← Quay lại trang sách

Chương năm

Từ nhà Di trở về An đạp xe rất chậm, đảo mắt liên tục sang hai bên đường để nhìn vào bậc cửa trước mỗi nhà. Cố tìm đôi dép kẹp quai đen mà Di đang mang. Cố lắng nghe những tiếng trò chuyện từ những căn nhà sát lộ, mong nhận ra tiếng cười, giọng nói của Di vọng ra.

Ban nãy An rất muốn hỏi má Di tên thầy của Di mà không dám, mà có dám chưa chắc má Di chịu nói. Niềm hãnh diện về Di đang chói ngời trong mắt bác ấy, càng soi rõ hơn sự non nớt, thua kém của An. An đọc được trong đôi mắt đó một chút thương hại và thật nhiều lời cảnh báo.

Những chiếc xe đò chạy ngược chiều tung từng đám bụi dầy đặc. Mặt trời đã ngã bóng nên những chiếc xe hầu như chỉ chạy từ hướng thị trấn về xã mà thôi. An đạp xe chậm hết mức có thể, linh tính báo cho An biết nếu không gặp được Di lần nầy thì nhịp cầu giữa hai người sẽ gãy và An sẽ mất Di vĩnh viễn. Một nỗi buồn trào dâng ép vào tim làm An tức thở. An quay đầu xe chạy trở lui rồi ghé vào cái quán bên lề, gọi một ly cà phê phin. Bà chủ quán nhìn An lắc đầu:

-Hết cà phê rồi cháu.

-Bác có món gì cũng được.

Bà chủ mang ra cho An một ly trà nguội không có đá, giải thích:

-Hết nước đá rồi cháu uống đỡ nghen!

-Dạ.

Cầm ly nước lên uống, An mới nhận ra là mình đang khát quá chừng vì từ sáng đến giờ chưa có cái gì trong bụng. Cái đói cũng lười thôi thúc nên An chẳng muốn ăn, chỉ móc túi lấy lá thư mới nhất của Di ra đọc lại. An vuốt dọc theo nếp gấp của tờ giấy, chắc khi xếp lại Di phải dùng hai ngón tay miết rất sát, chắc những vết ẩm trên bàn tay vẫn còn lưu hơi hướng... Bất giác An đưa lá thư lên mũi hít thật sâu, nhắm mắt hồi tưởng lại cái chạm tay sau cùng khi Di trao cho An gói quà. Một cảm giác xót xa chạm vào làm tim An đau nhói. Vị chủ quán tốt bụng thấy An ngồi một mình có vẻ buồn nên kéo ghế ngồi bắt chuyện:

-Cháu đi thăm bà con ở đây hả?

-Sao bác biết?

-Mấy đứa nhỏ ở xóm nầy đứa nào mà bác không biết mặt. Cháu lạ hoắc chắc ở nơi khác tới, mà cháu kiếm ai vậy?

An nói tên Di, bác hâm hở:

-À! con cô năm Hân. Cổ giỏi lắm nghen, đàn bà giá mà một mình nuôi ba đứa con, cho đi ăn học hẳn hoi. Nghe đâu tụi nó đứa nào học cũng giỏi. Năm ngoái, năm kia gì đó con chị nó đậu tú tài rồi năm nay lại tới con em. Cháu chắc là bạn học chung với nó hả?

-Dạ!

Bác nhìn An có vẻ tò mò rồi nói trống không:

-Cái nhà đó khó khăn lắm! Cháu biết chỗ chưa, nó ở kế bến đò cách đây chừng một cây số hà!

-Dạ cháu có ghé rồi.

Vị chủ quán cố nén nhưng rồi cầm lòng không đậu, buột miệng hỏi:

-Vậy cháu có gặp nó chưa?

-Cổ đi thăm ông thầy rồi

Một tia sáng lóe lên trong đầu, An hỏi bác:

-Gần đây có nhà ông thầy nào hông bác?

-Có, nhiều lắm. Xóm dưới có thầy giáo Thuật, thầy giáo Dư, thầy giáo Tâm, cô giáo Đẹp. Xóm trên có thầy giáo Kiến, thầy giáo Quế, thầy giáo Thà, thầy giáo Nghĩa...

Bác càng kể An càng ngao ngán. An hỏi ráng thêm một câu:

-Thầy nào ở gần đây nhất hả bác?

Bác chỉ tay ngay vào cái nhà sàn lợp lá, có mấy cánh cửa lá sách đánh vẹt ni, nằm khuất sau hàng cau xéo xéo về bên phải cái quán:

-Nhà thầy giáo Tâm đó! Mà ổng nghỉ dạy lâu lắm rồi!

An đứng bật dậy:

-Bác cho cháu gởi tiền ly nước.

Vị chủ quán khoát tay:

-Tiền bạc gì cháu ơi! cái ly nước trà nguội ngắt đó. Uống thêm hông bác rót cho ly nữa nghen?

-Dạ thôi, cháu uống đủ rồi cám ơn bác nhiều lắm!

An cúi chào rồi dắt xe qua đường đến ngay căn nhà ấy. Mấy con chó sủa rân. Một cụ bà chống gậy bước rất chậm xuống cầu thang, vừa đi vừa nạt hai con chó vừa hỏi:

-Cháu kiếm ai?

-Dạ thầy Tâm có ở nhà hông bà?

-Đi núi Cấm mấy bữa nay rồi, cháu là học trò hả, ghé thăm hay có chuyện gì hông?

-Dạ cháu chỉ ghé thăm thầy mà thôi. Chào bà cháu về.

-Ừ, mà cháu tên gì để bà nói lại?

-Dạ cháu tên An.

-Tội nghiệp dữ hông! Có lòng tới thăm thầy mà hổng gặp, nhà cháu ở bên nầy hay bên kia sông?

An đáp đại:

-Dạ cháu ở bên kia sông.

-Vậy thì về liền đi để tối đò không đưa là kẹt lắm đó!

-Dạ!

Nắng chiều chiếu ngay vào mặt xô cái bóng An ngã sấp về phía sau. Nó như cố vươn tay chồm dậy bám lấy An mà không được. Hai cái bánh xe nặng như làm bằng đá, người An như mọc rễ, hy vọng gặp Di cũng thoi thóp dần theo tia nắng. An bùi ngùi nhớ mấy câu thơ, không biết của ai mà như làm giùm An vậy:

Cuộc tình như bóng theo người

Thập thò như một trò chơi trốn tìm

Tay nào chạm nhẹ vào tim

Môi nào tìm vị môi mềm trong mơ...

Trên đường về, An có cảm giác như đã bỏ lại một điều lớn lao nhất ở phía sau, nhưng lòng lại nặng nề như nhét đầy đá. Mặt trời bỗng trở nên tinh nghịch. Cố nhìn soi mói vào tận mặt An, rồi chán quá khép mắt lại từ từ. Còn chừng hai cây số là đến bến đò Châu Giang, trời bỗng nổi giông rồi mưa như trút. Con đường đất trải đá mấp mô, hiện mờ mờ nhờ những ngọn đèn dầu từ mấy căn nhà sát lộ hắt ra, bây giờ tối thui. An cố mò mẩm, một chiếc HonDa lóe đèn từ phía sau lướt qua. An đạp xe thật nhanh để đuổi kịp cái ánh sáng hiếm hoi ấy. Cả người ướt đẫm, đói và lạnh làm An cứ run lên từng chập. Đến bến đò, con đò chủ đã nghỉ chỉ còn mấy chiếc đò tư rất nhỏ, họ không dám qua sông vì gió lớn quá. An đi về hướng bến bắc, ráng hình dung con đường trong đầu rồi căng mắt ra trong bóng tối. An bỗng nhớ câu chuyện được má kể ngày xưa. Mấy anh em nhà nghèo bị mẹ bỏ lại trong rừng, đêm đến chúng vừa sợ vừa khóc tìm đường về nhà. Những mẩu bánh rải làm dấu khi đi đã bị bầy chim ăn mất. Lúc nghe An cứ tức sao mà ngu quá vậy? Ai biểu dùng bánh để làm dấu làm chi cho tìm hoài không được.

Bến bắc cũng vắng teo, chỉ mình An và một người đàn ông đi xe máy, ngồi chờ trong cái quán duy nhất sát bờ sông. Ngọn đèn khí đá khè những tia lửa xanh, bị gió thổi bạt hoài mà không tắt. Bà chủ quán tốt bụng kéo chiếc khăn đang trùm đầu xuống đưa cho An lau mặt, rồi rót cho An một ly trà nóng hổi. An hỏi, giọng hơi run vì lạnh:

-Bắc còn chạy hông bác?

-Không biết nữa! Chừng nào có xe hơi họ mới đi.

Thấy An xịu mặt, bác an ủi:

-Cháu đừng có lo, ngày nào mà không có xe chở lính bị thương qua đây!

Cái đói như bàn tay cào hoài trong bụng. An mua hai cái bánh ú trong một chùm ba cái còn lại treo tòn teng đang đung đưa trong gió. Vị bánh lạt và nghe đăng đắng, dù rất đói mà chẳng thấy ngon tí nào. Bác chủ quán bỏ vào trong, lát sau mang ra cho An một cái áo tay dài. Bác hối An:

-Cháu cởi áo ra đi, lau mình cho khô rồi mặc cái nầy vô.

Thấy An hơi do dự, bác nói:

-Cháu đừng có ngại, chừng nào có dịp đi ngang thì ghé trả. Cái áo nầy của thằng con trai bác, nó đi lính rồi có mặc nữa đâu!

An ngồi nhìn mặt sông đen thui với tiếng sóng vỗ ầm ầm, tia nước từ những con sóng lớn bắn tung lên bờ như muốn đuổi theo cơn gió. Bác chủ quán bảo An:

-Ngồi xít vào trong để nước văng ướt mình đó cháu! Nhà cháu ở đâu? Qua sông rồi còn đi xa hông?

-Nhà cháu gần bến bắc, qua sông là tới.

-Về nhà nhớ cạo gió liền nghe, cái môi cháu tím ngắt hà chắc bị cảm lạnh rồi đó. Phải còn gói Chánh khí đơn, bác đưa cho cháu uống liền cho ấm bụng.

-Cháu cảm ơn bác, cháu bị mắc mưa hoài nên quen rồi, chắc hổng sao đâu bác!

Về đến nhà má ra mở cửa chưa kịp rầy là An đã lảo đảo muốn té rồi ói hết mấy thứ vừa ăn. Má lôi An vào phòng vừa hét gọi mấy chị vừa kêu trời luôn miệng...

An đau cho đến tựu trường cũng chưa khỏi hẳn. Ban đầu là cảm lạnh rồi chuyển qua thương hàn, cứ ăn cháo lỏng và uống sữa miết vì bịnh nầy phải kiêng ăn đồ cứng sợ lủng ruột. Bởi thiếu dưỡng chất nên tóc An rụng dần. Mái tóc dầy giờ chỉ còn mấy cọng lưa thưa.

Một hôm An ráng lết ra sân. Cái sân bây giờ như rộng gấp đôi, lá vú sữa khô héo nằm chồng lên nhau. Di đi rồi không ai quét nên lá cứ lấp dần che gần kín đất. An nhìn lên ngọn cây, lớp lá xanh vẫn còn đầy trên ấy. Bỗng nhớ cái lần Di ngồi trên cây ăn vú sữa rồi chọi vỏ xuống ghẹo. Lúc An đưa mắt nhìn lên. Di vói tay hái một trái rồi ném cho An, cánh tay dang ra làm bung tà áo rộng. Một làn da rất trắng và hai bờ ngực cong như hai cái chén úp nhô ra làm An bàng hoàng. Cảm xúc gần như thiêng liêng pha một chút tội lỗi, dâng lên cùng lúc làm An trơ người như bị điểm huyệt. Trái vú sữa rơi ngay trước mặt và vỡ nát dưới chân An. Giọng Di cất lên, nhạo báng:

-Dở ẹc!

An đi học sau tựu trường gần một tháng, với cái đầu được cạo trọc lốc nên bị bạn bè trêu dữ quá! Chỗ ngồi của Di đã bị người khác chiếm. An ngồi bàn chót, cái góc cuối cùng của dãy bìa gần cửa sổ, kế bên thằng bạn có cái lỗ trống giữa hai cái răng cửa trông giống như càng cua. Nó tên Công được ghép thêm chữ "càng" bên cạnh, có tật cà lăm nên ngại nói. Lúc đầu nó cũng gặng hỏi An vài câu, thấy An không muốn trả lời nên chẳng thèm hỏi nữa. Cái chỗ mới nầy rất hợp với An, không bị ai quấy rầy và cũng chẳng quấy rầy ai.

Hai thằng bạn thân năm ngoái một đứa chuyển lên Sài Gòn học tiếp, một đứa qua lớp khác nên An chỉ còn lại một mình. Đơn độc như con thú xa bầy, niềm khát khao học tập đã xa vời lắm. Những quyển tập mấy năm trước được bao bìa dán nhãn một cách cẩn thận, bây giờ chỉ được trùm miếng bìa bằng nilon trong suốt. Chúng vẫn còn mới nguyên vì An chưa mở ra viết một chữ nào.

Tan học, An chờ các bạn ra về hết rồi vào ngồi chỗ của Di, cho tay vào học tủ mò xem có còn sót lại chút gì trong đó. Cái hộc bàn được dọn sạch trơn chỉ còn tí bụi. Trên mặt bàn còn mấy đốm mực màu tím chắc của Di làm rớt. Di thích màu tím hoa cà lắm nên đồ dùng của Di toàn mang màu ấy, viết, mực tím, đôi hài cườm tím, cái áo điệu màu tím và cả cái nón lá cũng được viền một lớp vải tím quanh vành. An thấm nước bọt vào ngón tay trỏ rồi miết lên vết mực, đốm mực bị nhòe ra thấm vào tay. An ấn mạnh ngón tay đó vào trang cuối của cuốn tập. Dấu vân tay màu tím của An với những đường cong song song, hiện lên trên nền giấy trắng.

An ngồi thừ rất lâu, cố vét cho sạch chút hơi hướng mà Di bỏ lại, cho đến khi tia nắng cuối cùng nhạt dần và mất hẳn. Từ những quán cà phê phía bên kia đường, nhạc bắt đầu trổi lên, bản "Love story" với tiếng guitar dạo đầu réo rắc như những giọt mưa bắn vào người làm An rùng mình. Bác Tư tạp vụ xuất hiện trước cửa nhìn An với vẻ tò mò. An uể oải đứng lên ra nhà xe. Chiếc xe đạp của An còn lại một mình, chắc nó cũng sốt ruột vì đợi An lâu quá. An móc túi tìm chìa mở cái vòng khóa rồi dắt xe ra cổng. Đưa tay mở chốt cái cổng to đã đóng kín gài nhưng chưa khóa. Phủi bụi cho cái yên xe rồi leo lên đạp từ từ. Chiếc xe như còn giận dỗi, ngúng ngẩy mấy cái rồi mới chịu chạy thẳng. An nhấc chân một cách nặng nề, bánh xe lăn thật chậm như cố lần theo những dấu vết ngày xưa còn để lại. Qua hàng me, cái quãng đường mà trước đây Di rất thích nên hay bảo An đạp từ từ khi đi ngang, lá me vẫn rơi hoài như từ muôn thuở. Di hay ví đám lá rơi như một bầy bướm nhỏ ngỡ mấy tờ giấy, rác nằm trên đường là những bông hoa, chừng đáp xuống thấy là không phải chúng thất vọng quá nên chết luôn không bay lên nổi. An thì cho rằng đó là hoa giấy người ta rãi tung hô trong ngày lễ cưới, hai đứa cứ cãi rồi cuối cùng An phải nhịn cho Di vui.

Đôi khi An tự hỏi, chắc lúc có mang Di má Di buồn dữ lắm nên khi ra đời Di đã mang sẵn đôi kính màu tối trong mắt rồi. Cái buồn cũng hấp dẫn Di nhiều như cái đẹp. Di không thích những ban mai rực rở mà say mê những buổi chiều nắng tím thật buồn. Mỗi khi trời mưa Di hay lẽn ra hiên ngồi võng ngắm mưa rồi khóc. Cái tính ấy chắc hay bị má rầy và mọi người trêu chọc nên hiếm khi Di để lộ. Hết thãy bè bạn và thầy cô cứ cho Di là người vui tính vì luôn miệng cười đùa và trêu các bạn, chỉ những người rất thân mới bắt gặp cái nét buồn rất sâu khi Di ở một mình. Có một lần trời mưa An thấy Di ngồi như bất động trên võng. Cái dáng âm thầm ấy làm An đau lòng quá nên lén trèo qua rào để hù cho Di vui. Chừng đến gần mới phát hiện hai gò má Di ràn rụa nước mắt. An chỉ dám hỏi rất nhỏ:"sao vậy?", Di lắc đầu không trả lời rồi hai đứa cứ ngồi im như vậy mãi.

Từ đáy lòng mình, An cảm nhận được tình cảm mà Di giành cho An. Nó phát ra từ tia mắt Di nhìn An rất dịu, dù Di cố ngụy trang bằng cái giọng sẳn lè. Trái tim Di kéo An lại gần còn lý trí thì cương quyết đẩy ra. Di bị cái lối suy nghĩ theo bầy đàn chi phối, dù đôi khi Di cho rằng mình có tư tưởng độc lập và cứng rắn. An cảm nhận ở Di một tính cách rất mâu thuẩn và vô cùng mềm yếu. Di rất sợ làm người khác tổn thương và hay chịu thiệt, hay chìu theo ý mọi người dù bản thân không muốn. Điều nầy làm Di vui nhưng thỉnh thoảng từ nơi sâu thẵm trong Di lại dấy lên những đợt sóng tủi buồn.

An muốn nói với Di thật nhiều, muốn mở hết lòng mình ra để cho Di thấy cái tình của An nó sâu và rộng đến mức nào. Di không cho An cơ hội cứ tìm cách né tránh mãi nên An không thể chứng minh cho Di thấy cái quyết tâm của mình. Di cứ cho là An nông nổi, thấy An hút thuốc thì cho là tập tành bắt chước làm người lớn. An chỉ uống rượu có một lần để xem cảm giác khi say như thế nào và bị Di cho là An ăn chơi sa đọa. Con trai đánh lộn là chuyện không thể tránh mà Di cũng ghép An vô cái nhóm du côn. Hạ thấp hình ảnh và niềm tin về An. Nhầm lẫn cho rằng tình cảm mà Di giành cho An chỉ là lòng thương hại, còn tình cảm An giành cho Di là hời hợt, nhất thời.

An thích sưu tầm những chuyện vui để kể cho Di nghe, để được thấy Di cười híp mắt. Cái nụ cười mà An rất thích vì nó bộc lộ cái nét tinh nghịch ẩn chứa bên trong, nó làm gương mặt Di thật rạng rở. An muốn nói với Di rằng Di rất đẹp khi cười và nhiệm vụ thiêng liêng nhất của An là phải làm cho Di cười hoài, cười mãi.

Những lúc hiếm hoi ở cạnh nhau Di cứ như người đang đi trên dây, ráng giữ thăng bằng từng chút một. Gương mặt Di căng thẳng cố che giấu những cảm xúc tiềm ẩn bên trong. Nó như một trang giấy trắng với những dòng chữ được viết bằng một thứ mực vô hình. Di cứ ngỏanh nhìn về phía không có An, đôi khi An muốn hét lên:" Di ơi, hãy quay lại nhìn An đi, chúng ta đang ngồi khít bên nhau. Giữa hai đứa hầu như không còn khỏang cách. Tại sao cứ cố quay mặt sang hướng khác, để những tia mắt muốn giao nhau phải băng qua đến nửa vòng trái đất!".

Noel đến, cái thị xã nằm ở tận biên giới nầy cũng rộn rịp chuẩn bị. Nhà thờ và chủng viện ở gần nhà nên An chẳng phải đi xa chỉ đứng trước ngõ mà nhìn thiên hạ đi qua đi lại.

Giáng sinh năm ngoái. An rủ Di đi chơi mà Di từ chối, nói có hẹn đi xem hang đá với Thu rồi. An rình từ chiều, nghe tiếng Thu léo nhéo là thay đồ chờ sẵn. Lén đi theo cách một khỏang ngắn để có thể nghe được câu chuyện họ nói với nhau. Hôm ấy Di mặc cái áo điệu màu tím với những hoa văn vòng cung như nửa cây cầu vòng màu trắng, may theo kiểu thịnh hành thời bấy giờ, cổ và tay áo đều dún bèo.

Năm ngoái Noel không lạnh và chiến sự cũng không ác liệt như hiện giờ. Năm nay, khói lửa từ miền Trung đuổi những cơn gió lạnh tràn về trốn ở miền biên thùy phía tây nầy của đất nước. Cái lạnh như được cộng dồn từ nhiều năm trước. An mặc cái áo ấm rất dầy mà vẫn còn thấy se se, đến trường đã lạnh mà không khí ở nhà lại càng lạnh hơn. Má và mấy chị của An không còn rầy An nhiều nữa, cái im lặng diễn tả rất hùng hồn những tiếng trách móc không lời. Má của An không nén được thỉnh thoảng lại buông một tiếng thở dài. An biết má rất thất vọng về An. Có một lần má gọi An lại gần nói chuyện, tính má rất cứng rắn vậy mà lần đó má khóc. Má nói má biết hết nỗi lòng của An, má biểu An phải quên Di đi. Má nói con gái khôn lắm, nhất là mấy đứa con gái có học thì lại còn khôn, còn có nhiều tham vọng hơn nữa. Con trai phải đặt sự nghiệp lên hàng đầu. Có sự nghiệp rồi con gái bu theo, chỉ cần đứng một chỗ mà lựa. Theo đuổi tình cảm quá sớm, sự nghiệp tiêu tan mà tình cảm cũng không thành, hậu quả rất là bi đát. An biết má nói rất đúng có điều An làm không nổi, cho nên An hay tránh mặt má. Tan học An cũng ngại về nhà, có khi để bụng đói chạy vô núi Sam một vòng rồi mới quay về. Cả nhà đã quen nên ăn cơm trước mà không đợi nữa. An lẻn vô bếp bới tô cơm nguội rồi chui vô buồng ngồi ăn một mình.

Di đi đã gần sáu tháng mà vẫn chưa viết cho An một lá thư nào, dù Di không hứa nhưng sao An cứ mong. Chắc Di sợ thư không đến tay An được, hình như Di cũng chỉ gửi cho mợ một, hai lá mà thôi. An có hỏi Thống địa chỉ của Di. Nó nói chỉ đổi chỗ ở rồi, hình như đang ở gần cái chợ gì đó! Chỉ một chi tiết mơ hồ ấy mà An cũng nhen nhúm ý định đi Sài gòn tìm Di. Những đồng tiền má cho ít ỏi được An tích cóp từng chút một. An viết thư cho Lưu, thằng bạn thân học chung từ mấy năm trước vừa chuyển lên Sài gòn, hỏi thăm đường đi và hứa sẽ lên gặp nó.

Thời kỳ nầy An rất thích chui vô nhà sách tìm đọc mấy bài thơ, đặc biệt là thơ của Du Tử Lê. An thích nhất là cái đoạn có hình ảnh của con chim bói cá trong một bài thơ. Nó làm An liên tưởng đến một con chim nhỏ, đứng bất động trên cành cây nhô ra từ bờ sông vắng. Đang chờ đợi, nhớ nhung và tương tư một ánh trăng mờ...

Như con chim bói cá

Trên cọc nhọn trăm năm

Tôi tìm đời đánh mất

Trong vũng nước cuộc đời...

Như con chim bói cá

Tôi thường dừng cánh bay

Ngước nhìn lên huyệt lộ

Bầy quạ rỉa xác người

Của tươi đời nhượng lại

Bữa ăn nào ngon hơn

Làm sao tôi nói được...

An như hóa thân vào con chim ấy, đang đứng trên đọt cây cao chót vót. Nghe cái lạnh từ giòng sông bốc lên và đắm đuối nhìn ánh trăng chìm sâu dưới đáy. An rúc sâu vào kỷ niệm, tìm cảm xúc nuôi sống mối tình của mình cũng giống như con quạ đói moi từng lóng xương, từng mẫu thịt còn thừa để cung cấp cho cơ thể nó. Con đường đời và đường tình An mới đi một quảng ngắn mà cứ phải quay nhìn trở lại. Phía trước mặt là đêm tối và chông gai mà trên tay của An đã rớt mất ngọn đuốc soi đường.

Cây viết Di tặng, An cứ giắt hoài trên túi áo. Hai chữ "Hè xa" màu trắng đã hơi bị ố. Nó đã trở thành một vật bất ly thân, như một người bạn chia sẻ với An mọi chuyện, cũng là nguồn an ủi và tiếp thêm năng lượng cho An. Thỉnh thoảng An lại nhân cách hóa nó, hỏi nó có cảm giác như thế nào khi mới gặp Di, khi được Di chạm vào và chọn lấy...

Những ngày Noel, Khanh, ông anh bà con làm lính quân y được nghỉ phép ghé thăm. Ảnh cứ lân la trò chuyện với An, không biết do có cảm tình đặc biệt hay do má nhờ. An vẫn không hé răng tâm sự, sợ ảnh lại cho tình cảm của An là bệnh hoạn, bất thường.

Trước ngày về đơn vị ảnh rủ An vào núi chơi. Ảnh rất khỏe, đạp xe chở An chạy thẳng lên pháo đài tận trên đỉnh núi. Cái nhà tôn của quân đội đứng cheo leo một mình trên đó. Tiếng gió thổi lòn qua khe cửa y như ma hú, ban đêm nghe chắc nổi da gà. Những người lính khác đã về phép chỉ còn vài người ở lại trực, một người là bạn học cũ của anh Kha, gặp nhau họ mừng lắm nên đấm vào lưng nhau rất mạnh. An nghĩ thầm con trai thích bộc lộ tình cảm trái ngược với con gái, thích che giấu nó bằng cách nói cộc lốc và những câu đùa bỡn.

Chiến tranh nhuộm một màu bi quan trong mắt và trong lòng mỗi người. Những người căm ghét chiến tranh lại phải đối mặt với nó. Họ phải hy sinh tính mạng của mình, cho các mục tiêu mờ ám, được mạ bằng những ngôn từ hết sức đẹp đẻ và thiêng liêng. Thật ra đâu có gì đẹp đẻ và thiêng liêng hơn tuổi xuân và mạng sống của chính họ.

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống mọi vật có vẻ nhỏ bé, yên bình, êm ả làm sao! Nắng chiều dát bạc lên mọi vật, lên những cánh đồng, lùm cây, mái nhà, con đường, cả dòng sông cũng trở nên lóng lánh. Giờ nầy những bà má, bà chị đi làm đồng về đang chuẩn bị cho buổi cơm chiều. Khói từ mấy nóc nhà bốc lên bay vặn vẹo. Như thể nó muốn đi đường nầy mà gió cứ ép sang đường khác. Chúng cứ đôi co mãi rồi cuối cùng nó cũng chiều theo lòng gió, để rồi bị bỏ lại và tan loãng vào hư không.

Lâu lắm rồi An mới có cảm giác thanh thản như thế nầy. Câu nói "thiên nhiên chửa lành mọi vết thương", ngẫm lại thấy sao mà đúng quá!

Trên đường về anh Khanh mới bắt đầu vào chủ đề chính. Ảnh kể cho An nghe về mối tình đầu của mình. Ảnh nói nó đẹp, nó rực rở vì những cảm xúc dồn chứa từ lâu mới được dịp tuôn ra ào ạt, và cái gì lần đầu cũng để lại trong lòng ta một ấn tượng sâu đậm nhất. Hãy để nó đến rồi ra đi một cách êm đềm. Nó giống như một con bướm đẹp. Hãy để nó bay đi khi vẫn còn là bướm, để sau nầy khi nhớ đến vẫn thấy lòng bùi ngùi nuối tiếc. Nếu ta cố níu giữ thì cuối cùng trong tay chỉ còn lại xác của một con sâu gớm ghiếc mà thôi!

Ảnh còn nói làm con trai khổ lắm, nhất là con trai thời chiến, gia đình và xã hội đặt lên vai họ rất nhiều bổn phận. Họ không được làm theo ý của mình, phải vừa tuân thủ lại phải vừa tỏ ra vượt trội, vừa hòa đồng vừa chứng minh tính độc lập. Họ có nhiều đặc quyền hơn phụ nữ nhưng phải trả giá cho đều đó rất đắc, so với con gái thì trách nhiệm của họ nặng nề hơn nhiều. Những cô gái chỉ cần ngoan là đủ, họ chỉ cần bước sau lưng những người đàn ông. Gieo trồng hoa trái trên những mảnh đất đã được khai hoang và cày vỡ. Nấu những bữa ăn và lau những giọt mồ hôi trên trán cho chồng là đủ rồi.

Anh Khanh đi để lại trong lòng An một khỏang trống. An ước ao phải chi ba mình còn sống hay mình có được một anh trai thì hay biết mấy. Sống trong nhà toàn phụ nữ An không dám bộc lộ những cảm xúc của mình sợ bị chê là yếu đuối. Càng cô đơn càng tỏ ra không cần chia sẻ, một lần An nghe mấy bà chị nói với nhau: "Cái mặt của nó sao mà khó ưa quá!"

Thời gian nầy An thường xuyên gặp Di trong giấc ngủ. Khi tỉnh dậy An phải mất một lúc mới nhớ ra là Di đã đi rồi, lòng An lại dấy lên một nỗi buồn thắt ruột, nó như con dao bén cứ cứa hoài vào vết thương há miệng. Có một lần An mơ thấy hai đứa nắm tay bay xuyên qua một đám mây rất trắng. Cả hai mặc những bộ áo quần như trang phục trong phim võ hiệp. An nắm lấy cổ chân của Di, mái tóc của Di dài lê thê liên tục quét lên mặt làm An rất nhột. An cố lướt lên cho bằng Di mà không được, chừng tỉnh dậy mới thấy mình đang áp má vào cây chổi lông gà. An nghĩ thầm có lẻ vì quá thích cuốn truyện "Thần Điêu Đại Hiệp", hay so sánh An và Di như Dương Qua và Tiểu Long Nữ nên bị ám ảnh cả trong giấc ngủ. An đi mướn bộ truyện ấy về xem lại, nghe nói ở Thất Sơn có những ngọn núi chưa người đặt chân đến. An bỗng mơ về một Chung Nam Sơn chỉ có riêng hai đứa. An sẽ trồng trọt, đốn củi để mang đi đổi gạo. Di trước giờ không thích đi chợ nên sẽ ở nhà nấu ăn, may vá, thêu thùa. Mỗi lần xuống núi An sẽ mua về cho Di một quyển sách vì Di rất mê tiểu thuyết...

Có một lần An thoáng thấy một dáng người giống hệt Di ngồi trên xe lôi chạy tít phía trước. An đuổi theo, mừng muốn vỡ ngực vì ngỡ Di về, chạy gần tóe khói chừng đến nơi nhìn không phải. An vừa mệt vừa thất vọng đứng sửng lại giữa đường, chừng nghe tiếng quát: "Ép vô" mới tỉnh ra lủi vội vô lề. Bởi lý do đó mà mỗi lần đàn bài "Thà như giọt mưa" là lòng An thổn thức:

Người từ trăm năm về khơi tình động,

Người từ trăm năm về khơi tình động

Ta chạy mòn đời, ta chạy mòn hơi

Quỳ té trên đường dài

Sợi tóc ôm chân người...

Cái góc bàn sát hiên nhà, nơi ngày trước An ngồi rình nghe Di hát khi giặt áo, nay mỗi ngày An hay ra ngồi suốt. Ngắm cây mận với những chùm hoa rất trắng tỏa hào quang trong nắng, gió xô đẩy những phiến lá lao xao. Cây mận nầy của bà Tư trái rất ngọt, dạo đó Di thường thức khuya học bài nên hay ra hái trộm. Có một đêm An cũng thức gạo bài chợt nghe tiếng cây cầu ván long đinh gõ nhẹ. An ghé mắt qua khe cửa thấy Di đang vói tay, bộ đồ màu trắng lấp lánh dưới ánh trăng, mái tóc dài hơi rối trông như Di đang bước ra từ quyển truyện liêu trai. An chợt nhớ đến mấy câu thơ:

Chẳng phải là sương, chẳng phải hoa

Nửa khuya em đến, sáng em về

Đến như giấc mộng xuân không đợi

Đi tựa mây trời chẳng định nơi...

"Bốn câu thơ nầy nói về cái gì?", Di có lần đã đố và An trả lời đó là một cô gái lén đến thăm người yêu trong đêm, như Thúy Kiều ngày xưa chui hàng rào qua thăm Kim Trọng. Di lắc đầu bảo rằng đó là nàng thơ đến thăm thi sĩ. Di nói nàng thơ tánh hay e thẹn, chỉ rình khi trời, đất và con người ngủ say mới dám hé cửa lách vào. Điều đó giải thích tại sao mấy nhà thơ mắc bệnh ho lao rồi chết sớm, bởi cả đời cứ thức thâu đêm để đợi chờ nàng.

Gần đến tết mà mùa đông cố nấn ná mãi và trời cứ lạnh dần lên. Niềm hy vọng trong lòng An như những nụ Mai còn ẩn sâu trong cây đang cựa mình khe khẻ. An tự nhủ rằng tết Di sẽ về, sẽ cùng An đi lại trên con đường đất của ngày xuân năm cũ. An sẽ tìm hái cho Di đúng loài hoa dại mà Di thích. An sẽ chở Di lên núi Sam. Con đường hôm trước An đi cùng anh Khanh, hai bên lề có một loài hoa rất lạ chắc Di sẽ rất mê. An sẽ rủ Di đánh "cách tê" cùng An và mấy bà chị. An sẽ ngồi cạnh Di và cũng sẽ nớm bài cho Di ăn thật nhiều, y như năm ngoái. Di ăn sạch tiền lì xì của An và còn cho An thiếu chịu.

Kỷ niệm của cái tết năm trước ào ạt kéo về. Năm đó Di phải trông nhà cho mợ và các em đi thăm ông cậu. Di nhờ An mướn giùm mấy cuốn truyện. Gần giao thừa An nhìn qua, ánh đèn nhà sau còn sáng dù cửa đóng kín. An nhẹ đưa tay đẩy cửa, may quá Di chưa gài chốt thế là An lẻn vào. Di đang nằm võng say sưa đọc. An đứng trên đầu võng tha hồ ngắm mái tóc rất dầy và dài của Di thả dài như thác đổ. Một chân Di thòng chạm đất, đọc say sưa đến độ cái võng đứng im mà cũng quên đưa. An cứ lặng thinh không dám gọi, đến chừng ngước lên thấy An. Di bỗng hét lên một tiếng rồi té nhào xuống đất, cái mặt xanh lè làm An hết hồn, thì ra Di đang đọc chuyện ma...

Rồi Di cũng về, mang chút quà sang thăm má và mấy chị của An. Di vẫn mặc cái áo điệu cũ màu tím, trông Di có vẻ buồn và hơi gượng gạo. Có một cái gì cho An thấy Di không còn được như xưa. An ngồi bên má lắng nghe Di trả lời những câu hỏi dồn dập của mấy bà chị. Di pha trò rất nhộn, điều nầy chứng tỏ Di đang cố che đậy một chuyện không vui, chị Ba của An hỏi:

-Có ai lọt vào mắt em chưa Di?

Di nheo nheo mắt rồi cười:

-Mắt em nhỏ quá nên chẳng ai lọt vừa hết!

-Hổng lẽ một đống con trai học chung mà em không chọn được ai sao?

-Họ không nộp đơn thì làm sao mà em chọn được. Dân Khoa Học khô khan lắm chị ơi, lại bị cái lệnh động viên kèm sát bên sườn, nên họ cứ cắm đầu học chớ không có liếc ngang liếc dọc gì hết!

-Em có dạy kèm hông?

Di đáp hơi ngập ngừng:

-Dạ...hông.

Ngồi chưa nóng chỗ Di đã vội cáo từ nói còn phải đi thăm thầy cô và bè bạn. Di không dám nói với An một lời cũng không đáp lại tia nhìn của An đến một lần. An đi theo tiễn Di, may mà mấy bà chị không bám theo, còn lại hai người Di hỏi An:

-An có thấy cái thơ hông?

-Thơ nào?

Di tái mặt, giọng đầy lo lắng:

-Lúc mới vào nhà khi đi ngang qua mặt An. Di thả cái thơ lên chân bộ An không nhận ra sao?

-Làm sao mà nhận được, có nghe Di nói gì đâu?

-Ai mà dám nói. Di có nhìn An rồi nhìn xuống đất tưởng đâu An đoán được. Thôi An chạy vô kiếm liền đi. Vái trời phù hộ cho nó còn nguyên chỗ đó, chớ cái chuyện nầy đổ bể ra, má Di biết được là Di chết chắc!

An lật đật quay vào, bao nhiêu câu sắp sẵn để nói với Di mà rồi không thốt được một lời.

An cắm cúi tìm, cái nền ván trống trơn. An ghé mắt nhìn qua kẽ ván hy vọng nó lọt xuống đất nhưng nào đâu có thấy. Trong đời An đã đánh mất nhiều thứ nhưng chưa có lần nào An lo thắt ruột như thế nầy. Cái thơ như mang niềm hy vọng và cả mối tình của An đi theo. An rùng mình, linh cảm sự hối tiếc nầy, sẽ bám theo An đến cuối cuộc đời.

Tìm không ra lá thư An chạy ra nhà mợ để trấn an Di. Di đã bỏ đi rồi chắc là đến nhà Thu. An xách xe đạp chạy vù theo hy vọng gặp Di trên đường, chẳng thấy bóng Di đâu hết. An đánh bạo ghé vào nhà Thu hỏi thăm. Thu đang ở trong bếp nghe người nhà nói có anh chàng nào tìm Di, lật đật chạy ra tay còn cầm đôi đủa thấy An, Thu ngớ ra hỏi dồn dập:

-Ủa! An hả, có chuyện gì không vậy?

-Chị Di có ghé đây không chị?

Thu không trả lời mà hỏi lại

-Bộ Di về rồi sao? Hồi nào?

-Mới đây thôi.

Nỗi thất vọng làm An muốn ngộp thở, giống như bị nhấn chìm sát đáy sông. An chào Thu rồi đạp xe chạy nhanh ra bến đò, cái bến đông nghịt người chỉ thiếu mỗi mình Di. An định xuống đò qua sông. cho tay vào túi lấy tiền ra mua vé, cái túi trống không.

Bên kia sông Di cũng vừa lên xe về nhà, bức thư bị mất làm Di lo sợ quá! Di không còn tâm trí nào để gặp Thu hay một người nào khác, cũng không ghé thăm dì Bảy mà đi thẳng về nhà luôn. Má thấy Di về sớm thì ngạc nhiên quá, hỏi:

-Sao nói ở chơi với mợ mấy ngày?

-Con về sớm gom mùng, mền giặt cho má.

-Mùng mền má giặt hết rồi chỉ còn màn cửa thôi hà!

Má lộ vẻ vui làm Di cảm thấy mình có lỗi với má quá, lật đật đi tháo hết mấy cái màn cửa cho vô cái thau to tổ bố đổ nước và xà bông vào rồi xăn ống quần lên mà đạp. Cố tập trung vào công việc nhưng đầu óc cứ rối như tơ vò. Di giận mình rồi giận lây sang An. Tại An cứ quả quyết với Di rằng hai đứa có thần giao cách cảm, cho dù có ở xa mấy đi nữa mà Di nghĩ cái gì liên quan đến An là An biết liền, vậy mà...

Di bưng thao đồ xuống bến sông để xả. Con sông mùa nầy nước cạn và trong veo, cây cầu dừa nằm phơi mình trên bùn. Di trút thau đồ lên cầu rồi xăn quần lên quá đầu gối, cầm từng cái màn lội ra chỗ nước trong. Nước chảy kéo tấm màn bập bềnh theo sóng, có tiếng gọi sau lưng:

-Dìa hồi nào vậy cô Tư?

Di quay đầu lại nhìn. Một cô gái nhỏ người da ngăm ngăm đang cười với Di, gương mặt rất lạ:

-Cô mới về hai ngày, em là con ai vậy?

Cô gái cười to hơn, rồi giải thích:

-Tui là vợ thầy giáo Lộc.

-Trời đất ơi! Vậy mà em hổng biết xin lỗi chị nghe.

-Lỗi phải gì cô ơi! Tại vai vế nên tui mới làm lớn. Cô ở nhà được mấy ngày?

-Mùng sáu là em đi rồi chị!

-Sao hổng ở thêm? Lâu lâu mới dìa một lần.

Chỉ vừa hỏi vừa bưng thúng giá đứng phía trên dòng chảy để đãi. Mấy cái vỏ đậu xanh nổi lềnh trên mặt nước.

-Em mắc đi học.

-Cô học chừng nào hết.

-Cũng chưa biết nữa chị, hổng chừng bảy, tám năm nữa lận.

-Chèng đéc ơi! Học chi mà lâu dữ vậy, bộ hổng tính lấy chồng sao?

-Học xong mới lấy.

-Tới chừng đó già khú đế rồi, đâu có ai chịu cưới mình nữa!

-Hổng có đâu chị, bây giờ người ta lấy vợ lấy chồng trễ lắm.

Chỉ đãi giá xong bưng cái thúng đi lên bờ, nước chảy ròng ròng ướt một phần vạt áo, ngoái đầu lại nói:

-Thôi tui lên trước nghen.

-Dạ.

Một cô gái khác xuống bến gánh nước, da trắng trẻo rất xinh chào Di

-Mới dìa hả cô Tư?

-Dạ em mới về chị.

-Ý cô đừng có gọi con bằng chị tội chết. Con là dâu của ba Bình, con gọi cô bằng cô lớn.

-Vậy hả? Xin lỗi nghen, bị xa nhà hoài nên hổng nhớ rõ bà con.

-Con cũng ở xóm mình mà, con còn nhớ cô kỹ lắm. Hồi đó cô hay ghé nhà rũ chị hai con đi học.

-Chị hai em tên gì?

-Chỉ tên Thảnh đó cô!

-Vậy em là con Thơi đó hả? Sao lớn lên đẹp quá vậy? Nhìn hông ra.

Cô gái mắc cỡ cúi mặt, đi xâm xâm ra tới chỗ sâu đến ngực lấy tay khỏa nước cho sạch nhấn hai cái thùng thiếc cho ngập nước rồi gánh lên bờ, không quên mời:

-Có rảnh ghé nhà con chơi nghe cô!

-Ừa!

Nỗi lo trĩu nặng trong lòng cũng đã trôi dần theo giòng nước chảy. Những câu chuyện bâng quơ làm Di vui lên một chút. Nước đang lên từ từ gần mấp mé cây cầu. Di bưng thau đồ lên nhà, má quở:

-Làm cái giống gì mà lâu lơ lâu lắc vậy? Sao không lấy nón đội, phơi cái đầu dưới nắng chang chang. Có cái bịnh nhức đầu mà hổng chịu lo, dữ ngươi quá!

Xóm nhỏ của Di rộn ràng đón tết. Nhà nhà tất bật, đường xá, chợ búa tấp nập. Ngay cả không khí dường như cũng đậm đặc hơn mọi ngày.

Những chiếc xe đẩy, tiệm tạp hóa lưu động, gia tăng số lượng và chất lượng. Những tiếng rao cất lên từ sáng đến chiều, hàng hóa trên xe cũng nhiều gấp đôi gấp ba. Mấy chiếc xe lôi chở nguyên tấm ván to chất đầy thịt heo trên đó chạy khắp xóm bán đến tối, đặc biệt là vào 29 tết thì hầu như bán thâu đêm luôn. Những đứa con nít trong xóm không còn đánh đu sau xe và bị đuổi lên đuổi xuống như tụi Di ngày xưa nữa.

Xóm trên có mấy nhà làm nghề mổ heo, mấy ngày nầy họ mua heo về nhốt sẵn hể bán hết đến đâu làm đến đó.Tiếng heo kêu khi bị thọc huyết chốc chốc lại vang lên làm mấy đứa con trai nhỏ cắm đầu chạy đi xem. Những ngày nầy tụi nó ở ngoài đường suốt, khi thì xem thọc huyết heo, khi thì chạy đi lượm pháo, hể kiếm được viên nào bị lép hay chưa nổ kịp thì thảy vô mấy cái đống un rồi căng lỗ tai đứng chờ. Có những viên nổ rất mạnh làm mớ lá đang cháy xém bị tung lên bay túi bụi. Người lớn xách chổi chạy ra dọa đánh chúng rồi gom lá lại đốt tiếp.

Năm nay Di để ý thấy má ăn tết nhỏ hơn mọi năm và ngoại cũng không còn tự tay gói bánh nữa. Ngoại ngồi xem, trên vai vắt cái khăn mới hể có ai hỏi là ngoại lại khoe: "Con Di mua cho tui đó!". Trưa 29 má và mợ sáu bắt đầu gói bánh đến chiều thì xong. Má bắt ba cục gạch to để kê lò, cẩn thận rinh cái nồi đất bự bằng cái thúng giạ ra đặt lên đó. Má lấy lá chuối lót dưới đít nồi rồi sắp bánh vào. Mấy đòn nhưn trắng [đậu xanh và thịt mỡ], để ở dưới cùng còn những đòn nhưn ngọt [đậu xanh nấu chín tán nhuyễn trộn đường] và nhưn chuối để phía trên vì chín nhanh hơn. Dì tám Dư và cậu hai Đủ gởi luộc ké mỗi người một chùm nhỏ có cột vải màu vào làm dấu. Mấy khúc củi to và gốc tre còn nguyên rễ để dành từ đầu năm được mang ra chụm. Nấu bánh đòi hỏi người có nhiều kinh nghiệm, phải biết giữ lửa cháy làm sao cho bánh chín đều nên má phải trực tiếp theo dõi chẳng dám nhờ ai.

Má Di ăn chay một tháng bốn ngày. Hai ngày cuối năm má bắt cả nhà ăn cùng. Mấy chị em Di chờ cúng giao thừa xong là múc thịt kho ăn với bánh tét liền. Má Di kho thịt ngon và khéo lắm. Miếng thịt vàng óng, mỡ trong vắt, đẫm mùi nước dừa và nước mắm hòa quyện, thơm lừng ăn hoài không chán. Mấy trái dừa rám vỏ hái từ trên cây xuống được lấy nước để kho thịt, phần cơm còn lại chị em Di xắt lát thật mỏng để làm mứt dừa. Món mứt nầy ngày tết trong xóm Di nhà nào cũng có.

Năm nay má mua cho ba chị em mấy xấp tơ màu để may áo dài. Tội nghiệp dì Bảy phải gác công việc để may cho tụi Di vì cận tết thợ may không nhận nữa. Ngày mùng một Di mặc chiếc áo dài màu đầu tiên, cảm xúc trang trọng làm Di đâm ra chửng chạc. Ba chị em mặc áo dài mới ra mừng tuổi má. Đầu năm kỵ khóc, sao má nhìn bầy con mà mắt cứ rưng rưng?

Mùng ba Thu sang thăm Di. Di mừng quá ôm thật chặt làm Thu không thở nổi. Thu đòi Di dẫn ra thăm vườn. Di kéo Thu cùng ngồi lên cái võng cột qua hai cây ổi, cái võng trĩu xuống gần chạm đất. Thu có vẻ ngần ngại lắm, hỏi Di một câu y chang như hôm nào má Di đã hỏi:

-Bồ với An là thế nào với nhau vậy?

Bị hỏi bất ngờ Di nghẹn họng không đáp được. Thu chờ hồi lâu rồi nói tiếp:

-Hôm trước y ta có ghé nhà mình để tìm bồ, sau đó chị Na có gặp mình. Chỉ nhờ mình nói với bồ là đừng có liên lạc với An nữa, để yên cho An lo học. Hai người mà còn lộn xộn thì chuyện nầy sẽ tới tai người lớn đó!

Rồi Thu móc túi đưa cho Di một lá thơ. Di bóc ra xem, thơ một người con trai gởi cho Di nhưng không phải của An, cuối thơ ký tên Trọng làm Di nhìn Thu sửng sốt. Anh Trọng bạn với anh Lộc của Thu. Di cứ nghe Thu kể về ảnh suốt. Nào là ảnh dám bơi qua sông một mình. Nào là ảnh rất thông minh, đàn rất giỏi và có mấy bài thơ đăng báo...Di nhìn Thu, mắt Thu buồn như tên của mình. Di bỗng ôm Thu rồi òa khóc.

Ngày hôm sau, sáng sớm An đã đến nhà Di. Má ra tiếp rồi nói với An là Di đã đi ra nhà nội. An hỏi thăm nhà nội ở đâu. Má nói xa lắm rồi biểu An về đi vì Di đi đến tối mới về. Má hỏi An có cần má nhắn lại cái gì không. An ấp úng mấy tiếng nhỏ xíu nên nằm trong phòng Di nghe không rõ, im lặng hồi lâu rồi An thưa má ra về. Di vừa bước ra má đã nạt:

-Vô buồng nằm im đi, coi chừng nó quay lại đó!

Di trở vô phòng nằm úp mặt xuống gối, ghìm chặt những tiếng thổn thức sâu tận đáy lòng. Cái gối rất mềm ôm trọn gương mặt Di và kiên nhẫn thấm khô từng giọt nước mắt. Những câu nói của chị Na được Thu kể lại như những mũi kim một lần nữa ghim vào và làm Di đau nhói. Chắc lúc nầy An cũng như Di. Di đã quyết định không gặp lại An, sẽ xóa hẳn hình bóng và cả cái tên "An" trong ký ức, nhưng sao nghe cái giọng van lơn đầy lo ngại của An khi nói chuyện với má lòng Di lại ngập tràn thương cảm. Di nhớ ánh mắt sau cùng An nhìn Di trước khi trở vô nhà. Nó diễn tả một lời cầu khẩn vô cùng tha thiết. Nó làm Di liên tưởng đến những đứa trẻ bị mẹ đem bỏ vào cô nhi viện. Chắc ánh mắt của chúng, cũng u buồn đến thế mà thôi!

Ngày hôm ấy Di giống như viên thuốc bọc đường, mùi vị bên trong và cái lớp phủ bên ngoài hoàn toàn khác biệt. Mỗi lần bà con lối xóm đến thăm và chúc tết má lại gọi Di mang bánh trái ra mời để có dịp khoe con gái. Di ra chào hỏi, cười thật tươi và trả lời thật lễ phép. Di rủ hai chị chơi lô tô, cờ cá ngựa và đánh bài. Di cứ thắng và gom tiền miết làm chị Hai phải ghẹo:

-Con nhỏ nầy bộ có ông thần bài độ mạng hay sao mà ăn hoài ăn quỷ. Thôi học làm chi cho cực đi làm nghề cờ bạc cho mau giàu.

Câu nói của chị Hai, có một người đã nói với Di tương tự. Lòng Di lại nhói buốt, niềm vui đang cố thổi bùng, xẹp dần như bong bóng thủng. Má thấy Di đang vui bỗng khựng lại im ru không trả lời, tưởng Di giận nên rầy chị:

-Đầu năm, đầu tháng đừng có ăn nói buông tuồng!

Buổi chiều Di xách chổi ra quét sân cho ngoại, mấy ngày tết kiêng quét, đổ rác nên lá rụng ngập sân. Di bưng thau nước vẫy cho lớp bụi nằm im, quét từ đầu đến cuối sân còn dọn sạch luôn mấy sợi rơm bò ăn tha đầy đường cộ. Gom lại thành một đống bự bành ky, lấy mớ lá dừa khô mồi lửa từ bếp lò ra đốt. Di lót dép ngồi bệt xuống đất nhìn ngọn lửa cháy phừng phừng đuổi đám khói bay tán loạn. Gió cũng hùa vào dồn khói về một phía, rồi khi không lại đổi ý lùa chúng sang hướng khác. Bất giác Di so sánh những sợi khói mỏng manh kia y như thân phận con người, có mấy khi được yên vui và đi theo đúng con đường mà mình hoạch định.

Mấy đứa con nít trong xóm bắt đầu tụ tập quanh đống lửa, giống hệt như tụi Di hồi xưa. Di vào nhà lấy mấy cái bánh phồng và hai cái gấp tre ra nướng để chia cho chúng. Có một đứa bé mặc chiếc áo quá cũ. Di bỗng buột miệng hỏi:

-Sao em không mặc áo mới?

-Em hổng có!

Một đứa giải thích:

-Nhà nó nghèo lắm, má nó mới bị rắn cắn chết!

Di cho con bé cả một chiếc bánh vừa nướng xong, nó cầm lấy rồi vừa đi vừa ăn chắc sợ ở lại bị mấy đứa kia cắn bớt. Di bỗng thấy mình sao quá ư ích kỷ, cứ xin thêm ông trời thứ nầy thứ nọ, để ổng không có thời gian mà chăm nom cho những người khác, đang cần ổng hơn Di nhiều lắm!

Hôm sau Di và chị Ba xin phép má đi chùa, má cho tiền rồi biểu hai chị em mặc áo dài như hôm mừng tuổi má. Di mặc lại cái áo dài màu hoa cà còn chị Ba mặc màu vàng hoa cúc.

Ngôi chùa gần nhất nằm phía bên kia sông phải đi đò ngang mới đến được. Bến đò nằm sát hông nhà. Chị Ba mang đôi guốc gót hơi cao, chị Cà chèo đò phải nắm tay dắt chỉ bước xuống đò. Nước sông trong vắt, mặt nước gờn gợn lăn tăn giống mặt trên của thau bông cỏ bị cái muỗng hớt để dấu lại. Di bỗng rất nhớ cái vị mát ngọt, mùi dầu chuối thanh thanh của cái món mà mình ưa thích nhứt hồi xưa.

Cái chùa mà hai chị em Di đến viếng có một cái tên bằng chữ Hán, bà con không thèm xài tới, cứ goị là chùa Lá. Nó ở cách xa con lộ và nằm giữa ruộng lúa, nền đất mái lá trông vô cùng thân thiện. Hôm nay mùng năm nên chùa vắng lắm. Chỉ có hai chị em Di, một bác phật tử già đến chùa làm công quả và sư ông trụ trì mà thôi! Đốt nhang xong sư ông cho Di và chị mỗi người một cái bánh ú đang chưng trên bàn phật để lấy lộc. Hai chị em chấp tay xá cảm ơn sư rồi đưa nhau ra sân ngồi. Sân chùa rất rộng trồng toàn cây ăn trái mà nhiều nhất là xoài. Mấy cái băng ghế đóng bằng tre già, lên nước bóng ngời đặt rải rác dưới bóng cây. Di lựa một chiếc hơi khuất ở cuối sân rồi kéo chị Ba ngồi xuống, vừa an vị xong chị hỏi Di:

-Hôm bữa Thu qua chị thấy em khóc, bộ có chuyện gì không vui hả?

Đôi mắt chị nhìn Di đầy vẻ quan tâm và quá ấm áp làm Di không kềm lòng được nữa. Di kể cho chị nghe mọi việc. Chị vừa nghe vừa bóp nhẹ tay Di, rồi chị nắm chặt nó trong đôi tay và nói:

-Theo chị nhận thấy thì tình cảm em dành cho An không phải là tình yêu đơn thuần mà pha trộn rất nhiều lòng thương hại. Lòng thương hại là cái thứ dễ bị ăn mòn nhất, làm người nhận tổn thương nhiều nhất và người cho cũng chóng mệt mỏi. Em nên quên đi, đừng tìm cách gặp An làm gì. Hãy để An có thì giờ mà quên em, hai đứa còn quá nhỏ nên vết thương sẽ mau lành. Chuyện nầy sẽ là một kỷ niệm đẹp nhưng nếu kéo dài sẽ trở thành tai họa đó em!