PHẦN THỨ TƯ
Thưa mợ, con vẫn cố tằn tiện, chẳng dám tiêu phí một xu nào, nhưng cũng đã hết tiền. Tháng trước, mợ gửi cho con mười một đồng. Con trả tiền cơm sáu đồng, bốn đồng tiền xà phòng và mua giày. Con vẫn nhịn, không ăn quà sáng. Tháng này mợ gửi cho con mười đồng thôi cũng có thể được. Vì con mới tìm được một chỗ trọ chỉ mất có năm đồng. Nhưng mợ liệu gửi ngay lên cho con. Tiền học người ta đã đòi tới hai ỉần rồi, nếu để chậm quá người ta sẽ tạm đuổi...”
Bà Sinh đọc đi đọc lại tới hai lần cái đoạn cuối cùng đó trong lá thư của Tài gửi về. Ở đoạn trên chàng chỉ chúc mẹ và em gái khỏe mạnh rồi chàng nói đến việc học của chàng có tấn tới nhiều. Cái đoạn ấy làm cho bà vui thích bao nhiêu thì tới đoạn cuối này bà lại thấy buồn nản bấy nhiêu. Nghĩ đến cái cảnh nghèo nàn trong gia đình bà chán nản đến nhỏ nước mắt.
Khi trước, tất cả tiền lãi của Huệ và của bà dồn lại cũng được kha khá. Lúc đó Tài lại vẫn còn theo học ở tỉnh nhà, nên không tốn phí là bao. Vì vậy trong gia đình không đến nỗi túng thiếu. Nhưng từ hai năm nay thì có lẽ chưa tháng nào bà kiếm được đủ chi tiêu. Cái không may đã gây cho bà phải chịu nhiều nỗi đau khổ về đủ mọi phương diện là Huệ, người con gái lớn có thể giúp đỡ bà ít nhiều đồng lãi thì nay đã không còn nữa. Sau hai tháng giời ốm kịch liệt, nàng chết và để lại cho bà một món nợ lớn về tiền thuốc. Nghĩ đến cái chết của Huệ, bà không còn muốn tưởng sự làm ăn nữa. Suốt trong vòng hai tháng bà đã bỏ hết công việc để ra công săn sóc con mà cũng không có hiệu quả gì. Không một thứ thuốc nào có người mách mà bà không mua cho Huệ dùng. Và có ai giới thiệu một ông lang nổi tiếng thì dù xa xôi, tốn kém đên đâu bà cũng không hề quản ngại. “Người là vàng của là ngãi”, bà thường nghĩ vậy, và trong nhà không sẵn tiền thì bà lại cố đi vay ở những nơi quen biết. Có lẽ chưa bao giờ bà thấy băn khoăn lo lắng như hai tháng trời đó. Chia sẻ sự vất vả của bà trong khi phải chăm nom đến Huệ chỉ có một mình vú già. Vú đã không hề sợ bẩn thỉu hoặc chứng bệnh lây truyền. Vú lăn lóc bên Huệ, nào thay quần áo, nào lau mình cho Huệ. Rồi chiếu giường cùng chăn màn, vú luôn luôn thay giặt. Mỗi lần bưng vực cơm vào cho Huệ mà nàng lắc đầu từ chối không ăn, thì vú lại đứng khóc nức nở không khác gì một người mẹ khóc con. Lòng tận tâm của vú khiến bà Sinh không sao cầm được nước mắt. Cứ mỗi ngày tới lại làm vú thêm yếu sức và thêm chậm chạp, nhưng chẳng bao giờ bà Sinh nặng lời với vú. Có khi vú lẩn thẩn chẳng chịu làm gì, cứ loanh quanh bên giường Huệ, nhìn nàng rồi thút thít khóc. Bà Sinh có trách mắng thì vú lại cãi lại:
- Khốn nạn, con không có công đẻ nhưng con cũng đã có công săn sóc cô con ngay khi còn tấm bé... - Nhưng nào nó đã chết đâu!...
Vú thì thầm bên tai bà Sinh:
- Bà đừng giận con, chứ con xem ra thì khó lòng mà sống được bà ạ.
Người vú già đó đã dò xét bệnh trạng và cách ăn uống của Huệ từng tí và vú đã đoán không sai. Huệ xanh xao rồi gầy, gầy dần, không còn một chút sinh khí nào và chết. Khi gần nhắm mắt hẳn, Huệ đã thừa hiểu rằng mình không còn thể nào sống được nữa nàng cố kiếm vài lời nói lại với mẹ. Nhưng yếu sức quá nàng chỉ còn thốt được ra câu:
- Con thương mợ quá! Bây giờ thành ra mợ chỉ có... một mình...
Rồi nàng khóc, khóc không ra hơi, không ra tiếng. Bà Sinh biết rằng con mình muốn nói đến sự vất vả của mình và muốn bảo cho mẹ biết rằng từ nay nàng chết đi thì chỉ còn một mình bà phải lo liệu đủ mọi cái. Bà không cầm được nước mắt, cũng òa lên khóc. Huệ đưa hai con mắt lờ đờ nhìn hai em đứng ngay bên đầu giường. Bớt, đứa em gái út đã gần bốn tuổi và Tài đã ngoài mười ba tuổi; cả hai đều buồn rầu, yên lặng nhìn lại chị. Tài cố lấy vẻ bình tĩnh khẽ bảo chị: “Chị Huệ, em... em yêu chị... em... thương chị lắm...” Rồi Tài cũng theo mẹ khóc. Bớt vẻ mê sợ, chỉ biết ôm chặt lấy anh. Huệ còn hơi tỉnh, cũng hiểu cả nhưng không sao nói được ra lời. Nàng rất thương hai đứa em mà chính tay nàng đã trông nom săn sóc thực không khác một người mẹ. Đối với Bớt cũng như trước kia đối với Tài, nàng không hề tiếc sự khó nhọc trong công việc nuôi nấng dỗ dành. Chiều tới, cứ khi ở chợ về là nàng đã vồ vập ngay lấy em, hôn em rồi hỏi em hết chuyện này sang chuyện khác. Chẳng bao giờ nàng quên mua cho Bớt mấy xu bánh phồng - một thứ bánh bột có đường ngọt hơ than phồng to - mà Bớt rất thích.
Trước khi tắt thở hẳn nàng tưởng như nàng đã để lại hai con mồ côi, từ nay không nơi nương tựa. Và tất cả người nàng lại nẩy lên vì một cơn khóc ngầm tận đáy lòng.
Đau đớn nhất cho bà Sinh là khi Huệ đã chết, bà không còn đồng tiền nào trong nhà. Bà đã định về Nam Định nhờ chồng cấp đỡ, nhưng suy nghĩ mãi bà lại thôi và đi vay giật mấy người bạn để làm ma cho con. Bà cũng cho ông Sinh biết tin, nhưng ông cũng chẳng hề trở về đưa đám và cũng chẳng có một lá thư gửi về chia buồn, cái đám ma của Huệ thực là vắng ngắt. Trừ một vài người trong nhà chỉ có thêm mấy người quen và Tuất. Bà Sinh đã thấy rõ ràng Tuất khóc sướt mướt khi người ta khênh chiếc áo quan từ nhà ra ngoài. Bà không ngờ rằng Tuất đã thương yêu con mình đến thế. Trong khi Huệ ốm nàng luôn luôn tới thăm và mỗi khi bà cần tiền nàng sẵn lòng cho vay giật ngay. Tới nay mỗi khi nhớ đến Huệ, thì không còn gì làm bà sung sướng rằng, được gần Tuất và chuyện trò với nàng. Bà tưởng như Huệ còn để lại một chút gì trong người Tuất. Bà thành thân mật với Tuất đến nỗi bà đã làm quen với cả mẹ Tuất. Những lúc buồn bực bà lại tới nhà mẹ Tuất để than vãn cùng người bạn mới ấy.
Có lẽ đó là nỗi đau khổ nhất bà Sinh phải chịu từ trước tới nay. Bà không thể nào nhớ tới Huệ mà lại không nhớ tới sự chăm chỉ, sự tận tâm và thứ nhất là lòng thương mẹ của nàng. Khốn nạn! Một đứa con lúc nào cũng chỉ muốn cho mẹ thoát khỏi cái vất vả và lúc nào cũng chỉ muốn quanh quẩn bên mẹ để an ủi mẹ lúc buồn bực. Đến nỗi về Kiến An được hơn hai năm, đã có mấy người muốn hỏi, chỗ giàu sang cũng có, chỗ trung bình cũng có mà Huệ cứ nhất định từ chối, để ở lại nhà với mẹ. Nàng nói là khi nào trong nhà đã đủ ăn tiêu hoặc Tài đã đi làm, kiếm được tiền để mẹ khỏi vất vả nàng mới chịu đi lấy chồng.
Bà ngỏ lời khuyên can:
- Thì con cứ lấy chồng đi, nếu chọn được rể hiền thì mẹ nhờ rể cũng được chứ sao! Có trai có gái, có thêm rể càng vui nhà con ạ.
Nàng ra vẻ đã hiểu biết nhiều từ tốn đáp lời mẹ:
- Thưa mợ, thế nào gọi là dâu con rể khách. Dù người ta có thật tốt bụng ra chăng nữa cũng không nên nhờ vả người ta, khi con có điều gì sơ ý người ta lại nhắc nhỏm tới sự nhờ vả đó thì mợ lại càng thêm phiền lòng. Như thế thì con không muốn. Mợ đừng lo lắng điều gì, cứ để con ở nhà giúp đỡ mợ là hơn. Ai thì cũng chẳng bằng được mẹ với con.
Thế rồi đáng lẽ đi lấy chồng để được nhàn thân, nàng cứ nấn ná bên mẹ để sống một cuộc đời vất vả đầy lo lắng, đầy phiền muộn. Nàng đã như quên hẳn mình chỉ còn nghĩ đến mẹ và hai em.
Đang lúc bà Sinh còn cần nàng hết sức giúp đỡ, thì nàng qua đời. Một cái chết như thế, tránh sao bà không khỏi nhớ tiếc. Nhiều khi bà suy nghĩ quá độ đến thành nóng nảy gần như có chứng điên trong người.
Chôn cất cho Huệ xong bà Sinh lại càng thấy rõ rằng bà đã mất hẳn một kẻ nương tựa tốt. Từ nay trơ trọi còn lại một mình bà phải gánh vác cả. Người mẹ thì đã yếu sức quá, bà không còn thể hy vọng ở sự giúp đỡ của mẹ được nữa. Tiền chi tiêu trong nhà đã thiếu thốn lại việc học của Tài phải tốn thiếu nhiều. Vì nay Tài đã theo học ở trường Bưởi. Tất cả hy vọng của tuổi già bà Sinh đặt cả vào người con trai này. Chính Tài cũng biết vậy nên ngay từ khi còn học ở ban Sơ học trường tỉnh chàng cũng đã ra công chăm chỉ. Chàng đã hiểu rằng cần phải học để sau này kiếm được tiền giúp mẹ nên không khi nào chàng xao nhãng việc học. Thi đỗ Sơ Học Pháp Việt xong, chàng định sang theo học ở Hải Phòng. Nhưng bà Sinh thấy nhiều người bảo được vào trường Bưởi mà học thì sau này thi ra có phần chắc chắn hơn. Ngày đó Huệ còn sống mà lại buôn bán có lãi nhiều và học ở Hải Phòng hay ở Hà Nội thì mỗi tháng chỉ tốn hơn chừng hai ba đồng, nên bà đã khuyên Tài đi Hà Nội học. Nhưng không may cho bà, Tài chưa học hết một năm ở ban Thành Chung thì Huệ bị chết. Không lẽ bắt con thôi học, bà đành cứ cố gắng vay giật để con yên tâm mà học hành. Cứ như thế đã từ hai năm nay rồi. Bây giờ thì có lẽ bà không còn thể xoay xở vào đâu được nữa. Một mình Tài mỗi tháng ăn học ít nhất cũng mười hay mười một đồng. Mà từ ngày không còn Huệ, một mình bà hàng tháng chỉ kiếm được chừng gần hai chục bạc lãi là nhiều. Gửi đi cho con trai rồi còn lại ở nhà chỉ độ tám hay chín đồng. Rồi lại không may nữa cho bà là Bớt cứ luôn luôn ốm đau. Lên ba bốn tuổi rồi mà yếu ớt đến nỗi có khi đi không vững. Bà đã phải tốn không biết bao tiền thuốc cho cô gái bé. Bà đành cứ phải vay hết món nợ này đến món nợ kia. Món nợ của Thuyết bà chỉ còn chịu lại có hai chục đồng. Và bây giờ đối với bà, Thuyết đã gây lại cái cảm tình cũ vì nàng đã hiểu cái xảo quyệt của Nga, nhưng bà cũng không muốn vay mượn của nàng nữa. Không trả được hết món nợ cũ bà đã lấy làm khó chịu lắm rồi. Tất cả những người quen biết, cũng như Thuyết, không còn ghét bỏ khinh bỉ bà như hồi nào có cái tin đồn bà trốn nợ nữa, ai ai cũng đã thân mật với bà như ngày bà mới về Kiến An. Công việc tạm vay giật kể cũng dễ dàng cho bà, nhưng chết nỗi nơi nào bà cũng đã mắc nợ. Cả đến Tuất, người bạn cũ của Huệ, không lấy gì làm thừa ăn tiêu mà bà cũng đã hỏi vay tới gần ba chục đồng. Trong những lúc đi lại thăm mẹ Tuất, bà đã thấy rõ sự thiếu thốn trong gia đình Tuất nên bà cũng thành ngượng nhời không dám hỏi vay thêm. Tính gồm tất cả, hiện nay có lẽ bà đã nợ tới ngót hai trăm đồng.
Tháng trước, tiền gửi đi cho Tài, bà đã phải đi vay từng đồng rồi cóp lại. Tháng này bà còn đang lo liệu thì đã liền hai lá thư của Tài gửi về. Bà không thể nào nghĩ đến con mà lại không đem lòng thương. Trong khi xa nhà, vì sự nghèo khổ đã chịu không biết bao nỗi cùng cực. Nghĩ tới cái nghèo khổ của mình và của con, đã nhiều lần bà muốn nghe lời mấy người quen mang việc ra tòa để xin chia lương, nhưng suy nghĩ mãi, bà lại thôi, vì bà sợ làm như thế thì câu chuyện riêng trong gia đình sẽ thành vỡ lở nhiều người biết đến rồi người ta lại chê trách bà là người tai ngược đã hám tiền của mà đi kiện chồng bêu xấu chồng. Cái nghèo có lẽ bà còn dễ mang hơn là cái tiếng xấu đó. Bà vẫn lấy chút tình riêng để cư xử hơn là muốn dùng tới pháp luật. Vì thế bà lại đành cam chịu với cái nghèo nàn thiếu thốn.
Lá thư thứ nhất của Tài đã khiến bà lo nghĩ; lá thư thứ hai làm bà xôn xao quá, không còn thể tự chủ được, nhất là thấy Tài nói nếu chậm tiền học mấy ngày nữa sẽ bị tạm đuổi. Bà chỉ e rồi như thế con mình sẽ thành kém cỏi trong việc học. Chẳng còn biết nhờ ai trợ cấp. Bà đành chịu nghĩ đến sự giúp đỡ của chồng. Đã từ lâu một đôi khi bà cũng mường tưởng đến điều đó, nhưng lòng tự ái lại can ngăn bà ngay. Chỉ mới tưởng tượng trong óc là mình gọi cửa nhà chồng, lấm lét bước vào rồi nằn nì nói khó, chìa tay cầm lấy một món tiền của chồng đưa cho, bà đã thấy trong lòng bực tức khó chịu lắm rồi. Bà cho cái việc làm đó nhỏ nhen quá và tự hạ mình quá. Sự vay giật lại là một chuyện khác. Bà tự bảo:
- Có hơn gì một kẻ ăn mày. Có hơn họa chăng chỉ là ở chỗ người này thì kêu van ngoài cửa, mà người kia thì vào hẳn trong nhà!
Cái ý nghĩ đó đã khiến bà không còn mơ tưởng đến sự giúp đỡ của chồng. Nhưng lần này lá thư của Tài đã làm bà lại nghĩ tới cái dự định trên. Bà chẳng muốn vì lòng tự ái, tự kiêu của bà mà để cho con phải khổ, phải bị đuổi học. Có lẽ cái khổ của Tài bị đuổi, dù là tạm đuổi, còn to gấp ba bốn lần cái khổ bà chìa tay xin tiền chồng.
- Ừ thì mang tiếng là đi ăn xin, bà nghĩ thầm, nhưng ăn xin để nuôi con ăn học thì cũng chẳng xấu mặt nào. Thôi thì cứ cố chịu nhục một tý cho nó đỡ khổ!
Nghĩ vậy, rồi bà thu xếp đi Nam Định.
Từ ngày đã làm cho bà Sinh phải xa cách hẳn chồng rồi, Nga cũng nghĩ đến việc làm ăn trong nhà. Dần dần nàng đã bỏ cái lối chơi bời, điếm đót và hoang tàng lúc trước. Đó là do tuổi nàng mỗi ngày một hơn, nên nàng nghĩ đến gia đình. Những sự từng trải đã khiến nàng hiểu rằng nếu chỉ nghĩ tới sự điểm trang chơi bời tất sẽ có ngày mang công mắc nợ, trong nhà sẽ thành túng bấn. Mà hẳn lúc đó thì người chồng sẽ đem lòng ghét bỏ mình. Vả lúc trước còn có người vợ cả thì nàng cần phải điếm đót, khoe sắc để cướp lấy lòng yêu của chồng chứ nay thì còn ganh sắc với ai. Bởi thế mà nàng đã trở nên một người nội trợ khá trong gia đình. Nghĩ đến mấy đứa con, nàng tằn tiện mọi khoản chi tiêu. Nàng đã thành một người vợ tận tâm, một người mẹ cần mẫn. Nàng không còn là một cô gái lẳng lơ, luôn luôn nũng nịu như trước nữa. Và cứ dựa vào công việc cùng cách thu xếp của nàng trong gia đình thì ai cũng phải tin rằng nàng đã là một cồ gái nền nếp, không ai dám bảo nàng đã là một ả giang hồ.
Ông Sinh thấy nàng có vẻ tu tỉnh nhiều và về nội trợ cũng là kẻ đảm đang không kém gì nhiều người vợ hiền khác, ông càng đem lòng yêu thương hơn. Cái thời kỳ chơi bời, thích những cái lẳng lơ, nũng nịu bề ngoài của ông đã hết; nay ông “tu chí làm ăn” theo như lời ông thường tự bảo. Trong gia đình vì thế ông cần phải có người giỏi giang quán xuyến. Thì người đó ông rất sung sướng thấy rằng có thể là chính Nga. Bởi thế mà mối tình gặp gỡ giữa ông và Nga ông tưởng rồi sẽ có ngày phải tan sẻ, vì tuy có yêu Nga thực, nhưng ông vẫn nơm nớp sợ rằng những gái ả đào thường hay thay đổi tính nết, họ quen với cái cảnh họ đã sống rồi dễ thành chán người. Không ngờ ngày nay cái lo sợ đó đã mất hẳn trong lòng ông. Lại thêm bốn đứa con kháu khỉnh, xấp xỉnh gần bằng nhau, tựa như một sợi dây buộc chặt ông với Nga. Cái gia đình êm ấm trong đó có Nga mà ông đã yêu mến và bốn đứa con, ông thấy được đầy đủ, sung sướng. Cái cảm tưởng ấy đã khiến ông có thể quên được người vợ cả và hai đứa con trước. Một đôi khi nghĩ lại cái lúc còn sống riêng với người vợ cả, ông cũng hơi thấy thương thương, nhất là đối với Tài, đứa con trai đầu lòng đã mang lại cho ông những cái vui trong cuộc tình duyên thứ nhất. Nhưng ông hiểu rằng sự chung đụng không thể nào có được, và nếu còn có liên can với gia đình cũ của ông tất nhiên cái gia đình êm ấm trong đó ông đang sống sẽ có nhiều cái không hay. Vì thế mà ít khi ông nghĩ tới người vợ cả và hai đứa con đã bỏ ông để theo mẹ. Ông chẳng hề dò la xem đứa con bà Sinh đã có thai khi bỏ ông ra đi thì nay sinh đẻ ra sao. Và ngày được tin Huệ chết, ông cũng chỉ thấy buồn buồn trong chốc lát, rồi lòng ông lại bình tĩnh như cũ. Sự thực thì ông cũng định gửi thư về để chia buồn cùng vợ cả nhưng Nga vội gạt đi:
- Thôi cậu đừng vẽ vời chia với nhân! Chết là chết, chia buồn cũng chẳng sống lại được!
Ông Sinh đành chịu vậy, vì ông không muốn làm một điều mà Nga không bằng lòng. Cũng vì sự chiều ý người vợ lẽ như vậy mà dần dần ông đã thành quên hẳn các việc đã qua và chỉ còn biết đến hiện tại, biết đến Nga và bốn đứa con ông đã có với nàng, tưởng như ông cũng chỉ có một người vợ như nhiều người khác.
Về phần bà Sinh thì từ ngày trở về Kiến An ở với mẹ, tính ra đã hơn sáu năm. Trong khoảng đó, bà chẳng có dịp nào đi Nam Định và cũng chẳng bao giờ bà được gặp mặt chồng ở một chỗ nào. Bà chỉ được nghe tin mấy người quen nói lại rằng ông Sinh vẫn ở chỗ cũ, được tất cả bốn con, hai trai, hai gái, và cũng đủ ăn tiêu, không túng thiếu. Hôm đi Nam Định, thấy nói chồng vẫn còn ở chỗ cũ, lúc ở ô-tô xuống bà lại đó ngay. Bà có quen biết nhiều người ở Nam Định, nhưng bà không hề tới nhà ai để thăm nom. Bà chỉ mong chóng gặp chồng để xem công việc xin tiền cho con ra sao rồi lại về ngay Kiến An. Bà còn phải trông nom vào cửa hàng.
Bà tới nhà chồng vào lúc chồng đã ăn cơm xong và gần đi ngủ trưa. Ông Sinh và Nga rất lấy làm ngạc nhiên khi trông thấy bà. Bà cũng giữ lễ độ chào chồng và chào cả Nga. Nàng ra dáng kiêu hãnh chỉ khẽ gật đầu. Cái cử chỉ ấy đã khiến bà Sinh tức tối, như hơi hối hận rằng mình đã tới đó và bà chỉ muốn ra thẳng ngay. Nhưng đã tới nơi thì cũng nói ra câu chuyện. Ông Sinh khẽ nói, chỉ chỗ cho bà ngồi. Hai người tiếp nhau như hai khách lạ, chưa hề quen biết một lần nào.
Bà Sinh đưa mắt ngắm lại gian nhà ở đó bà đã sống những ngày vui, buồn. Gian nhà trang hoàng sạch sẽ, trông có vẻ một gia đình giàu có. Nào tranh ảnh, treo ngổn ngang. Đồ đạc đánh bóng sạch sẽ và có vẻ đắt tiền cả. Nhớ lại gian nhà gạch thấp tè, gần đổ nát bà ở với mẹ, bà thấy như đó là một thế giới xa lạ quá. Sự ghen tỵ nảy nở trong trí bà, khi bà nghĩ rằng đáng lẽ chính bà được sống trong cảnh đó mà không ngờ đã có kẻ cướp giựt của bà khiến bà phải khổ sở. Mấy đứa con của Nga thấy người lạ cứ trố mắt nhìn.
Đứa con trai lớn nhất lên tám tuổi, Nga đẻ khi bà còn cùng ở chung, đang sửa soạn để sắp đi học chiều. Mấy đứa trẻ đều ăn mặc chỉnh tề cả, con gái thì quần sa tanh trắng áo màu, đi sandales, con trai thì quần áo tây, giày jaunes đánh bóng loáng. Trông thấy đứa con trai nhớn của Nga đầu đội mũ, mặc chemise lụa, quần tây trắng, tay cắp chiếc cặp da xinh xắn còn mới, bà lại nhớ tới hồi Tài còn nhỏ học ở Nam Định, quần áo rách rướỉ, thiếu cả cuốn sách tập đọc phải đi mượn và cho đến bây giờ không có tiền để trả tiền học, bà uất trong lòng, thấy rõ những cái bất công gây nên bởi chồng bà đã nhạt tình với bà và bởi người vợ lẽ đã khôn khéo, xảo quyệt chia rẽ bà ta.
Trước cái đầy đủ, no ấm của gia đình chồng bà, bà chỉ nghĩ đến sự so sánh. Và cái chênh lệch giữa bà và Nga lại khiến bà thèm hộ các con mình cái cảnh sống an nhàn đó. Sự hối hận lúc đó lại càng lên tới bội phần. Bà nghĩ thầm: “Thà chẳng đặt chân tới đây cho xong. Trông thấy người ta sướng lại chỉ thêm thương mình và thương con”. Và trong lúc đó, bỗng nhiên bà có cái mong ước cho chồng và Nga cũng nghèo khổ như mình để bớt cái kiêu hãnh. Bà cũng nhận thấy rằng cái ý muốn ấy nhỏ nhen quá vì “người ta” có nghèo nàn như mình bây giờ chăng nữa thì phỏng mình có được cái gì là sung sướng.
Nhưng nó cũng hả cái uất ức, cái giận ngấm ngầm trong lòng bà tự nghĩ thầm.
Chồng bà đã kéo chiếc ghế ngồi bên bà. Ông cũng vẫn còn yên lặng. Vì lâu ngày hai vợ chồng không gặp nhau nên cả hai đều ngượng ngùng. Bà Sinh không muốn ngồi lâu trong nhà chồng nên đánh bạo nói trước để xem ra sao rồi còn về Kiến An:
- Tôi muốn đến phiền ông một tý. Tôi cũng chẳng muốn quấy rối ông làm gì, nhưng vì mấy năm nay mẹ con tôi nghèo nàn quá...
Bà bỗng nghẹn ngào, như muốn khóc. Bà vẫn cho rằng nghèo không phải là một cái xấu, nhưng chẳng hiểu sao nói lại cái nghèo của mình cho kẻ khác thì bà vẫn giữ được vẻ thản nhiên mà nói lại với chồng thì bà lại thấy như tự hổ, nghẹn lời. Bà ngừng nói một lúc như để giấu những hạt nước mắt ngấm ngầm trong lòng rồi lại nói tiếp:
- Chẳng còn biết trông cậy vào ai nên tôi mới phải thân chinh về đây để nhờ ông giúp hộ.
Bà nghĩ rằng nếu đã không nói ra thì giấu hẳn, mà đã nói thì cứ thực thà nói đủ mọi lời là hơn. Bà kể lể thêm:
- Giá tôi còn có thể vay giật được thì tôi cũng đi vay, nhưng chỗ nào cũng trót nợ nần mất rồi mà không trả được nên không dám hỏi vay nữa. Nếu ông có giúp hộ là cho thằng Tài nó ăn học chứ không phải tôi mang về mà tiêu pha việc riêng.
Muốn chứng tỏ sự thiếu thốn của con giai, bà lấy ở túi ra lá thư của Tài đã gửi về xin tiền. Bà vừa đặt lá thư trên bàn vừa nói:
- Đây, ông xem rồi ông sẽ biết, chứ không phải là tôi tìm cách nói dối ông.
Trong khi bà Sinh nói lại cảnh sống của mình cho chồng nghe, thì Nga đứng rình ở trong một xó nhà. Nàng cũng định ra ngồi bên chồng, nhưng e có nàng bà Sinh sẽ không nói hết sự thực. Nàng như thấy lòng tháo cởi, khi thấy người vợ cả kêu than về nỗi túng thiếu. Và nàng hơi tự kiêu khi thấy bà Sinh phải hạ mình nhờ chồng mình giúp đỡ. Nàng nói thầm một mình:
- Thế mới sướng một đời!
Ông Sinh đọc xong lá thư, ông đã thấy cái khổ của Tài trong sự ăn học. Ông cũng đem lòng thương con, nhưng công việc giúp con cũng còn phải quyền ở Nga đôi chút. Ông gấp lá thư lại, vẻ suy nghĩ. Dù sao đứa con đầu lòng đó đối với ông cũng là kẻ vô tội, và đáng lẽ nó cũng được sống đầy đủ như nhiều đứa con đang sống với ông thì tình cờ nó đã sa vào cảnh cùng quẫn. Ông thấy mình có trách nhiệm nhiều trong cái khổ của đứa con này. Nhưng ông cũng chưa dám tự quyết định ra sao.
Bà Sinh đưa mắt nhìn ông:
- Ông cũng nên thương đến nó một tý. Dù sao nó cũng là con ông, thuở nhỏ ông cũng đã ôm ấp bồng bế nó mãi. Mà nó cũng chẳng có lỗi gì. Nếu có tội, họa chăng chỉ có tội...
Bà còn muốn nói nhiều, kể lể nhiều nữa, nhưng đến đó bà lại phải ngừng nói, e rồi đến phát khóc trước mặt chồng rồi Nga lại ngờ vực là đã khéo vờ vịt giở “cái lối phường tuồng” để kiếm chút tình thương của chồng mà cầu cái lợi về tiền tài. Ông Sinh vẻ thản nhiên bảo vợ cả:
- Nào tôi có muốn con tôi bây giờ phải khổ như vậy. Tôi đã nhờ người đi tìm bà về kia mà...
Nghĩ đến cái khổ của Tài và sự giả dối của ông trong khi ông nhờ ông Tùng đi tìm vợ về ông bỗng thành áy náy, băn khoăn khó chịu. Lúc đó sự hối hận đã tràn ngập tới lòng ông. Nếu quả thực ông đã thực thà ước mong vợ và mấy đứa con trở về với mình thì nay ông cũng không đáng tự trách cho lắm. Dù sao, ông cũng đã không phải là kẻ vô tình. Nhưng việc ông làm chỉ là một sự cầu rửa tiếng xấu nên cái giả dối đó lại càng làm ông thêm bực tức với chính ông. Ồng không còn biết nói thêm gì nữa, đành ngồi yên, không dám đưa mắt nhìn vợ.
Thấy chồng nhắc nhỏm lại chuyện cũ, Nga ở trong nhà cũng thừa dịp ngó ra rồi nối lời:
- Sao cô Huệ cô ấy không sống cố lấy vài năm nữa để mà xui bạn bè chửi bới, nói xấu tôi!
Bà Sinh nghe lời Nga nhớ ngay là nàng muốn nhắc lại cái chuyện nàng bị Huệ và Tuất đánh mắng mấy năm trước. Câu chuyện đó, Huệ có kể lại cho bà biết. Và bà rất tiếc rằng con mình đã gây cái điều không hay đó. Bà ngỏ lời mắng con. Huệ thì cứ bảo mẹ:
- Thế đã thấm vào đâu! Nó còn làm mợ khổ nhiều chứ!
Sự thực thì có vậy. Nhưng bà vẫn muốn tỏ ra là người đứng đắn, không muốn gây sự lôi thôi như vậy. Bà cho câu chuyện đó có tính cách trẻ con và bà đã quên ngay được. Không ngờ nay Nga lại nhắc lại. Chính câu chuyện chẳng có gì khiến bà suy nghĩ nhưng bà khó chịu nhất là cái câu nói và giọng nói của Nga có vẻ châm biếm nhạo báng bà và cả đến đứa con đã qua đời của bà. Đáp lại câu nói của Nga bà Sinh lấy vẻ bình tĩnh như tỏ ý không thèm chấp những cái nhỏ nhặt. Nhưng sự thực trong lòng bà lúc đó xôn xao không biết bao tính tình thù ghét Nga và nhớ tiếc đứa con yêu quý của mình. Nga e sợ rằng chồng sẽ giúp đỡ dăm bảy chục cho bà Sinh bèn vội vàng cao tiếng với chồng:
- Mình xem có thể vay tạm đâu được không...
Rồi nàng ngọt ngào đổi giọng như muốn tỏ ý thân thiện với bà Sinh:
- Nếu có thể vay mượn ở đâu được thì cũng cố mà giúp chị ấy ít nhiều.
Chồng chưa kịp nói gì, nàng lại vội thêm ngay:
- Đi làm thì cứ hết tháng lĩnh lương là hết tiền, còn đâu mà dành dụm.
Bà Sinh biết ngay là Nga đã khôn khéo dùng câu đó ra vẻ như khuyên chồng nên giúp đỡ, nhưng sự thực chỉ ngụ ý muốn bảo thầm là không có tiền đâu mà giúp đỡ. Bà thất vọng thở dài. Ông Sinh cũng đã hiểu cái ý riêng trong câu nói của Nga, nên cũng trả lời vợ cả để lấy lòng vợ hai:
- Đi vay rồi cũng còn phải nghĩ đến giả chứ!
Bà Sinh thấy ngay rằng chồng mình và Nga như đã ăn điệu với nhau để từ chối. Bà cố lấy giọng từ tốn:
- Có sẵn thì giúp tôi chứ đã phải đi vay thì thôi.
Nga ra vẻ thương bà:
- Chị đừng ngại. Vay rồi để cậu trả góp dần...
Bà Sinh biết rằng đó chỉ là câu nói chước bài, và còn ngồi lại đó chỉ thêm khó chịu, bà cầm lá thư của con rồi xin về.
Ra ngoài phố, bà thấy chán nản vô cùng. Bà không ngờ rằng sau sáu năm xa cách chồng, sống trong cảnh nghèo bây giờ là lần thứ nhất bà đặt chân tới nhờ chồng giúp đỡ mà đã bị từ chối như vậy. Nhớ lại cái ngày Huệ chết, bà định về Nam Định xin tiền chồng để làm ma cho con, bà không khỏi tự bảo:
- Giá cái hồi đó mà chờ bố để kiếm tiền mua ván vải thì có dễ đến phải bỏ thối trong nhà!
Cái ý nghĩ đó lại khiến bà nhớ lại ngày còn Huệ trong gia đình. Và cái cảnh nàng đi chợ về rồi xúm nhau lại làm thức ăn, nghe Tài nghêu ngao học bài hoặc hát ru em, cùng nhau khúc khích vui cười vang nhà lại hiện rõ trong trí nhớ bà. Đó là những ngày vàng trong quãng đời xa chồng của bà. Nhớ tới đứa con đã chết đi và đứa con đang bị thiếu thốn trong khi chồng và Nga cùng lũ con của nàng được sung sướng trong sự đầy đủ, bà uất ức tưởng như có vật gì nặng đè trên ngực bà.
Lòng chán nản, vẻ người đờ đẫn như không hồn, bà đủng đỉnh bước một ra bến ô- tô để trở về Kiến An.
Như lời trong thư viết về Kiến An cho mẹ, Tài đã dọn tới một chỗ trọ khác, vì ở đó rẻ hơn được một đồng. Cái lợi đó đối với người khác không là bao nhưng đối với chàng cũng là đáng kể. Không những chỉ một đồng, chàng đã phải tằn tiện tính toán hơn thiệt từng xu. Giấy chàng dùng ở nhà trường thường thường chàng mua hạng xấu nhất. Chỉ rẻ hơn được ba bốn xu là cùng nhưng chàng vẫn nghĩ rằng hà tiện được xu nào càng hay. Còn phải phòng xa những lúc ngòi bút hỏng, hoặc cây chì đã cùn hết.
Trước kia chàng trọ ở phố Quan Thánh, trên một chiếc gác nhỏ. Bà chủ là người bán than. Tất cả gian nhà là cửa hàng. Còn khu gác hẹp bà ngăn ra làm đôi, phần trong là chỗ hai vợ chồng bà và một đứa con, phần ngoài bà dành cho Tài và một người nữa cũng trọ học như chàng. Tất cả cái phần đó chỉ kê vừa một chiếc bàn con và một cái giường tre.
Hai vợ chồng người chủ trọ thì rất khắc nghiệt. Tiền cơm bao giờ cũng bắt đưa trước. Hôm Tài mới dọn tới người vợ ngọt ngào bảo Tài:
- Vì nhà còn rộng, tôi muốn thổi cho vui nhà. Mỗi tháng có sáu đồng bạc, chẳng lãi lời gì. Vậy tiền cơm xin cậu trả đầu tháng.
Hai tháng đầu, chàng đã đưa tiền cơm ngay từ ngày mồng một. Cả hai vợ chồng ra chiều âu yếm săn sóc chàng lắm. Nhưng sang tháng thứ ba, chàng mới chậm trả chừng hơn một tuần lễ mà người vợ đã nói bóng nói gió. Bà bảo thằng ở:
- Liệu mà thổi bớt gạo đi! Hết tiền đong gạo rồi đấy!
Có khi bà ta còn sỗ sàng hơn: “Thổi cơm trọ mà chẳng khác gì người đi nuôi báo cô! Mình cũng là cái thân tội”.
Người cùng ở với chàng thì vẫn thản nhiên, vì người đó vẫn trả đủ tiền vào đầu tháng. Chỉ có Tài là thấy bực tức, nhưng cũng chẳng còn biết nói lại ra sao.
Hôm nào phải thức khuya một chút là bà ta kêu tốn dầu và lại nói to tiếng một mình: “Tháng sau thì đến xin hàng! Lãi lời gì mà đeo đẳng mãi!” Người cùng ở với chàng nghe câu ấy cũng như thấy khó chịu, rồi thành hậm hực, ghét chàng và giục chàng trả tiền cơm. Chàng tức tối lắm, nhưng chỉ biết trả lời: “Tôi chưa có thì anh bảo làm thế nào!” Chàng rất lấy làm khó chịu rằng người bạn đó đã không hề có một chút cảm tình với chàng. Người ấy học ở một trường tư và như ghen tỵ với chàng là một học sinh trường Bưởi tuy chàng không bao giờ kiêu hãnh về cái trường chàng học bao giờ.
Một cái khó chịu nữa cho chàng là hai vợ chồng người chủ trọ cứ luôn luôn đánh nhau cãi nhau. Mỗi ngày ít nhất là một lần. Thực là một nơi bất tiện cho sự học nhưng Tài cũng đành phải ở vậy.
Cái chỗ chàng mới dọn đến thì ở trong ngõ Yên Thành. Chỗ trọ này cũng chẳng hơn gì chỗ cũ và chàng tới chỉ vì rẻ hơn. Hai gian nhà gạch thấp lè tè, nền đất ẩm, không có qua một chiếc cửa sổ. Chiều tối, chưa tối hẳn trong nhà cũng đã phải thắp đèn, vì nhà làm theo lối cổ, hai mái úp hẳn xuống, ánh sáng mặt trời rất khó len vào được.
Dọn tới đó, Tài gửi luôn ngay thư về cho mẹ biết. Thư được gửi đi mấy ngày chàng ngóng đợi thư của mẹ và ngân phiếu. Chàng đã thất vọng và hoàn toàn chán nản khi nhận được tin mẹ bảo rằng đã hết cả tiền và không còn biết vay giật vào đâu được nữa. Chàng tức tối, khó chịu nhất là mẹ kể lại câu chuyện nhờ cha mình giúp đỡ mà đã bị từ chối không được lấy một đồng nào. Chàng cáu kỉnh, không bằng lòng mẹ vì đã hạ mình nhờ cha giúp đỡ. Chàng biết rằng hiện nay cái món lương của cha đã khá to và tuy không còn chung sống nhưng cha mình vẫn lĩnh lương vợ và lương con tức là cái gia đình riêng của mẹ chàng hiện thời, nhưng chàng không hề nghĩ đến nhờ vả cha. Chàng đã cố quên hẳn người cha đó và không hề có thư từ đi lại từ ngày chị chàng chết, mẹ chàng có báo tin mà không thấy cha về thăm hỏi. Lòng thương chị, chết trong sự ghẻ lạnh của người cha đã khiến chàng có một ác cảm thấm thía mà từ trước chàng chưa hề có đối với cha chàng. Chính cái việc đó đã nhiều lần làm chàng nghĩ rằng: “Đối với chị mình mà cũng không có chút tình nghĩa cha con, thì ắt đối với mình hẳn cũng đến thế!” Ngay trong lúc túng thiếu, chẳng bao giờ chàng nghĩ đến sự gửi thư cho cha để xin tiền.
Lần này thấy mẹ nói trong thư là chính mẹ mình đã thân chinh đi Nam Định để nhờ cha cứu giúp mà lại bị từ chối chàng thấy uất ức chẳng khác gì chính chàng đã làm cái việc đó. Chàng lấy làm lạ rằng mẹ chàng lại có thể hạ mình đến như thế được vì chàng cũng đã hiểu rằng mẹ chàng là người rất giàu lòng tự ái. Chàng không hề nghĩ rằng chỉ vì lòng thương con mà mẹ mình, đã phải đành liều vậy. Mấy ngày liền chàng thành lo nghĩ. Học hành cũng thành trễ nải. Chàng không còn hy vọng gì có thể học được nốt hai năm nữa để thi ra. Buồn nhất cho chàng là dọn tới nhà trọ được mấy ngày thì bà chủ hỏi tiền cơm. Trước chàng còn nói dối khất lần. Sau chàng đành thú thực với bà ta là nhà nghèo và còn phải chờ mẹ đi vay mới có tiền trả. Chàng đã thành thực kể cả câu chuyện riêng trong gia đình mình cho bà chủ nghe. Chàng không hề giấu giếm một điều gì. Bà chủ trọ mới này tuy nghèo nhưng rất sẵn lòng thương người. Chỉ mới nghe Tài kể chuyện mà bà đã cảm động đến nỗi khóc lóc như một đứa trẻ con. Và từ đó bà không hề thúc giục đòi hỏi tiền cơm của chàng nữa. Muốn cho chàng được yên lòng, bà dịu dàng bảo chàng:
- Cậu đừng lo nghĩ gì, cứ vui lòng mà học hành. Tiền cơm bao giờ cậu đưa cũng được. Chẳng có đáng là bao, mỗi tháng năm đồng bạc chứ mấy. Tôi không giàu nhưng cũng có thể tạm cấp đỡ trước cho cậu vài ba tháng.
Bà lại còn luôn luôn săn sóc đến chàng tựa như một người mẹ săn sóc con. Bà vá quần áo cho Tài, có khi lại còn giặt giũ hộ chàng nữa để chàng có thêm thì giờ mà học. Tài rất cảm động về lòng tốt của bà chủ mới này. Những lúc rỗi rãi chàng chỉ quanh quẩn bên bà để chuyện trò, để có cảm tưởng như luôn luôn được gần gụi chính mẹ đẻ của chàng. Bà cũng thực thà nói chuyện riêng của bà cho Tài nghe. Chàng được biết chồng bà và đứa con trai lớn làm ở mỏ than Hòn Gay, đứa con trai thứ hai làm bồi cho một người đội tây ở Cẩm Phả, tháng tháng bà vẫn nhận được tiền của hai con gửi về. Tiền ấy bà muốn dành dụm để lấy vợ cho hai con; nên bà mới nhận thổi cơm trọ cho mấy người học trò để kiếm thêm đồng lãi cho sự chi tiêu của một mình bà ở nhà. Hai gian nhà là của đời ông để lại, không phải mất tiền thuê. Bà rủ rỉ nói với Tài:
- Vừa để kiếm đồng lãi hộ thân vừa để cho nó vui nhà cậu ạ. Một mình tôi lủi thủi suốt ngày cũng buồn. Tuy tôi đã ngoài bốn mươi nhưng nhờ giời vẫn còn được mạnh chân khỏe tay, ngày hai bữa thổi nấu cho các cậu cũng chẳng có gì là khó nhọc.
Thấy Tài nói là còn thiếu tiền học và sợ nhà trường tạm đuổi, bà không hề ngần ngừ cho chàng vay ngay bốn đồng. Tài sung sướng đến chảy nước mắt. Chàng được yên tâm để học hành. Nhưng chàng lại nghĩ rằng chịu tiền cơm và giật được tiền học của bà chủ là một điều dễ nhưng còn phải làm thế nào để có mà trả lại. Mẹ chàng thì đã nghèo lắm rồi. Chàng bèn nhờ mấy người bạn và mấy người quen tìm hộ chỗ dạy học ở tư gia. Không được một chỗ nào. Chàng lại gửi tới một tuần báo nhờ đăng trong mục “Cầu ô” để xin chỗ dạy học.
Cái nghèo nàn thiếu thốn trong đó chàng đang sống không hề làm chàng thất vọng về tương lai. Chàng thấy mình rất có thể gắng công để ra thoát được cái nghèo đó và rồi chàng sẽ được biết những ngày sung sướng, nghĩa là có thể đủ để mà theo học cho đến khi thi ra được. Chàng vẫn hy vọng mong đợi. May mắn cho chàng, một tuần lễ sau thì có mấy người viết thư hỏi mượn. Phần nhiều là người có con đã đi học, chỉ cần chàng để giảng giải thêm bài ở nhà trường. Chỗ nào cũng chỉ trả được sáu, bảy đồng là cùng. Mà nhà nào cũng muốn chàng dạy vào buổi tối. Sau hết chàng nhận hai chỗ và thu xếp một chỗ dạy buổi tối một chỗ dạy buổi trưa. Nghĩa là không trùng vào giờ học của nhà trường. Tất cả mỗi tháng chàng kiếm được mười ba đồng. Đối với chàng cũng là thừa thãi để trả tiền ăn, tiền học và sách vở cùng tiêu vặt. Chàng báo cái tin mừng đó cho bà chủ trọ. Bà cũng sung sướng như chàng. Chẳng phải bà sẽ được Tài trả nợ, nhưng bà thấy chàng đã kiếm được tiền để mẹ chàng khỏi phải lo lắng vì chàng. Lần đầu tiên chàng thấy kiêu hãnh rằng mình đã kiếm ra được tiền không còn phải quỵ lụy đến ai và khiến mẹ đỡ vất vả. Chàng có cái sung sướng, cái kiêu hãnh của một kẻ sống tự lập và một đôi khi chàng lại quá khích, đem lòng khinh những bạn bè nhờ vả vào cha mẹ mà đài điếm.
Có một điều làm chàng khó chịu là chàng rất ít thì giờ để học. Hôm nào chàng cũng phải thức khuya đến tận quá nửa đêm mới làm và học xong các bài. Có khi chàng phải thức tới mãi một giờ sáng. Chàng sung sướng không thấy bà chủ kêu ca về nỗi tốn dầu như bà chủ trọ trước.
Khi đã tìm được chỗ dạy học, chàng viết thư về báo tin cho mẹ biết ngay. Chàng đã không quên kể cả chuyện bà chủ trọ cho vay tiền học và rất săn sóc tới mình. Bà Sinh thấy vậy cũng vui lòng. Nhưng bà vẫn thương con về nỗi như thế thì sẽ bị vất vả quá rồi thành ốm đau. Thỉnh thoảng bà lại viết thư khuyên con không nên tham lam mà thức khuya nhiều để hại tới sức khỏe. Bà cũng ngỏ lời hỏi thăm bà chủ trọ. Và bà còn ước mong bao giờ rỗi rãi sẽ lên thăm bà chủ trọ có lòng tốt đó.
Về phần Tài chàng rất muốn nghe lời mẹ, e rồi bị ốm lại khổ mẹ phải chạy tiền thuốc thang. Nhưng chàng vẫn phải thức khuya và dậy sớm mới có thể làm được đủ bài. Nhiều khi thấy sự cần cù học tập của mình chỉ có một cốt đích là để sau này có thể kiếm được tiền, chàng thấy cái mục đích về sự học của chàng có vẻ thấp kém quá. Chàng lại mơ ước và thấy cái sung sướng vô cùng về sự học chỉ để lấy biết, để vun trồng cho tinh thần, cho tình cảm mình.
Mỗi khi nghĩ đến cái sung sướng và cái học không cầu lợi đó, chàng chỉ biết tự an ủi bằng câu:
- Hoàn cảnh bắt vậy thì biết làm thế nào!
Từ khi không còn phải lo lắng đến tiền ăn học của Tài, bà Sinh cũng đỡ buồn. Tuy bà đã thấy mình yếu sức nhiều vì đã trở về già, nhưng bà cũng vẫn cố chịu khó gắng sức làm lụng, dành dụm. Bớt, cô con gái út của bà đã gần lên bảy. Bà cũng cho theo học ở trường tỉnh nhà. Mục đích của bà chẳng phải mong cho con làm cô giáo như nhiều người tưởng; bà chỉ muốn con sẽ có thể đọc được, viết được để thỉnh thoảng có tính toán tiền nong hộ bà. Và cũng để sau này nếu có lấy chồng nghèo thì còn “biết đôi ba chữ mà buôn bán nuôi nhau”. Bà định chờ cho Bớt lớn thêm vài ba tuổi nữa, bà sẽ chăm nom dạy thêm công việc bếp nước và các cách buôn bán. Bà vẫn nghĩ rằng dạy sớm được ngày nào hay ngày ấy; bà chỉ lo khi bà đã nhắm mắt qua đời, con bà hãy còn kém dại, chưa biết qua một chút gì về công việc trong gia đình. Đối với bà thì cái cách dạy dỗ đó là một cách phòng thân cho con gái, một lá bùa hộ mệnh về tương lai. Bà vẫn sợ sau này Bớt đi lấy chồng mà lại bị sa vào cái cảnh chồng ruồng bỏ như chính bà thì lúc đó đã có một nghề trong tay mà nuôi con, khỏi phải khổ sở như bà hiện thời. Hơn nữa bà còn muốn gây cho con một cái vốn riêng để giữ lấy phòng lúc có chuyện không hay với chồng.
Đối với Tài thì cái điều đó không làm bà quan tâm cho lắm, bà tin rồi chàng sẽ thi đỗ và sẽ có việc làm. Xong bà cũng muốn dành dụm để sao cho Tài có đủ mà theo học, không phải đi dạy học nữa để có thêm thì giờ mà học cho dễ đỗ.
Với cái dự định trên đây, bà luôn luôn chăm chỉ suy nghĩ tới việc buôn bán. Cửa hàng thì vẫn như cũ, nhưng bà lại buôn thêm cau tươi và cau khô. Cứ nửa tháng hay hơn nửa tháng bà lại giao cửa hàng cho mẹ ở nhà rồi về hạt Thanh Hà cất cau. Ở vùng đó lại nhiều gà vịt, nên mỗi lần đi cất cau bà lại còn buôn thêm mấy chục gà hay vịt và chừng vài trăm trứng. Mỗi chuyến như thế cũng lãi được chừng một hai chục đồng. Nhờ đó mà bà đã trả được các món nợ và có một cái vốn. Bà mở thêm xưởng bán củi. Nhiều khi bà thấy như không đủ sức để cáng đáng đủ mọi việc nhưng nghĩ đến hai đứa con bà lại kiên tâm làm lụng.
Mẹ bà thì đã già, Bớt còn nhỏ. Các việc đều do bà thu xếp. Trước kia thì còn trông mong vào Huệ. Ngày nay Huệ đã không còn nữa, rồi vú già cứ mỗi ngày càng thêm chậm chạp. Nhất là từ ngày Huệ chết, vú cũng thành buồn bực quá, và nhiều khi thành lười lĩnh chẳng còn thiết gì tới công việc trong nhà. Bà cũng không dám trách mắng gì vú, bà đã biết đó là chỉ bởi sự thương Huệ mà ra. Nhưng thỉnh thoảng bà cũng nhẹ lời bảo vú:
- Vú phải vui vẻ mà giúp đỡ tôi mới được chứ. Bây giờ con Huệ đã chết rồi vú cũng thành chểnh mảng thì mọi cái dồn cả cho tôi ư? Vú thương nó thì cũng phải thương đến tôi, đến thằng Tài, con Bớt nữa chứ. Phải nghĩ đến sự làm ăn để nuôi nhau chứ, sao vú lại cứ buồn phiền mãi thế!
Nghe câu nói, vú cũng lại chăm chỉ làm được chừng vài hôm, rồi lại trở lại như cũ, chậm chạp, uể oải và một đôi khi ngớ ngẩn.
Không còn cách gì để sửa chữa cho người vú già, sau hết, bà cũng đành mặc vú làm ăn ra sao tùy ý. Mỗi lần cần đến một người có đôi chút sức khỏe hơn bà trong việc buôn thì bà lại nhờ tới Tuất. Vì từ ngày Huệ chết đi, bà vẫn đi lại chơi bời với mẹ Tuất và vẫn thường dặn Tuất lại chơi với bà. Đối với Tuất bà coi như người con gái lớn của bà; bà cũng khuyên răn, dạy dỗ và nhiều khi bà cũng chiều chuộng như đứa con một trong nhà. Bà thấy Tuất đã tới hai mươi ba, hai mươi bốn mà chưa có đám nào dạm hỏi, một đôi khi bà cũng đem lòng thương nàng, e sợ cho nàng sẽ sa vào cảnh ế chồng. Đã có khi bà nghĩ đến cách mối manh hộ Tuất nhưng cũng không có kết quả gì. Bà vẫn áy náy, không biết rồi sẽ trả ơn lòng tốt của Tuất bằng cách gì. Mỗi lần gần nàng bà chỉ nghĩ đến sự tỏ tình thương mến nàng và săn sóc đến nàng. Nhờ có sự giúp đỡ của Tuất mà trong việc buôn bán của bà nhiều khi cũng được dễ dãi hơn lên đôi chút. Và cũng vì thế mà không bao giờ bà nản lòng.
Ngày nào cũng vậy, bà dậy ngay từ bốn năm giờ sáng gọi vú già mở cửa hàng, quét nhà. Còn bà thì xếp các thứ hàng ra bày trước cửa nhà rồi thăm lại xưởng củi, giục người xay bột, rán mỡ để làm nhân bánh. Hết việc này sang việc khác, chẳng bao giờ bà chịu ngồi yên một chỗ. Bà vui vẻ với những công việc vụn vặt trong nhà. Chẳng bao giờ bà thở than vì đã phải bận rộn suốt ngày. Bà chỉ lo lắng không có việc để được bận bịu, ngồi rỗi lại chỉ nghĩ đến những cái khổ sở trong cái kiếp chồng chung của bà.
Một buổi sáng hè, mặt trời vừa mới mọc nên không nóng quá. Thỉnh thoảng một luồng gió đông mát thổi động trong khu vườn.
Bà Sinh và Tài ngồi trên chiếc chõng tre kê trong khoảng bóng rợp của gian nhà bếp in dài trên khu sân con. Cái mát của ban đêm còn đượm không khí trời buổi sáng khiến Tài thấy người khoan khoái, nhẹ nhàng. Chàng đưa mắt ngắm mảnh vườn ở phía trái. Muốn tằn tiện kiếm thêm chút lời cho nhà, mẹ chàng đã trồng hai luống rau cải và rau đay, chỉ còn dành một khoảng đất rộng chừng bằng nửa chiếc chiếu giồng hoa hồng để lấy hoa cúng những ngày mồng một và ngày rằm. Giữa khu vườn là cây hoàng lan cao vót rủ cành. Phía bên phải là chiếc bể đựng nước mưa. Tài ngắm nghía cái cảnh sơ sài đó và thấy vui trong lòng. Cái cảnh ấy chàng đã thân thuộc lắm, nhắm mắt lại chàng cũng có thể biết rõ được từng luống rau, từng gốc hồng, nhưng mỗi lần trở về nhà thăm mẹ chàng lại thấy có cái cảm giác khác, vì theo thời gian tính tình chàng đã thay đổi chút ít. Khi còn nhỏ, chàng coi khu vườn như một nơi nô nghịch tốt, vì có lối chạy, lại có bướm trắng, bướm vàng để nô bắt, hoặc tìm tòi những tổ sâu dính trên lá hồng để làm kèn. Chàng buồn cười nhất khi nhìn tới cái bể nước mưa. Chàng vẫn chưa quên hồi còn nhỏ, một lần ăn cơm đánh vãi ra giường nhiều quá bị mẹ mắng, chàng giận mẹ rồi bữa ấy bỏ cơm không ăn. Tới chiều đói quá mà cả nhà không ai lấy cơm cho mình ăn, chàng bèn đe với mẹ rằng sẽ đi tự tử.
- Thì mày đi tự tử! Tao càng khỏi phải nuôi, tao đang nghèo sẵn.
Mẹ vừa dứt lời, chàng bèn vùng vằng chạy ngay ra sân rồi một mình ì ạch lôi chiếc thang con bắc lên trên thành bể, trèo lên đó. Chàng băn khoăn nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, chàng hơi tức mình rồi kêu to một mình:
- Ông cứ nhảy xuống cái bể này ông tự tử cho mà xem!
Mẹ chàng ngó ra thấy con bắc thang lên thành bể, bèn vội vàng chạy ra, sợ con ngã, bà vội bế ngay con xuống. Bà rất giận Tài nhưng bà không thể nín được cười. Mỗi lần có ai đến nhà, bà lại mang câu chuyện tự tử của chàng ra kể. Mọi người lại cười vang. Chàng thẹn thùng chỉ biết đi trốn, chàng hãy còn nhớ rằng lúc được mẹ bế xuống chàng thấy sung sướng lắm. Nhớ lại cái chuyện cũ đó, bỗng nhiên chàng lại càng thấy cái cảnh trước mặt là thân mật.
Bây giờ thì chàng thấy cái cảnh của khu vườn giản dị, mộc mạc ăn điệu với cái cảnh nghèo nàn của gia đình chàng. Và chàng coi khu vườn như một người bạn thân yêu, hiền từ của tất cả mọi người trong nhà chàng. Chàng thấy cái nghèo của gia đình mình cũng có một cái vui, một cái thi vị riêng. Nhớ lại những buổi đi chơi về vùng quê với mấy người bạn vào những ngày nghỉ chàng lại cười chính mình đã lấy làm lạ rằng sao những người nhà quê làm lụng vất vả đến thế mà họ cũng có thể vẫn vui vẻ bông đùa ca hát với nhau được. Bây giờ chàng mới được hiểu rõ rằng trong mọi cảnh sống đều có vui buồn pha lẫn. Và trong giờ khắc đó, chàng mang máng thấy rằng sống không cần phải giàu có, xa hoa, như trước kia chàng đã tưởng. Cái bóng bẩy bề ngoài chàng thấy rõ rằng không phải là những cái cần thiết để ta thấy vui trong sự sống hằng ngày. Trái hẳn với những lúc chàng xa mẹ, thiếu tiền ăn, tiền học, tự nhiên trong lúc đó chàng không hề mơ ước tiền của, chàng lại còn như mong được suốt đời sống trong cảnh giản dị mộc mạc đó.
Bà Sinh ngồi bên con, đang chẻ tăm, ngẩng đầu nhìn con, thấy con đang ra vẻ suy nghĩ cất tiếng nói:
- Mợ trông con có vẻ buồn bực lắm. Hay là thôi đừng đi nữa con ạ.
Tài đã cố giữ sự trầm mặc là để toàn hưởng cái vui chàng đang cảm thấy trong lòng, cái vui mà chàng tưởng như chỉ một tiếng động hoặc một cái cựa mình cũng có thể làm tiêu tán mất. Thấy mẹ tưởng mình đang buồn bực, chàng cãi ngay:
- Không, con không buồn bực gì cả. Chính con đang vui mà mợ không biết...
Bà Sinh không hiểu con định nói gì, nhưng thấy con tươi tỉnh nét mặt nhìn con vẻ âu yếm, trong lòng chan chứa không biết bao sự sung sướng. Tài như cảm thấy rõ lúc đó mẹ mình cũng đang vui sướng một cách yên tĩnh. Rồi hai mẹ con đăm đăm nhìn nhau như để trao lẫn cho nhau cái vui sướng của riêng lòng mình. Tài nói tiếp lời:
- Đây với Vĩnh Yên thì xa xôi gì mà con lo ngại. Có nhớ mợ thì thỉnh thoảng con về chơi. - Xem mấy giờ rồi liệu mà ra ô tô kẻo nhỡ, con ạ...
Tài đứng dậy vào nhà trong soát lại các đồ vật đã xếp trong chiếc cặp da cũ, sách vở, quần áo, rồi sửa soạn ra đi.
Tài lên Vĩnh Yên để nhận một chỗ dạy học tại nhà một ông điền chủ, ăn ở trong nhà mỗi tháng ông ta trả thêm mười lăm đồng. Chỗ dạy học này của một người bạn giới thiệu cho chàng. Sung (tên người bạn) là bạn thân của chàng từ năm còn học ở năm thứ nhất. Sung không giàu nhưng cũng có đủ tiền ăn học, không đến nỗi túng thiếu như Tài. Ngay từ khi mới quen biết Tài, đã nhiều lần Sung tìm cách giúp đỡ bạn. Không kể những lúc Tài thiếu sách học, chàng cho mượn, có nhiều khi chàng còn tằn tiện rồi cho bạn mượn cả tiền nữa. Cái chỗ dạy học này là của một người quen giới thiệu cho chàng. Chàng cũng đã muốn nhận để kiếm thêm tiền mua sách xem ngoài, nhưng thấy Tài túng thiếu hơn chàng nhiều nên chàng đã nhường lại cho bạn. Tài thì muốn trong vụ hè về ở với mẹ để nghỉ ngơi lấy sức sang năm lên năm thứ tư vào học thi. Vả chàng cũng đã chán cái cảnh đi dạy học ở tư gia. Chàng đã gọi cái nghề đó là nghề “cậu giáo”, vì ở nhà nào người ta cũng chỉ gọi chàng bằng hai cái tiếng đó. Trong cái nghề cậu giáo này, chàng được biết nhiều cái rất khó chịu. Người nào cũng tưởng rằng mỗi tháng trả chàng một vài đồng thì có quyền hoạnh họe đủ điều. Con họ không thông minh họ cũng bảo là tại chàng lười lĩnh. Chúng học không được tấn tới, họ cũng đổ tại chàng không biết cách khuyến khích trẻ. Có đứa học lâu không thuộc bài thì họ bảo tại chàng không giảng cẩn thận cho chúng hiểu. Khi tới nhận dạy thì người ta mặc cả là dạy một giờ hay hai giờ nhưng thường thường người ta bắt chàng dạy tới gấp đôi. Bao giờ bài vở nhà trường xong, người ta còn bắt chàng ra thêm bài nhà. Số tiền người ta trả cho chàng có lẽ không bao giờ đáng một nửa sự khó nhọc của chàng. Trong một năm trời làm nghề cậu giáo chàng đã được biết nhiều người giàu có mà rất bủn xỉn. Đã có một nhà, đôi vợ chồng bàn cãi nhau mãi mà không xong về số tiền họ định trả cho chàng. Hai đứa con học hai lớp khác nhau, mỗi ngày dạy một giờ. Người chồng thì bằng lòng trả ba đồng rưỡi, người vợ nhất định chỉ trả ba đồng. Hai người tiếng nhỏ tiếng to mãi. Rồi sau hết người vợ bảo chồng và ngay trước mặt chàng:
- Trả ba đồng nghĩa là mỗi ngày một hào. Như thế để khi nào cậu ấy nghỉ thì trừ tiền cho nó dễ!
Những câu nói đó đã khiến chàng nhận thấy rõ hết tất cả cái tầm thường của những kẻ giàu có hơn chàng... Không một chút tình cảm gì giữa những người mượn chàng, những đứa học trò của chàng và chàng. Những lúc chàng muốn tỏ vẻ yêu mến những đứa trẻ thì chúng lại nhờn với chàng và tìm cách chế giễu chàng.
Vì lẽ đó mà tuy có cần tiền để học thêm, chàng cũng thấy chán cái cảnh kiếm tiền bằng lối gõ đầu trẻ. Nhưng Sung đã khuyên nhủ Tài:
- Anh chẳng nên lấy điều đó làm khó chịu. Cứ miễn là anh dạy đủ bổn phận của anh là đủ. Còn họ nghĩ sao mặc họ... Cái chỗ này thì không phải mất tiền ăn mà lại được thêm mười lăm đồng. Không những thế, anh lại còn có hy vọng dạy thêm những trẻ ngoài, mỗi tháng anh có thể kiếm được tới ba chục đồng.
Cái món tiền đó cũng chưa đủ làm Tài ưng thuận. Sung lại tìm một lời khuyên khác:
- Anh cố lên đó dạy: sau ba tháng hè, anh có thể kiếm được tất cả chừng chín chục đồng. Với món tiền đó thì sang năm anh có thể yên chí mà học thi được.
Cái lý lẽ cuối cùng này đã khiến chàng nhận lời đi. Người chủ nhà thì muốn chàng lên ngay. Nhưng chàng cứ nấn ná ở lại nhà với mẹ mãi. Tới hôm nay chàng mới có thể ra đi được. Thực là một sự bắt buộc cho chàng vì dù sao chàng cũng muốn ở lại nhà với mẹ trong vụ hè. Suốt cả năm học chàng chỉ về với mẹ được hai lần, ngày tết và vụ nghỉ hè. Những ngày nghỉ lễ chàng cũng muốn trở về thăm mẹ và bà nhưng lại e đi về tốn phí quá. Vừa tiền tàu tiền ô tô cũng mất tới ba đồng là tằn tiện. Vì vậy rất ít khi chàng được gần gũi người mẹ mà chàng rất kính trọng, rất yêu mến. Yêu mến vì đã khó nhọc nuôi chàng và yêu mến cũng bởi mẹ chàng đã chịu nhiều cái đau khổ bởi cha chàng gây nên. Lòng thương mẹ một đôi khi đã làm chàng có ý muốn bỏ dở học để kiếm một việc làm giúp đỡ mẹ cho mẹ đỡ vất vả. Nhưng mỗi lần chàng ngỏ cái ý định đó với mẹ, bà lại gạt đi và khuyên chàng cứ chịu khó học thêm. Nghĩ đến Bớt, đứa em gái của chàng, nhiều khi chàng cũng thấy áy náy trong lòng. Khi chàng còn thơ ấu chàng cũng chẳng được sung sướng gì hơn em, nhưng mỗi lần được trông thấy những đứa trẻ cùng tuổi với em mình có những đồ chơi đẹp mắt mà Bớt không có một tí gì để chơi chàng cũng đem lòng thương em. Chàng cho đó là một sự thiếu thốn rất khó chịu cho một đứa trẻ. Những đồ chơi của Bớt chỉ là cái ống sữa cũ, chiếc hộp giấy rách hay một vài tấm ảnh đã hoen ố.
Chàng còn nhớ một lần về thăm nhà, chàng dắt em đi chơi, chẳng may Bớt được trông thấy một con búp bê con của một đứa trẻ gần phố. Con búp-bê đẹp quá, mặc áo len màu đỏ thẫm pha đốm trắng; Bớt đã nhìn con búp bê vẻ thèm thuồng như người đói lâu trông thấy bữa cơm ngon. Chàng thương em quá và chưa bao giờ bằng lúc đó chàng cảm rõ thấy cái khổ vì nghèo. Chàng nén lòng dắt em lánh xa con búp-bê: nhưng không sao Bớt rời mắt khỏi được cái đồ chơi đó. Chàng đã phải nắm chặt tay em và lôi em đi rồi ngọt ngào:
- Ít nữa anh sẽ mua cho em con búp-bê như thế.
Cái câu nói đó đến nay vẫn còn lởn vởn trong óc chàng. Và mỗi lần về thăm em, chàng rất bực tức về nỗi không có sẵn tiền để mua cho em con búp-bê. Chỉ một vài tấm bánh hay một gói kẹo con là cùng. Cứ hễ chàng vừa đặt chân về tới nhà nhìn thấy hai con mắt của em chàng đã tưởng như em mình đang đòi hỏi món quà mà mình đã hứa hẹn và chàng lại thành suy nghĩ mênh mang... Chàng vừa loay hoay với những ý nghĩ trên đây vừa ôn nhớ lại mấy ngày chàng đã sống bên mẹ, từ hôm được nghỉ hè về, tới hôm chàng phải đi Vĩnh Yên.