← Quay lại trang sách

Chương bốn

Sài Gòn đón Di bằng một thái độ thờ ơ pha ít nhiều ngán ngẩm, như thể một người đã ăn quá no lại được mời thêm một món không hề ưa thích. Cái gương mặt vừa háo hức vừa e dè của Di thể hiện nét đặc trưng của người tỉnh lẻ.

Còn Di, không hiểu sao khi đặt chân đến bến xe, Di bỗng nhớ lại cảm giác của mình khi lần đầu được nhìn bên trong cái radio mà cậu mở ra để sửa. Lúc đó Di chừng sáu, bảy tuổi. Một ngày kia cái radio của ngoại không hát nữa, nó cứ kêu rè rè rồi nín bặt như một người bị bóp cổ. Trước giờ Di cứ tưởng tượng có những người tí hon nhỏ bằng ngón tay út ở trong đó, nên khi chỉ thấy một mớ dây điện và mấy cái bóng đèn nhỏ xíu Di vô cùng ngạc nhiên và hụt hẩng, giống như cho tay vào một túi gấm thật đẹp mà móc ra chỉ có mấy viên đá xù xì.

Ngày còn nhỏ Di rất khoái hóng chuyện, mỗi lần mấy ông bạn của ngoại đến Di hay mượn cớ bưng nước ra mời rồi đấm lưng cho ngoại để nghe lóm. Thường thì các cụ hay nhắc đến việc ông cha ngày xưa đã cơ cực khai khẩn miền đất hoang sơ nầy như thế nào. Di còn nhớ ngoại kể cánh đồng của quê Di ngày xưa có đầm sen rất rộng, một lần ngoại đi xuyên qua bị gai cào nát cái quần. Rồi kể đến những sản vật dồi dào mà thiên nhiên ban tặng: Mấy con rùa to cỡ hai bàn tay nối lại, khi đốt cỏ khai hoang phải chạy bỏ lại cả ổ trứng. Cá lội đầy sông, chỉ cần nhúng cái rỗ xuống là xúc lên cả một rỗ đầy không cần rải cám nhử. Ngoại tắm sông còn bị cá nóc cắn cụt ngón chân út. Trong đồng thì đỉa nhiều đến hút cạn máu của cả một con bò.

Ai một lần đến Sài gòn đều đem về một câu chuyện. Di nghe một cách say sưa, để cho bộ óc tưởng tượng của mình hoạt động hết cỡ. Lúc đó Di cứ nghĩ Sài Gòn chắc là hoàn toàn trái ngược với quê Di, như thể một tòa lâu đài với cái nhà lá nhỏ, bên trong của nó rất tráng lệ, rất náo nhiệt rất...nguy hiểm! Sau nầy dù đã lớn nhưng ấn tượng về nó lần đầu trong Di vẫn còn đậm nét.

Câu trả lời mà Di thường được nghe nhiều nhất về Sài Gòn là xe cộ rất nhiều và chạy rất ẩu, người bị xe cán chết ngày nào cũng có. Còn có nạn móc túi và giựt dây chuyền nữa, rồi không hiểu có phải để hù dọa Di hay không, mà họ hay nhấn mạnh rằng những đứa con gái như Di thường bị dụ rồi đem bán mất tiêu. Cho nên khi đến Sài Gòn, Di giống như con cá từ mương ra sông lớn cứ men theo bờ mà đi. Di không dám băng qua đường một mình, cứ đi tà tà chờ có người sắp qua đường thì tháp tùng theo. Còn trong giao tiếp thì hai từ "cám ơn" và"xin lỗi" có lẽ được Di dùng nhiều nhất.

Căn nhà đầu tiên mà chị em Di ở trọ rất gần cái công viên, nằm trong xóm nhỏ với gát thấp, mái tôn nên vào buổi trưa rất nóng. Chiều chiều Di hay năn nỉ chị Ba dẫn Di ra công viên hóng mát, chị hơi ngần ngừ rồi cũng chìu Di. Có một lần hai chị em mãi mê nói chuyện trời tối hồi nào không hay, có hai người đàn ông xán tới gần rủ Di và chị đi uống nước thế là hai chị em sợ quá, từ đó không dám ra công viên nữa.

Có hai điểm ở Sài Gòn thu hút Di nhất là nhà sách và sở thú. Sở thú thì phải tốn tiền mua vé nên lâu lâu Di mới vô một lần, còn nhà sách thì chủ nhật và ngày nghỉ, Di và chị Ba đóng đô suốt buổi. Ban đầu coi sách cọp Di mắc cỡ dữ lắm riết rồi cũng quen...

Một điểm đặc biệt khác của Sài Gòn mà Di rất thích, là ở đây người ta sống đúng theo bản chất của mình không bị gò bó. Ai ăn gì? mặc gì? cũng chẳng bị phê phán mà có bị họ cũng cóc cần. Buổi sáng mấy bà nội trợ dậy muộn có khi không thèm thay bộ đồ mặc ngủ. Xách giỏ đi te te ra chợ hay ngồi chồm hổm bên gánh hàng ăn ghé vội giữa con hẻm, vừa nhai chóp chép vừa chuyện trò rôm rả. Mấy con đường trong xóm thường rất nhỏ nên gánh hàng và nhóm thực khách thường lấp kín lối đi. Lâu lâu một chiếc xe đạp hay Hon đa chạy tới phải dừng lại chờ họ nép, hay dọn tạm vào hiên của căn nhà nào đó. Mấy ông ấy chờ lâu nên quạu, buột miệng cằn nhằn: "Đàn bà, con gái gì mà ăn hàng giữa đường, giữa xá". Thế là bị mấy bà chửi té tát lại liền: "Thây kệ tụi tui, lo mà về dạy vợ, dạy con ông á!".

Đêm hôm ấy Di và chị Ba nói chuyện rất khuya, chị Ba hỏi:

-Em đã quyết định ghi danh vào trường nào chưa?

Di kể cho chị hầu như nguyên văn những lời của má, ngoại và dì, dượng Bảy. Chị Ba thở dài rồi nói:

-Chị thấy có lỗi với má và em quá! Hồi chị thi đậu má cũng muốn chị đi theo ngành y, khi biết chị học văn má buồn lắm, nếu được làm lại chắc chị chọn theo ý má cho má vui lòng.

Vậy là Di quyết định ghi danh vào đại học khoa học lấy bằng dự bị SPCN để thi vào y, cánh cửa nầy mở rất hẹp cho nên muốn vào được bên trong chắc phải chen lấn đến trầy da tróc vảy.

Sáng hôm sau chị Ba chở Di đến một ngôi trường rất to, rất đẹp, với những cây Liêm Xẹt vượt lên rất cao, hoa từng chùm nở rợp, vàng rực trên cây và rơi lót đầy mặt đất. Bao nhiêu bàn chân giẩm lên một cách vô tình làm Di nghe xon xót nhưng rồi cũng không thể nào tránh được. Hoa cứ rụng mặc dù trời không có gió, một mùi thơm rất dễ chịu thoang thoảng trong không khí, có mấy bông điệu đà bám nhẹ lên những mái tóc dài hoặc ngắn, nằm chưa lâu là bị rớt xuống liền. Hình như tóc Di cũng được bám vào và chị Ba đưa tay phủi ngay làm Di nghe tiêng tiếc.

Các thầy cô không gọi sinh viên bằng em một cách thân mật mà bằng anh và chị, chắc muốn cho họ nhận thức được là mình đã lớn và từ nay phải có trách nhiệm trong việc học của mình. Không còn học để trả bài, làm bài và tìm cách đối phó với thầy cô như ở lớp dưới nữa. Đã quá quen với cung cách cũ nên giai đoạn đầu Di chưa thích ứng ngay được. Chỉ cái chuyện giành chỗ mỗi ngày cũng làm cho Di phiền lòng. Năm giờ sáng phải đi thực tập, đi thật sớm để có được một chỗ gần đèn, rồi nhanh chân chiếm chỗ trong thư viện ngồi học. Đến trưa, ăn vội một ổ bánh mì thịt xong là ba chân bốn cẳng chạy tới giảng đường để giành chỗ tiếp. May mà trường gần nhà nên học xong Di đi bộ về không phải chạy ra trạm xe buýt như các bạn nhà xa. Cái câu cách ngôn "đời là tranh đấu" được áp dụng triệt để bắt đầu từ lúc nầy.

Đội ngũ xe ôm ở Sài gòn rất hùng hậu, đi một quảng là có người xán đến hỏi. ban đầu Di cứ ngỡ mình bị ghẹo nên mắc cỡ cắm đầu bước nhanh như chạy, sau nầy biết ra cứ cười thầm...

Di kết thân với nhóm bạn và cùng phân công giành chỗ cho nhau. Phát hiện ra ở đây dân học trường tây và những trường có tên tuổi, kiêu hãnh hơn người khác. Trường Di con gái không ăn diện như bên văn của chị Ba và cũng ít người đẹp hơn. Cũng hiếm những đôi trai gái rù rì, tuy nhiên đám con trai nhất là trai Bắc cũng tán gái điệu nghệ lắm. Di nhớ có một tên hay tìm cách ngồi gần, làm quen và hỏi tên của Di. Di đáp một cách hóm hỉnh:

-Tên tui bắt đầu bằng chữ D.

Vậy mà hắn ta đoán trúng phóc, thấy Di ngạc nhiên quá cỡ, hắn bèn giải thích:

-Bởi vì chỉ có cái tên đó đẹp nhất và tôi thích nhất.

Cái tên tán chị Ba còn vui hơn nữa, chị tên Lệ, y ta nói với chị bằng một giọng rất dí dỏm:

-Cả đời nầy tôi sẽ không bao giờ quên cô!

-Sao vậy?

-Tôi tên Lê bỏ dấu nặng nữa là thành Lệ.

Chị kể cho Di nghe, hai chị em cười muốn đau bụng luôn.

Ai ở Sài gòn lâu cũng đưa ra một kết luận là Sài gòn là nơi "dễ ăn, khó ở". Thật vậy, rất khó tìm ra một chỗ trọ hợp túi tiền và tiện nghi, dân tỉnh như Di đã quen với môi trường thông thoáng nên lúc đầu cứ thấy ngợp ngợp như thiếu không khí vậy. Đường xá bụi bặm nhiều nên hình như Di cũng thở ít khi ra ngoài, bởi vậy khi về đến nhà là nghe khô rát cổ.

Hàng ăn và món ăn thì vô cùng phong phú đủ mọi thứ và đủ mọi giá, chỉ có cái là người Sài gòn thích cho màu đỏ vào thức ăn quá! Kể cả mắm cũng ướp màu đỏ, mấy nồi bún rêu, bún ốc, bánh canh cua thì khỏi phải nói. Người Sài gòn thích ăn bên ngoài vào mọi lúc mọi nơi, sáng, trưa, chiều và nhất là vào buổi tối. Mấy quán ăn ở khu vực chợ lớn vô cùng tấp nập, còn trong hẻm nhỏ thì vô số hàng rong gánh dập dìu. Mấy chị bán hàng nhớ tên từng người khách mỗi lần đi ngang là mời đích danh, như cái chị bán bánh ít trần đó! Di mua có mấy lần thôi mà hể đi ngang nhà là bị chị réo liền:

-Mua bánh hông cô Di?

Làm Di mắc cỡ muốn chết!

Lần đầu nghe chị ba nói chở Di đi ăn bò bía cho biết Di háo hức lắm. Giờ tan học chiều gần trường Gia Long, mấy xe bò bía bị các nàng tiên áo trắng vây quanh y như mấy cục kẹo bị kiến bu kín vậy. Chị Ba vất vả lắm mới chui lọt vào trong. rồi bưng ra cho Di một dĩa có những cuốn nho nhỏ bằng ngón tay cái. Di ăn rồi nói:

-Cái cuốn của em không có thịt bò.

Chị Ba cười giải thích:

-Người ta gọi tên nó theo âm tiếng Hoa đọc trại ra, chớ nó chỉ có lạp xưởng, trứng vịt chiên, đậu phọng rang, củ sắn và rau thôi!

Thế là Di làm quen và kết thân với bò bía luôn kể từ hôm đó.

Di yêu lắm Sài gòn khi rạng sáng! Những ngày thực tập phải ra đường trước năm giờ. Di bước khẽ khàng qua những dãy nhà hãy còn nhắm mắt. Những con đường duỗi dài thở rất nhẹ và êm. Những ngả tư vắng lặng đang chìm sâu trong giấc ngủ, mặc tình những ngọn đèn xanh, đỏ, vàng, cứ thay phiên nhau lay gọi. Không khí lúc nầy rất trong lành và hơi se lạnh. Như thể mặt đất vừa tắm xong và bầu trời giống chiếc khăn được giặt cẩn thận, đã gột sạch dấu vết của những ngôi sao và mặt trăng bỏ lại để chuẩn bị lau khô cho nó. Di cố căng hết lồng ngực ra để hít thật sâu, thật đầy, thật nhiều cái không khí trinh nguyên ấy hầu để dành dùng đủ cho cả ngày.

Những chiếc xe đạp với cái giỏ tre rất to đựng đầy hoa từ phía sau chạy lướt qua, rải một mùi thơm dọc theo lối đi. Những gánh rau xanh mướt trên vai những người phụ nữ gầy gò, bước thoăn thoắt như chạy đua cùng tia nắng sớm.Những đứa bé bán báo chọc thủng không gian bằng tiếng rao lanh lảnh của nó. Đến lúc nầy Sài Gòn mới uể oải ngồi dậy, vừa ngáp vừa dụi mắt chuẩn bị một ngày mới. Những ngọn đèn đường cũng đồng loạt tắt ngấm, vội vã kéo nhau đi tìm một giấc ngủ muộn màng.

Mất mấy tháng để thâm nhập, bây giờ Di đã không còn sợ băng ngang qua đường một mình nữa. Đã dám phóng xe đạp đi lang thang và uống nước mía mà không còn sợ đau bụng. Vậy là đủ để Di gia nhập vào đội ngủ của các sinh viên đi tìm việc làm thêm và dạy kèm. Một buổi sáng Di cắt một mảnh báo có ghi mấy cái địa chỉ cần gia sư, gói theo thẻ căn cước và mảnh bằng rồi trực chỉ lên đường, đi sưu tầm những tấm ảnh của đức Trần Hưng Đạo.

Căn nhà mà Di tìm đến nằm trong cư xá Lử Gia, nó rất bề thế với ba tầng lầu cao nghệu. Một tấm bảng có ghi "Coi chừng chó dữ'" làm cho Di rất e dè khi bấm chuông. Như để dằn mặt, một con chó Bẹt giê to đùng vừa sủa vừa nhảy chồm như muốn xông vào Di mà cắn. Một người phụ nữ trung niên vội vã đi ra, nhìn Di rồi hỏi:

-Cô kiếm ai?

Di ấp úng hỏi:

-Có phải đây là địa chỉ đăng báo cần gia sư hông cô?

-Đúng rồi, cô chờ một chút để tui xích con chó lại rồi hãy vô nghen!

Di rón rén bước vô, con chó nhìn Di tỏ vẻ nghi ngờ rồi le cái lưỡi đỏ lòm, dài thòn ra đe dọa. Di được mời ngồi ở sa lông chờ cổ lên lầu mời chủ. Cảm giác hồi họp, bất an cứ dấy lên từng đợt trong lòng Di. Chừng mười lăm phút sau một người đàn ông trạc bốn mươi mặc pyjama từ trên lầu đi xuống. Di đứng bật dậy:

-Chào chú.

-Ngồi đi em, xin lỗi nghe, chắc chờ lâu hơi sốt ruột phải không?

-Dạ hổng sao.

Ông chủ vừa hỏi tên tuổi, quê quán vừa xem giấy tờ Di trưng ra, thấy điểm toán của Di cao ổng lộ vẻ hài lòng, nói:

-Anh nói trước để em đừng có nản. Thằng nhỏ con anh nó lười và dốt lắm, năm nào cũng bị đúp. Nó cũng hơi lì vì vậy em phải ráng kiên nhẫn, dỗ ngọt cho nó học. Anh sẽ trả tiền nhiều hơn người ta một chút, em không có bị thiệt thòi đâu!

Di không ngờ mình gặp may dữ vậy! Nghe bè bạn và chị Ba than là đi mòn vỏ xe mà chưa kiếm nỗi một chỗ, còn Di mới đi một lần mà được nhận liền. Di mừng quá nói lấp bấp:

-Dạ cháu cám ơn chú!

-Có gì đâu mà cám ơn, mà đừng có gọi bằng chú nữa, gọi bằng anh thôi!

-Dạ!

Ngay ngày dạy đầu tiên là Di đã dội ngược. Thằng học trò cao hơn Di gần một tấc, mười bảy tuổi mà mới học lớp chín, mất căn bản đủ mọi môn. Cái mặt khinh khỉnh và con mắt ngổ ngáo của nó làm Di có cảm giác như vị trí thay đổi. Di là con bé học trò còn nó như thầy giáo vậy. Di ấp úng giới thiệu tên mình rồi hỏi tên của nó. Nó trả lời một tiếng một:

-Bảo.

Di nhủ thầm đúng là Di sắp bị "bão" thật rồi. Di hỏi mấy câu để xem trình độ của nó tới đâu, thật là nản lòng, cái gì nó cũng lắc đầu không biết. Tên mấy công thức, phương trình và hằng đẳng thức đã học từ lâu mà y như mới nghe qua lần đầu. Nó lắc đầu tới đâu là Di giảng lại tới đó, gần một tiếng đồng hồ nói khô cả cổ cuối cùng Di hỏi nó:

-Nãy giờ chị giảng vậy em có hiểu hông? Nếu có gì chưa biết em cứ hỏi lại.

Nó nhìn Di chăm chăm rồi hỏi, không cười:

-Chị có bồ chưa?

Di kêu thầm trong bụng: "Trời ơi! sao nỡ đọa đầy con", nuốt nước miếng cho trơn cái cổ rồi gật đầu:

-Rồi.

-Xạo.

-Em đừng có hổn, đừng hỏi những câu như vậy nữa. Chị chỉ trả lời cho em những câu hỏi về bài học thôi!

-Chị phải trả lời nếu không tui không học.

Cái cách nó nói như ban ra mệnh lệnh làm Di bực mình hết chỗ nói, bèn gằn giọng:

-Em nên nhớ là em học cho chính bản thân mình...

Mới nói tới đó là nó bịt tai lắc đầu rú lên:

-Biết rồi, câu nầy một ngày nghe đến mấy chục lần, chán lắm rồi!

Chị giúp việc bưng ly nước lên cho Di, thấy thế để vội lên bàn rồi lủi nhanh liền. Vừa cầm ly nước uống Di vừa suy nghĩ, chẳng lẻ mới ra trận lần đầu mà cuốn cờ bỏ chạy hay sao? Ta đã từng làm lớp trưởng, đã điều khiển những đứa bạn cũng cứng đầu cứng cổ, không lẻ bây giờ lại thua cái thằng nhóc hổn hào nầy? Như đoán được ý Di nó nói giọng có hơi dịu lại:

-Chị đừng có mong giáo hóa tui, tui chỉ học khi nào thích và có hứng. Thấy chị hiền tui muốn thân thiện hơn nên hỏi vậy thôi, có gì đâu mà hổn. Chị cũng đâu có lớn tuổi hơn tui nhiều mà lên giọng như má tui vậy!

Vậy là một ngày đầy sấm sét đã trôi qua. Đánh đổ cả nhiệt tình và những ảo tưởng của Di về một cô giáo nhu mì, tận tâm và cậu học trò thật dễ thương sẽ xem Di như thần tượng.

Chính tính hiếu thắng, bướng bỉnh, tự phụ đã buộc Di phải tiếp tục cái công việc mà Di rất sợ. Di không muốn thừa nhận rằng, có một trở ngại duy nhất làm Di bị đánh gục. Đó là cái tính tàn nhẫn của con người, nhất là của thằng nhải ranh ngổ ngược ấy. Di nhất quyết phải thắng nó bằng mọi giá, chẳng phải vì lòng trắc ẩn cố sửa chửa, dạy dỗ nó. Di chỉ muốn khẳng định với chính mình rằng không gì có thể ngáng trở, thay đổi hướng đi mà Di đã vạch sẵn.

Lần thứ nhì đến dạy. Nó đón Di bằng một nụ cười nửa như giảng hòa nửa như thách đố. Di phát hiện rằng nó rất thông minh, biết dừng lại đúng lúc khi sợi dây giao tiếp giữa nó và Di quá căng thẳng.

Tuần lễ thứ hai nó không gọi Di bằng chị cộc lốc mà kèm thêm tên, rồi tiếng chị bị ăn gian chỉ còn một nửa. Nó hay tìm cách nhìn xoáy vào người Di, tia mắt như một tên trộm cố lách qua khe cửa, kẻ hở mành như sợi chỉ, nằm giữa hai cái núc áo thứ nhất và thứ nhì trên ngực. Từ đó Di không dám mặc áo sơ mi mà dùng mấy cái áo chui đầu, cố tránh không nhìn vào mắt nó.

Rồi một ngày... Hôm ấy Di diện cái áo thun màu đỏ. Trong túi xách có sẵn một gói quà để khi dạy xong là đến dự tiệc sinh nhật của Phụng- cô bạn mới quen- không phải quay về nhà. Lúc Di đi về, nó ra mở cổng. Di dắt xe lách qua khoảng trống rất hẹp còn chừa lại, chưa kịp cám ơn là nó phóng tay ngay vào nơi mà đôi mắt gian manh thường xuyên lục lọi rồi nắm rất chặt làm Di đau nhói. Di đứng chết trân bàng hoàng không nói được tiếng nào. Cánh cổng phía sau đóng lại. Tiếng con chó sủa vang như xua đuổi. Một nổi căm hận dâng lên quá mãnh liệt làm Di muốn ngất xỉu...

Không biết Di đã đạp xe qua bao nhiêu con đường mà không dừng lại. Gặp đèn đỏ là Di quẹo phải, nước mắt rơi hoài trên má...Trời ơi! Sài Gòn rộng lớn quá sao không cho Di một góc khuất để ngồi mà khóc cho hả? Sài gòn đông nghịt với người người chen chúc, sao Di như đang đi giữa hoang mạc khô cằn? Bao nhiêu ý tưởng độc ác xuất hiện trong đầu cùng một lúc. Di muốn chặt và bằm nát cái bàn tay thối tha. Di muốn tát cho vỡ cái mặt khinh khỉnh. Di muốn lòn ngón tay vào khóe miệng mà xé tan cái nụ cười điểu cáng. Di muốn móc hai con mắt với tia nhìn dâm ô đồi bại ghê người của nó.

Trong lòng Di hừng hực như một biển lửa. Di nhớ lại câu chuyện viết về một cô gái bị cưởng bức, sau đó đi học võ và tìm cách trả thù. Cô ta chẳng những thiến hết những tên hại mình, còn ra tay với bọn bất lương ăn hiếp mấy cô gái khác, một cách rất dã man. Di không thích cái truyện ấy vì cho rằng hành động đó quá mù quáng, nhưng ngay lúc nầy, Di sẵn sàng tiếp tay cô ta, thiến hết phân nửa dân số trên trái đất mà chẳng chút ngại ngần.

Gió liên tục quét vào mặt và làm khô đi những giọt nước mắt. Mối căm giận sục sôi dần biến thành nỗi buồn rất dầy rất nặng. Nó cứ chìm dần, chìm dần trong lòng và khi chạm tới đáy, nẩy bật lên tạo thành tiếng kêu mà Di thốt ra một cách vô thức:

-An ơi!

Cái tai nạn ấy đã để lại trong lòng Di một vết thương chí mạng. Mỗi lần nhớ đến là tim đau nhói, cổ thắt lại và hầu như không thở nổi. Có một lần Di đang ăn cơm bỗng nghẹn ngang, người cứng đờ. Chị ba phải vỗ vào lưng cả chục phát, cái cục nghẹn ấy mới từ từ trôi xuống, chị nói:

-Ngoại hay bị như vầy lắm, cái chứng nầy thường xảy ra ở mấy người lớn tuổi, em còn nhỏ mà sao...?

Di vẫn chưa kể cho hai chị nghe về chuyện ấy. Di không muốn cái tên khốn đó lại giành thêm thắng lợi, hai chị của Di, nhất là chị Ba sẽ đau lòng biết mấy. Chỉ riêng chuyện Di không học đúng ngành mình yêu thích đã làm chị ray rức lắm rồi, nay biết thêm chuyện nầy nữa chắc chị khổ tâm lắm. Thế nên khi chị nhắc Di đi dạy kẻo trễ, Di đành phải trả lời:

-Em nghỉ dạy luôn rồi.

-Sao vậy?

Câu trả lời Di đã nhẩm trong lòng không biết bao nhiêu lần mà nói ra vẫn còn vấp váp:

-Nó hổn láo...Còn gọi em bằng cưng nữa...Em tức quá chịu không nổi nên đấm nó sặc máu mũi.

-Trời đất ơi! Có chuyện đó nữa sao? Ba má nó có làm dữ hông?

-Có, em năn nỉ và không nhận tiền lương coi như bồi thường phí tổn cho nó.

Chị Ba nhìn Di bằng tia mắt đầy dấu chấm hỏi, rồi lắc đầu:

-Thiệt là tin hổng nổi luôn, không ngờ em nhát như thỏ đế mà khi nóng lên dám ra tay đánh người như vậy. May mà nó cũng hiền nếu không nó xúi cả nhà ra đánh lại thì sao?

Di nghe một vị chua dâng lên tận cổ. Chị ba thấy Di buồn nên trêu:

-Vậy mà đòi làm tín đồ của thánh GANDHI, tuyệt đối ủng hộ chính sách bất bạo động và hết lời lên án chiến tranh!

Di ráng nở một nụ cười đáp lại chị, bùi ngùi nhớ lại dự định của mình: số tiền kiếm được đầu tiên sẽ mua cho ngoại cái khăn rằn sọc đỏ để ngoại lau cổ trầu. Mua cho má một chai dầu con ó. Mua cho chị ba quyển "Cuốn theo chiều gió". Mua cho chị hai một đôi dép... thật đúng như câu ca dao:

-Cái cò là cái cò con

Chưa đi đến chợ đã toan ăn quà.

Tội nghiệp chú cò bé nhỏ biết bao! Mang đôi cánh yếu ớt vậy mà đòi chu du khắp thế giới. Vừa có tí ti thành quả cứ ngỡ mình là siêu nhân. Mới chui ra khỏi tổ là bị gió vặt trụi lủi lông cánh, để từ giờ hể nghe tiếng lá xào xạc là giật mình thảng thốt!

Đôi khi Di tự nghĩ, nếu người ta có thể giết nhau bằng ý tưởng chắc trái đất nầy không còn sót lại dù chỉ một người. Từ trước đến giờ, Di tin tưởng và làm theo lời dạy của gia đình và sách vở. Nào là "ở hiền gặp lành", "kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", "nhân chi sơ, tánh bổn thiện"...v...v... Tất cả những điều hầu như là chân lý được dùng làm nền tảng cho cách đối nhân xử thế biết bao đời. Giờ sao trở nên quá lỏng lẽo, cái "tánh bổn thiện " của con người, ngày càng một èo uột. Ngay trong lòng Di, nó cũng đã bị mẻ một miếng rồi!

Đây là thời điểm bắt đầu cho những gảy đổ, của một chuỗi hệ thống tư tưởng mà Di xây dựng cho mình.

Thế giới từ trước đến giờ, có gương mặt của một bà mẹ quê hiền hòa với những lời dạy bảo đơn sơ, một tình thương vô bờ bến. Nó mang những sắc màu bình dị của một vùng đồng bằng tràn ngập màu xanh: Màu xanh gần như đen của con sông lấp lánh ánh bạc trong những đêm trăng. Màu xanh lá của những mảnh vườn với những chòm cây luôn xao động, với mùi hoa mận, hoa ổi thoang thoảng ôm ấp những căn nhà lá nhỏ. Màu xanh mạ non của cánh đồng lúa trãi dài mút mắt, mềm mại như tấm chăn bông đắp lên mặt đất... Những con đường đất nhỏ vạch một lối ngoằn ngoèo. Những chiếc xe bò gập ghềnh với những chú bò cùng một lúc làm ba, bốn công việc: Vừa kéo xe, vừa nhai cỏ, vừa phe phẩy chiếc đuôi đuổi muỗi vừa suy tư như một triết gia. Thật xa là dãy núi mà màu sắc luôn thay đổi theo giờ giấc: Màu xanh đậm với một chút ánh hồng trên má vào sáng sớm. Buổi trưa, xanh nhạt hơn với đỉnh đầu bạc thếch vì nắng xối, nên những đám mây trắng trôi qua rất chậm, cố tình nấn ná để che mát cho nó càng lâu càng tốt. Vào buổi chiều nó mang vẻ u buồn, xa vắng với một màu xanh pha tím, như màu mắt của người chinh phụ. Bầu trời xanh dần thẩm lại, mang cùng màu với những chấm đen nhỏ dần, của bầy chim đang bay nhanh về tổ.

Những con người trong thế giới của Di cũng hiền hòa và vô cùng thuần khiết: Đó là những cô gái có làn da màu đất. Gió gom màu sắc và hương thơm của những loài hoa dại trên đồng nội để trang điểm cho nàng. Nàng có một vẻ đẹp của thiên nhiên, không cầu kỳ nhưng thật hài hòa và dễ gần, dễ mến. Những chàng trai vững chải, thô sơ như đá tảng, rất kiệm lời. Bộc lộ tình cảm bằng những cử chỉ vụng về nhưng ẩn chứa một tình yêu sâu đậm.

Trong thế giới mà Di được nuôi nấng, ngôn từ không dùng nhiều lắm. Những bài học về luân lý và đạo đức được diễn tả bằng hành động: Bằng những buổi chiều ông ngoại chở Di ngồi trên thanh ngang phía trước của chiếc xe đòn giông, chạy trên con đường đất nhỏ tìm hái những bông trang, bông điệp mang về cúng Phật. Thỉnh thoảng ông dừng xe lại, lượm một cục đá, mảnh chai hoặc bất cứ một vật chướng nào nằm giữa lối đi. Bằng những đồng tiền dành giụm của chị Ba mang trả công cho ông bác mài dao. Bằng những miếng cơm nguội còn lại mỗi ngày trong nồi, bà ngoại đã cố tình nấu dư để chờ sẵn một người lỡ bước.

Di như một đứa bé lơ lửng trên không nhờ cầm một chùm bóng bay đầy màu sắc. Từ trên cao nhìn xuống, mọi vật trông bé nhỏ và hiền từ, rồi từng chiếc một nổ tung trả Di về với mặt đất cứng trơ, vô cảm.

Di bắt đầu nhìn về mặt trái của mọi vấn đề. Đảo ngược thứ tự nhân quả của mọi việc. Chẳng hạn từ trước đến giờ Di cho rằng vì có chiến tranh nên người ta mới tạo ra vũ khí. Bây giờ thì Di lại nghĩ, phải chăng vì có vũ khí nên người ta phải tìm cho ra một đối tượng để tiêu dùng...

Thời kỳ nầy bắt đầu một tật xấu mà Di không thể nào sửa được. Mỗi khi muốn thoát khỏi một ý nghĩ không vui, Di hay buột miệng thốt những từ vô nghĩa. Lúc đầu chỉ một mình chị Ba nhận ra về sau ai cũng biết, bị chọc rất dữ nên cố hết sức rũ bỏ mãi mà chẳng xong. Đầu óc Di không còn nhạy bén, không tập trung được nhiều như xưa. Di từng nổi tiếng trong nhóm thực tập, nhờ tỏ ra khéo tay khi mổ con ốc Ma lấy ra nguyên bộ ruột mành như sợi chỉ của nó. Thầy Dũng khen và đặt nhiều hy vọng ở Di, vậy mà...

Chị Ba đã bắt đầu lo ngaị về Di. Mỗi buổi chiều chỉ hay chở Di đi dạo phố, chạy vòng vòng ngắm thiên hạ. Lúc nầy Sài gòn đang vào mùa áo đỏ. Không biết có phải do tâm trạng của mình hay không mà Di thấy màu đỏ thật tang tóc và buồn thảm vô cùng.

Vật giá ngày một leo thang, tình hình đất nước đang xáo trộn. Việc làm ăn của má cũng không trôi chảy nên số tiền má cho mỗi tháng cứ ít dần. Ba chị em rán tiết kiệm tối đa, các bữa ăn thường là rau muống với trứng vịt luột dầm nước mắm, vậy mà cứ thiếu trước hụt sau. Chị Hai lảnh đồ về gia công như làm khuy áo và vắt lai, cứ bị chê tới chê lui đến phát nản. Một ngày kia không hiểu chị Ba lấy tiền ở đâu ra, mua cho Di một khoanh chả luạ rồi ép Di ăn một mình cho đến hết. Chị hứa với Di, giọng chắc nịt:

-Mai mốt chị đi làm có tiền, mỗi ngày sẽ cho em ăn một đòn chả lụa tới chừng nào em ngán thì thôi!

Bây giờ Di còn bị thêm cái bịnh mất ngủ nữa. Ngày trước Di ao ước được má cho ngủ thả giàn, cứ mong đến lúc được ở một mình để ngủ cho đã. Bây giờ phải ráng nằm im không cựa quậy sợ mấy chị biết lại lo. Có một đêm rất khuya, không thể chợp mắt Di lồm cồm ngồi dậy lấy tập ra học tiếp. Ban đầu đọc thầm trong miệng rồi không hiểu sao cứ lên giọng từ từ, thế là cái ông bác rất khó tính nhà kế bên đập mạnh tay vào vách hét:

-Đọc nhỏ thôi, đồ khùng!

Chị em Di dọn về chỗ trọ mới cùng một lúc với Sài gòn đang rộn ràng chuẩn bị đón Noel. Để không phải mất tiền thuê xe chị Hai phân công: Chị gói đồ. Di vận chuyể. Chị Ba chờ sẵn ở nhà mới để xếp vào, đồ đạc cũng không nhiều đa số là sách vở. Di đi về hơn chục bận là xong.

Sài gòn ngập tràn không khí náo nức của mùa lễ hội. Những quán cà phê phát liên tục những bản nhạc giáng sinh, và dù không có đạo Di vẫn thấy một nỗi nôn nao khó tả. Những bản nhạc viết về Noel đều nhuốm vị buồn mang mác. Đặc biệt là các bài diễn tả tâm trạng của những người lính đang gác nơi đồn xa, nhớ người yêu cùng kỷ niệm về một mùa giáng sinh xưa cũ. Mấy câu cuối trong một bản nhạc như nói lên niềm mong ước tha thiết của mọi người, cứ ngân mãi trong lòng Di: "Nguyện cầu cho thế giới, cho trăm họ hòa bình, cho đôi ta gặp lại, trong một mùa giáng sinh...".

Cuộc chiến trên quê hương nhỏ bé của Di đang dần kết thúc. Nó giống như con thú bị thương đang giãy dụa hết sức dữ dội trước khi ngã gục. Giữa dòng người và xe cộ đông vui, háo hức ấy thỉnh thoảng một chiếc xe zeep hú còi phóng vội. Mọi người xô nhau dạt vào lề và chăm chú nhìn theo. Phía sau xe, những bàn chân đung đưa thò ra ngoài với những vết máu khô còn đọng lại. Giai điệu không lời của nỗi sầu tử biệt cất lên. Không khí chùng lại và lòng Di bỗng tràn ngập một nỗi buồn thấm đẵm. Cảm nhận nỗi bất hạnh của mình thật bé nhỏ biết bao so với thân phận chung của đất nước.

Dân Sài gòn có lẻ là những người vô tư nhất, dù chiến sự đang dầu sôi lửa bỏng họ vẫn tưng bừng chào đón những dịp vui. Từng nhóm người ăn diện thật đẹp, nói cười rôm rả kéo nhau đi chật cả lề đường. Mấy quầy bán thiệp và quà giáng sinh bày lấn vĩa hè. Các cô cậu choai choai chụm đầu chăm chú lựa. Xe đạp, xe máy đậu chật cứng choáng hết lối đi. Người đi bộ bị lấn xuống lòng đường làm giao thông ách tắc, nhất là vào những buổi chiều và tối. Di có cảm giác như mọi người đều kéo nhau ra phố. Mấy con đường ở trung tâm và gần chợ Bến thành như Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do...Được trang hoàng rực rở với vô số đèn màu, mắc từng tràng dài dọc theo khung cửa của những nhà hàng, khách sạn. Những quả chuông mạ vàng, mạ bạc với hàng trăm gói quà xinh xắn, cùng dây kim tuyến treo lủng lẳng trên những cây thông bằng nhựa, bằng gỗ. Chúng được đặt trong tiền sảnh của những cửa hàng sang trọng tạo một cảm giác an lành, no ấm. Lễ giáng sinh ở đây được chuẩn bị chu đáo và hoành tráng hơn quê Di nhiều lắm. Lễ hội là dịp cho những người thân gặp gỡ, ăn uống, trò chuyện để bồi đắp thêm tình cảm. Mấy năm trước vào ngày lễ nầy Di và hai chị cùng về thăm má. Má làm rất nhiều món ngon cho chị em Di nhấm nháp cả ngày, không chờ đến nửa đêm như những nhà có đạo.

Mấy người bạn ở các tỉnh xa của Di đã rục rịch về thăm nhà. Những người còn lại cùng nhóm bạn ở Sài gòn rủ nhau hùn tiền mở " bạt ty", họ rủ mãi mà Di nhất quyết từ chối. Chi, một cô bạn cùng khối thực tập mời Di đến nhà dự "Rề vây dông" (Réveillon). Di không nhận lời vì biết ý định của cổ là giới thiệu Di cho ông anh ruột. Việc tiếp xúc với một người con trai lúc nầy, thật sự ngoài sức chịu đựng của Di.

Trước Noel hai ngày, má gửi cô Ba mang đến cho chị em Di một túi thức ăn và tiền xài trong tháng. Chắc vội quá nên má không kịp viết thư, chỉ nhắn cô Ba lời dặn dò mấy chị em nhớ mặc ấm, đừng tắm ban đêm vì trời đang lạnh. Cái túi to đùng, Di lật đật mở ra, trong đó má lèn cứng: một nồi cá linh kho rục, khô, mắm và có thêm một bịt me sống. Di mở bịt me lấy một trái chùi vào vạt áo rồi nhấm nháp. Vị me chua và nỗi nhớ má làm Di rùng mình rơi nước mắt. Mùa này năm trước Di thường trèo lên cây me nhỏ sau vườn, hái những trái me già sắp dốt, để tách vỏ làm me dầm cam thảo. Ba chị em thi nhau xem ai khéo tay, tách vỏ, lấy hột mà không làm rách trái me.

Một cái gói rất to má bọc nhiều lớp báo còn cho vào túi nilon, Di cầm lên thấy mềm và nhẹ thì ra đó là cái áo len bị bỏ lại. Chắc má sợ Di ra đường bị lạnh nên gởi theo luôn. Ôm cái áo trong tay một kỷ niệm vui hiện đến: Năm ngoái mùa đông, buổi sáng rất lạnh, hôm ấy Di dậy muộn sợ trễ học nên chỉ mặc áo dài rồi mặc thêm cái áo len bên ngoài mà thôi! Ở xứ Di, mùa đông chỉ ghé vội vàng vào sáng sớm. Khoảng chín, mười giờ là mặt trời lại khạc lửa bừng bừng. Cả lớp ai cũng bỏ áo ấm ra chỉ một mình Di là khư khư giữ chặt, mồ hôi chảy từng giọt, nực gần chết mà đâu dám cởi. Thu ngạc nhiên lắm cứ gặng hỏi hoài. Di kề tai Thu giải thích. Thu cười đến sặc, bay luôn miếng ổi đang ăn. Không biết Thu đang làm gì lúc nầy, có nhớ như Di đang nhớ?

Chị em Di đón Noel bằng nồi cháo đậu đỏ nước dừa, món đặc sản của quê Di, ăn kèm với cá linh kho và dưa mắm. Mấy trái me dầm mới làm chưa thấm vậy mà Di vẫn ăn một cách ngon lành, quà dành cho nhau là những lời chúc. Chị Ba ôm Di nói nhỏ vào tai:" Chúc em có nhiều niềm vui, hơn bao niềm vui em đã mang cho người. Chúc em có một tình yêu, đẹp hơn bao tình yêu em đã nghe nói tới". Lời chúc của chị làm Di nhớ đến An, tự hỏi Di đã có hay chưa cái tình yêu ấy. Bây giờ những cảm xúc về An như những viên sỏi nằm sâu dưới lòng sông, như tia nắng của một buổi chiều buồn và đẹp. Hình ảnh sau cùng về An với hai tay thọc sâu trong túi quần cắm cúi đi, nhìn từ phía sau như dáng một ông già chợt hiện lên làm lòng Di se thắt. Di không nhớ An một cách quay quắt, chỉ nhẹ nhàng bàng bạc với một chút bùi ngùi. Như một niềm thương cảm. Như một nỗi ân hận. Giống như cái lần lở bỏ con Quít vào bao diêm, rồi quên mất và mấy ngày sau bàng hoàng, đau xót biết bao khi nhận ra là nó đã chết!

Căn gác trọ mới của chị em Di tiện nghi hơn chỗ cũ, lại không tốn tiền vì chủ nhà là bạn của cô Ba. Căn nhà nầy ban ngày bỏ trống chỉ đến đêm chị Kim con gái của chủ mới về ngủ.

Cô Năm Nam Vang, tên của bà chủ nhà, làm một nghề rất đặc biệt chắc chỉ có ở Sài Gòn. Đó là xem bói và làm bùa yêu cho mấy cô vũ nữ. Cái nghề không qua trường lớp đào tạo nầy mang lại cho cổ một nguồn lợi rất dồi dào và được giới "chị em" kính trọng. Mấy cô gái rất đẹp, ăn mặc sang trọng luôn tấp nập xun xoe quanh cổ. Miệng lúc nào cũng ngọt xớt" má Năm, má Năm". Có mấy cô là bồ của những vị tướng, tá đương thời. Họ đi trên những chiếc xe bóng lộn có tài xế và cả "gạt đờ co" theo bảo vệ. Họ kể cho nhau về tính cách kỳ dị của mấy ông bồ rồi cười nghiêng ngã. Cuộc sống của họ cũng rất gay go, cũng đầy những bất trắc. Những cô vũ nữ về chiều, nhan sắc úa tàn. Không có đến một mái nhà để tá túc, phải lang bạt từ nơi nầy sang nơi nọ, sống lay lắt với đồng tiền cát sê chỉ đủ ăn và mua son phấn. Xin đừng hỏi họ về tương lai mà làm họ đau lòng.

Những ngày đầu, ban ngày chỉ có ba chị em nên rất thoải mái, mấy ngày sau chị Kim lại rủ thêm một số người khác. Chị Kim rất mê nhảy đầm nên mấy người bạn chị mời về toàn là dân đang học nhảy. Họ mở nhạc để tập luyện suốt ngày, họ ở một thế giới hoàn toàn khác biệt mà từ trước đến giờ Di chưa từng biết đến. Đó là những cậu công tử con nhà giàu, được cha mẹ lo cho một chỗ an toàn ở hậu phương. Họ là những tên lính" kiểng", chưa hề ngửi qua mùi khói súng, chẳng thèm quan tâm đến bất cứ vấn đề gì ngoài chuyện ăn chơi. Nghe những mẫu chuyện họ nói với nhau mà Di cảm thấy buồn cho tương lai của đất nước. Cái tuýp người hưởng lạc nầy, biết rất rõ Sài gòn nơi nào ăn ngon nhất, ban nhạc của vũ trường nào chơi hay nhất, tiệm may nào khéo nhất...v...v... Có lẽ họ là cái nhóm người mà chiến tranh không thể nào chạm đến dù chỉ một sợi tóc. Mấy cô gái rất trẻ, rất xinh cũng kéo đến và có khi ngủ lại qua đêm, làm Di cứ thấy buồn cho ba má họ.

Một hôm Di lau nhà, đang khom người đẩy miếng giẻ lau từ nhà sau ra nhà trước, bỗng xuất hiện một đôi giày tây mũi nhọn ngay trước mắt. Di ngạc nhiên nhìn lên. Một người con trai với mái tóc xoăn, đôi mắt to và hàng ria mép đang nhìn Di cười tươi bằng cả miệng và mắt. Di vội nhìn xuống bộ đồ mỏng đang mặc trong nhà của mình, mắc cỡ đến sinh ra ác cảm với hắn nên không đáp lại mà bỏ lên lầu. Mấy ngày sau chị Kim giới thiệu hắn với Di, hắn tên Phi và là thầy dạy nhảy cho chỉ, cũng là dân lính kiểng. Từ hôm đó trên bàn học của Di hay xuất hiện mấy món ăn lặt vặt như bò bía, chè, khô bò...v...v...Mấy chị em Di hỏi chị Kim, chỉ bảo ăn đi đừng có thắc mắc. Nhớ lời má dặn đừng có xài cái gì không phải của mình mà mang tội nên chị em Di không dám đụng tới, mà bỏ thùng rác thì cũng uổng, thế là ngày nào cũng phải đấu tranh tư tưởng...

Những người bạn và cả ông thầy dạy nhảy cho chị Kim dần dần ở hẳn lại luôn. Tối họ nằm chen chúc trên giường và ngay dưới đất để ngủ. Mỗi buổi sáng Di và chị Ba dậy sớm đi học, bước xuống nhà dưới là ngại quá chừng! Rồi không hiểu sao chiếc xe đạp còn mới của Di ngày nào cũng bị xẹp bánh. Cái ông thầy dạy nhảy ấy thủ sẵn cái ống bơm. Hắn nghe Di kêu "trời!", là xông ra tiếp cứu liền. Hắn lớn hơn Di nhiều mà cứ gọi Di bằng chị Tư ngọt xớt làm Di ngại muốn chết, còn Di thì cứ nói trổng chẳng bao giờ xài đến chủ từ. Có lần hắn mang cả một con vịt quay còn nóng hổi lên tặng. Hôm đó là sinh nhật của chị Ba, mấy chị em nấu một nồi chè đậu xanh nhỏ thôi để ăn mừng lén với nhau, không cho ai biết, không hiểu sao hắn mò ra được. Hắn mua chuộc chị Hai của Di hồi nào mà chỉ vui vẻ nhận, còn mời hắn ở lại ăn chung làm Di ngại quá. Di nói dối là có hẹn với bạn rồi xách xe đạp chạy vòng vòng đến tối mới về.

Ngày xưa má Di hay nói câu: "Ghét của nào trời trao của đó", dù không dám cãi lại má nhưng Di tự khẳng định có những điều lệ mà Di nhất quyết không bao giờ vượt qua. Di không thể yêu một người mà Di không tôn trọng. Một người không xúc động trước cái đẹp và điều thiện. Một người thiếu trách nhiệm với cộng đồng, không biết quan tâm đến người khác. Nhất là một người không thể cùng Di chia sẻ tất cả những lãnh vực mà Di yêu thích. Khi hai chị ghẹo hỏi Di về điều kiện mà Di đặt ra cho một ứng cử viên. Lúc ấy Di đang bị một vết loét trên ngón tay trỏ trông rất ghê, xức hết cả lọ " cọt ti bi dông " cũng chưa khỏi. Di bèn đùa:" Em chỉ cần người dám ngậm cái ngón tay nầy cho nó lành là được". Đâu ngờ cái câu nói ấy lại làm hại cả đời Di sau nầy.