài vú vui vẻ cười chào ngay:

- Cậu đã về!

Tài chưa kịp đáp lại câu chào, vú đã hoa tay nói rất tự nhiên:

- Con chờ cậu mãi để mừng cậu.

Vú hỏi Tài một cách ngây thơ:

- Cậu đỗ như thế thì gọi là quan tham hay là quan phán?

Tài thấy vú ngộ nghĩnh quá pha trò:

- Vú muốn gọi là gì cũng được. Quan tham, quan phán, quan lớn hay là quan lợn tùy ý.

Cả nhà phá lên cười. Vú già như còn muốn hỏi Tài nhiều điều nữa, nhưng bà Sinh vội giục:

- Thôi, vú xuống bắc cơm lên cho cậu ăn kẻo đói. Ăn xong no bụng rồi cho vú lên nói chuyện với cậu vài giờ cho vú thích.

Vú già vội vàng đi bắc cơm. Bà Sinh nhìn theo vú rồi bảo Tài:

- Vú ấy vẫn tốt bụng tốt dạ như trước; từ hôm thấy bảo con vào thi vú ấy hỏi luôn là con có đỗ không...

Nồi cơm đã bắc lên. Cả nhà ngồi chung quanh mâm. Bữa cơm có sang hơn mọi ngày khác. Một đĩa thịt bò xào, một đĩa thịt quay, một đĩa trứng rán và hai bát miến nấu với sườn lợn. Bà Sinh nhìn mâm cơm rồi nhìn Tài trong lòng vui sướng hân hoan. Cả nhà đông đủ hai người con, bà và người mẹ già. Trông thấy cái cảnh sum họp đó bà thấy lòng bà chứa chan hạnh phúc. Bà nhìn Tài khẽ nói:

- Thực là cả nhà đông đủ.

Tài nhìn mẹ “Còn thiếu vú già nữa! Con muốn để vú ấy cùng ngồi ăn với cả nhà cho vui!”

- Ừ phải đấy, mấy khi được có bữa cơm vui như hôm nay.

Rồi bà quay lại bảo vú già đứng gần đó:

- Vú xuống lấy thêm bát đũa rồí lên đây cùng ngồi ăn cho vui. - Xin mời cụ, mời bà và cô cậu cứ xơi cơm trước. Con chả dám thế.

Bà Sinh lại cố ép:

- Mọi ngày thì tôi không bảo vú cùng ngồi ăn. Nhưng hôm nay là bữa cơm mừng cậu Tài thì tôi cho phép vú cùng ngồi ăn cho vui. Vú cũng đã vất vả nhiều thì đến lúc được sung sướng đôi chút cũng phải có vú chứ!

Nghe lời bà Sinh nói, vú già cảm động quá, nhưng vú vẫn từ chối. Bà thấy vú thường thích ăn trứng, bèn đặt ra góc mâm đĩa trứng rán:

- Thôi thế cả nhà để dành cho một mình vú riêng cái món này!

Trong bữa cơm, người nào cũng ra chiều vui vẻ, và cái vui trong lòng như là mọi người quên hết những điều muốn mang ra nói với nhau khi chưa được sum họp đông đúc. Cả nhà im lặng ăn. Bỗng vú già nhớ lại chuyện xưa cất tiếng nói:

- Giá còn cả “cô dại” con thì có phải là chẳng thiếu một ai.

Bà Sinh sợ vú lại nhắc nhỏm những chuyện không hay đã qua khiến cho bữa cơm bớt vui vội át lời vú:

- Vú này lẩn thẩn lắm! Ăn cơm mới lại cứ nói chuyện cũ làm gì!

Vú già như không để ý tới câu nói của bà:

- Cô con cũng vất vả về cậu con nhiều mà đến khi làm nên thì lại giời bắt tội.

Giọng nói của vú đã như đượm nước mắt. Bà Sinh cố giữ vẻ điềm tĩnh:

- Ơ hay! sao vú lại cứ hay nói chuyện đường trường như vậy.

Bà làm như bà đã quên hẳn được cái chết của Huệ. Nhưng sự thực giữa lúc ấy, cũng như vú già, bà đã nghĩ đến cái quãng đời xưa và bà lại không sao quên được cái công khó nhọc của người con gái lớn từ khi trở về ở với mẹ.

Người mẹ già thấy bà Sinh gắt gỏng ra vẻ không bằng lòng vú già, cũng đủng đỉnh bảo vú:

- Bà ấy đã không muốn nói đến chuyện cũ thì sao vú lại cứ gợi chuyện cũ ra làm gì!

Bà Sinh yên lặng để cố giấu sự cảm động trong lòng. Một lúc sau bà hỏi Tài:

- Thế con có định báo tin cho cậu con biết không?

Bớt đang nhai giở miếng cơm, thấy mẹ nói tới “cậu” vội hỏi ngay:

- Cậu nào hả mợ?

Cả nhà yên lặng, không ai biết trả lời cô bé ra sao. Bà Sinh khẽ đưa mắt nhìn trộm cô gái út đầy vẻ thương hại. Bà vẫn thương hại. Bà vẫn áy náy trong lòng không biết có nên kể lại cái chuyện không hay đó cho Bớt nghe rõ không, hay cứ để chờ cho tới lúc lớn thì nó sẽ tự tìm hiểu lấy. Bà không khỏi mủi lòng khi nghĩ rằng đứa con tuy có bố mà vừa lọt lòng mẹ đã như bị mồ côi. Bà còn nhớ một lần Bớt đi chơi được một lúc rồi đon đả chạy về ôm lấy vai bà hỏi:

- Con có cậu không?

Bà chưa kịp đáp lại ra sao thì cô bé đã rủ rỉ bên tai bà: “Con thấy đứa nào cũng khoe là cậu nó làm được nhiều tiền, mà chúng nó sợ cậu lắm... Thế sao con lại không có cậu hở mợ?”

- Ai mà chẳng có cậu! Cái con này rõ lẩn thẩn! - Thế cậu con đi đâu mà mãi không về?

Bà đã phải cúi mặt giấu mấy giọt nước mắt rồi khẽ bảo con:

- Nhà mình nghèo nên cậu còn phải đi làm xa...

- Bao giờ thì cậu con về?

- Còn lâu lắm!

Rồi muốn tránh những câu hỏi khó trả lời khác của con bà vội giục con đi chơi.

Cứ nghĩ tới cái cảnh phải dối trá để giấu giếm con như vậy, bà lại thấy đau đớn trong lòng. Vì vậy mà câu hỏi bất ngờ của Bớt trong khi đông đủ cả nhà đã làm bà lo lắng, suy nghĩ. Giữa lúc bà còn phải để ý tới câu hỏi của Bớt thì Tài điềm nhiên trả lời không lưu tâm đến câu hỏi của em:

- Con đỗ hay trượt thì cậu con cần gì mà con phải cho biết.

Tiếng “cậu” trong câu trả lời của anh lại càng gợi tính tò mò của Bớt. Cô bé đặt bát cơm rồi cứ trố mắt nhìn hết anh lại đến mẹ. Tài nói tiếp: “Đến ngay khi chị Huệ con chết, cậu con cũng chẳng được lời hỏi thăm nữa là bây giờ con thi đỗ”.

Bà Sinh âu yếm nhìn Tài:

- Sao con lại cứ nhắc lại những cái không hay đó làm gì... Bây giờ mợ đang thấy vui vui trong lòng thì con để mợ vui một tý. Đừng nên nói lại chuyện khi xưa làm gì con ạ...

Ngừng một lát, rồi bà đủng đỉnh nói thêm:

- Quên đi, con ạ. Mợ thấy rằng sống mà có biết quên những cái khổ đã qua thì mới vui... về phần mợ thì bây giờ mợ chẳng thấy ai là người đáng ghét, đáng thù cả. Mợ tha thứ hết cho mọi người cả đến những người đã làm khổ mợ. Và chỉ thế thôi cũng đủ làm mợ được yên tâm được sung sướng... Thù ghét kẻ khác chỉ là mua thêm cái khổ vào mình thôi, con ạ...

Người mẹ già ngồi bên nghe bà Sinh cũng hạ bát cơm nói:

- Cứ thực thà ngay thẳng mà ăn ở. Đâu thì cũng đã có giời...

Tài yên lặng nghe lời mẹ và lời bà nói. Chàng như mang máng thấy rằng, dù sao gia đình chàng cũng chưa hẳn là khổ, chưa hẳn là bị ruồng bỏ. Vì đã bao nhiêu người săn sóc đến mẹ chàng và đến chàng. Nào người vú già, nào bà chủ trọ và Sung, người bạn của chàng, rồi Tuất người mà chàng trọng như chính chị chàng. Không muốn để mẹ nhớ lại những chuyện đã qua, Tài lảng sang việc khác:

- Có lẽ tháng sau con sẽ được bổ ngay.

- Được bổ ngay thì càng hay mà không thì hãy ở nhà nghỉ ngơi với mợ với bà và em bé trong ít lâu cho nó khỏe người đã. Công trình học hành bao nhiêu...

Sau câu nói bà đưa mắt nhìn Tài, nhìn mẹ, nhìn Bớt trong lòng vui sướng, yêu đời, tưởng như bà hãy còn là con gái mười bảy, mười tám và trước mặt bà, bà có không biết bao nhiêu mộng đẹp. Bà nhìn người vú già đã chứng kiến tất cả cuộc đời của bà từ khi có chồng có con. Bà tưởng như đó là một người bạn trung thành của bà. Bà cảm động.

- Thế bây giờ cậu Tài sắp đi làm có tiền rồi thì vú muốn những cái gì vú nói vổi cậu sắm cho.

Vú giọng thật thà đáp ngay, không nghĩ ngợi.

- Thưa bà con già rồi, còn ao ước gì nữa. Con cái chả có thì chỉ mong khi nhắm mắt qua đời cậu con mua cho cỗ ván.

Tài nghĩ đến cái công khó nhọc của vú từ xưa và thấy rằng lúc nào vú cũng chỉ tốt bụng với người chủ, chẳng bao giờ muốn cầu lợi, chàng tưởng như đó là người mẹ thứ hai của chàng.

Quanh chiếc bàn ăn phủ khăn trắng xóa, ông Sinh, Nga, và bốn người con ngồi quây quần. Bữa cơm đã xong, nhưng mọi người còn ngồi rốn lại. Thằng bếp cất nốt đĩa chuối và đĩa bánh ngọt rồi cuốn chiếc khăn ăn để lại mặt bàn gỗ lát đánh vernis bóng loáng. Một lúc sau thằng nhỏ mang tờ báo hàng ngày vào. Bao giờ báo ở Hà Nội gửi về Nam Định cũng vào quãng mười giờ sáng và ông Sinh hay có lệ xem báo sau bữa cơm trước khi đi ngủ trưa.

Ông giở tờ báo xem qua mấy cái đầu đề in bằng chữ to của mấy bài bàn về thời sự, trở sang trang hai bao giờ ông cũng đọc mục “việc Hà Nội” trước.

Kết quả kỳ thi vào phủ Toàn Quyền tuyên bố hôm trước thì hôm sau trong các báo hàng ngày có đăng danh sách các người trúng tuyển. Ông để ý ngay tới chỗ đó. Đọc tới tên Tài, ông thản nhiên bảo Nga:

- Thằng Tài đỗ vào phủ Toàn Quyền rồi... Mà đỗ thứ tư...

Sau hai câu đó ông ngỏ lời khen Tài:

- Kể ra thì nó cũng giỏi đấy chứ!

Nga hơi khó chịu về lời khen ấy và giữ vẻ im lặng. Cái tin mừng mà chồng vừa nói cho nàng biết làm nàng như ghen tỵ, tức tối. Tuy các con nàng học hành cũng vẫn tấn tới, mỗi năm một lớp, tuy chúng còn bé nhưng nàng cũng không hài lòng khi nghĩ rằng Tài đã đỗ đạt hơn nhiều. Ngày được tin Tài đỗ Thành Chung Nga cũng đã thấy khó chịu. Từ ngày các con nàng lớn nàng vẫn nuôi cái mộng cho chúng đi học và sẽ thi đỗ bằng nọ bằng kia, cái ước mong đó càng lớn nàng càng mong cho Tài gặp nhiều cái khó khăn trong sự học rồi phải bỏ dở hoặc thi hỏng. Trước kia thì nàng mơ tưởng tới sự vượt hẳn được bà Sinh. Bây giờ cái địa vị của nàng đã vững vàng, nàng lại nghĩ đến cách cho lũ con của mình vượt được lên trên các con của bà. Trong gia đình thì đã được rồi, nhưng còn cả trong xã hội nữa thì nàng mới yên lòng. Bởi thế mà cái tin mừng thứ hai Tài thi đỗ vào phủ Toàn Quyền đã khiến Nga thành tức tối.

Nàng đang khó chịu về nỗi chồng khen Tài và chưa biết nói lại ra sao thì chồng nàng đã nói thêm:

- Thế là nay mai cũng đã là thông hay phán rồi.

Nga không thể ngăn ngừa được sự tức tối:

- Thông hay phán thì ông có nhờ con ông thì nhờ chứ tôi chẳng thèm.

Nàng dằn hai tiếng “con ông” ra vẻ phẫn uất lắm. Ông Sinh đã hiểu ý vợ, khó chịu về nỗi Tài đã làm nên. Nhưng ông cũng chẳng mắng trách gì nàng. Riêng về phần ông, ông cũng hơi thấy vui vui. Tuy Tài đối với ông đã như một người xa lạ, nhưng dù sao ông vẫn không quên rằng đó là con ông và ông đã luôn luôn ôm ấp dạy bảo trong một thời kỳ, dù ngắn ngủi chăng nữa. Nhớ lại rằng ông đã không có công nuôi con, ông như cũng hơi thấy hối hận trong lòng. Nay được biết Tài sẽ có một cách sống chắc chắn về tương lai ông cũng mừng cho chàng. Nghĩ đến cái ngày vợ cả ông tới nhờ ông giúp đỡ, và ôn lại lá thư trong đó Tài nói hết cái khổ của chàng, ông không khỏi khen thầm người vợ cả của ông đã nhẫn nại, chịu khó nuôi con và đã không hề làm một việc gì đến hổ danh ngay trong khi túng thiếu. Ông đưa tờ báo cho Nga, cố lấy giọng làm lành:

- Mình có xem thì xem trước đi cũng được. Tôi sẽ xem sau.

Nga cầm tờ báo giở ngay tới mục “Chuyện Hà Nội” để xem xem có thực là Tài đã thi đỗ không. Trong khi tìm tòi nàng vẫn có hy vọng rằng chồng đã nhầm. Nhưng nàng đã tức tối thở dài khi thấy ở hàng thứ tư cái tên Nguyễn Đình Tài rõ ràng từng chữ, từng nét.

Nàng gấp tờ báo lại rồi bảo chồng và như để dẹp bớt nỗi ghen tỵ của mình:

- Tưởng đỗ tham tá ngạch tây chứ đỗ thông phán thì ăn thua gì.

Ông Sinh thực thà, nói không hề có ý ca tụng Tài:

- Ấy thế mà cũng có người chật vật mà thi hỏng đấy.

Nga lại càng cau có với chồng, vì nàng đã tưởng chồng chỉ tìm cách bênh vực và nói hay cho Tài. Nàng gắt gỏng vứt tờ báo xuống bàn:

- Gớm! Con ông có khác!

Ông Sinh biết vợ mình không bằng lòng những lời khen ngợi của mình đối với Tài, ông vội lấy lòng nàng bằng câu:

- Hồi còn nhỏ nó không được thông minh và chăm chỉ như những đứa này đâu.

Thấy chồng nói đến con mình. Nga vui vẻ bàn thêm:

- Còn thằng Quỳnh, thằng Quyên nhà này rồi mình định cho chúng học hành ra sao?

Ông Sinh xem chừng vợ đã hởi lòng về câu ông khen mấy đứa trẻ, ông lại cố điềm tĩnh nói thêm một câu để Nga quên hẳn cái tức nàng cảm thấy ngay từ đầu câu chuyện:

- Thằng Quỳnh sẽ cho vào trường thuốc, thằng Quyên cho vào học luật. Một đứa sẽ làm quan đốc, một đứa sẽ làm quan trạng. Đứa nào còn có thể học được nữa sẽ cho đi Tây.

Nga lộ hết vẻ vui sướng trên nét mặt, mỉm cười nhìn chồng giọng âu yếm:

- Có thế thì mới nên cơ đồ, chứ lại làm cái anh phán quèn mỗi tháng mấy chục đồng như thằng Tài thì chán chết. Học như thế thì học làm gì cho phí... Để tiền mà đi buôn còn lãi hơn!

Ông Sinh cũng bàn thêm:

- Gớm! Mình tưởng đi buôn dễ lắm đấy!

- Chứ lại không dễ! Tay tôi cứ chừng trăm bạc vốn là mỗi tháng tôi cũng có thể kiếm được dăm bảy chục bạc lãi. - Thế mà khối người không đi buôn lại làm ông phán lương tháng ba, bốn chục đồng đấy.

Nga thấy tức mình bởi câu nói của chồng:

- Phải, ký với phán to, to lắm?

Nàng đổi giọng rất ngọt và rất mỉa mai:

- Đấy, con ông đã làm ông phán rồi đấy! Ông về mà ở với con ông, với “người ta”!

Không hiểu tại sao, trong chốc lát nàng thành tức bực quá. Nàng vùng đứng dậy, đẩy mạnh chiếc ghế chạm vào thành bàn. Tiếng va chạm của đồ vật khiến trong nhà mất hết vẻ êm tĩnh, bỗng có một bầu không khí nặng nề, bất hòa. Nàng vừa hấp tấp vào nhà trong vừa càu nhàu:

- Nhưng con tôi sau này mà không làm quan đốc, quan trạng chỉ bằng cái thằng Tài thì ở cái nhà này sẽ có lắm chuyện không ra gì!

End

Hanoi Septembre - Décembre 1940