← Quay lại trang sách

Chương kết

Ngồi sau lưng An trên chiếc xe đạp mini lùn tịt, chiếc xe từ thời còn đi học được Di giữ lại, sơn đã tróc nhiều trơ khung sắt. Di chỉ thay cái sàn nước phía sau, bằng cái yên bọc nệm rất dài để chở hai đứa con. Cái yên thụp xuống rất thấp nên lưng An như bức tường che kín phía trước. Di ngồi một bên vặn ngang cái eo để quay mặt nhìn vào đó. Kéo cái nón lá che kín gương mặt vậy mà cứ run. Phải nhắm mắt lại tự đánh lừa rằng, nếu mình không trông thấy ai, thì cũng chẳng ai trông thấy mình. Một lát sau nghe tiếng An hỏi:

-Di thấy con đường nầy có giống đường Lê lợi của tụi mình không?

Mở mắt ra. Di thấy mình đang đi trên con đường mát rượi giữa hai hàng me:

-Cũng giống nhưng không đẹp bằng vì thiếu một dòng sông bên cạnh.

-Di ơi! Di có nhớ Châu Đốc nhiều không?

Di nói một cách ví von để giảm bớt tầm quan trọng của nó:

-Di chỉ nhớ Châu Đốc mỗi năm có hai lần thôi và mỗi lần kéo dài sáu tháng.

Di không kể cho An mỗi lần trời mưa, Di như thấy lại con đường nhựa trong đêm vắng tanh và loang loáng nước, như nghe lại tiếng rao thôi thúc cuả đứa bé bán bánh mì. Cũng không kể cho An nghe cái lần Di khóc dù đang đi ngoài đường khi nghe lại bài "Đố Ai". Cũng không nói về nỗi buồn đến nhói tim, khi đi qua ngôi trường có cây phượng to vào mùa hoa nở.

An nói bằng một giọng trầm trầm:

-Còn An thì nhớ Phú Lâm gần như là mỗi ngày.

-An có giận, có trách Phú Lâm nhiều lắm không?

-Đau và hụt hẩng nhiều hơn. Thỉnh thoảng An lại mơ thấy mình đạp xe trong đêm mưa, tối thui như lần đầu qua nhà Di vậy.

Rồi An hỏi thêm sau mấy phút ngập ngừng:

-Di có vui khi ở Sài Gòn không?

Di suy nghĩ hồi lâu, cố tìm những từ thích hợp để diễn tả tâm trạng của mình:

-Di cảm thấy lạc lỏng, lo lắng nhiều hơn. Như thể một người đi xe không có vé, cứ sợ bị trục xuất. Hay như một vật lạ thâm nhập vào một bộ phận nào đấy, liên tục bị đào thải, không muốn ở lại mà cũng không thể bỏ đi.

-Cái gì làm Di vui nhất.

-Con.

-Bây giờ Di mong mỏi điều gì nhất?

Phải mất năm phút sau Di mới trả lời:

-Di mong một lần ngồi sau lưng An, mà không phải lo và hồi họp như thế nầy!

Di nghe tiếng An thở nhẹ và dài. Rồi An hỏi:

-Di còn sợ ngồi quán như ngày xưa không?

-Cũng giảm nhiều, không gắt gao như trước nữa.

-Vậy mình ghé vô đây nghe?

Di lại mở mắt ra. Một cái quán cà phê khuất sau giàn bông giấy, chỉ có hai người khách mà thôi.

-An mỏi chân rồi phải không? Di cũng mỏi lưng rồi đó!

An dựng xe trước quán rồi bảo Di đưa chìa khoá để khoá xe lại. Di cười:

-Cái ổ khoá đó mất chìa từ lâu rồi. An cứ bỏ đại đi, xe cũ xì chẳng ai thèm lấy đâu!

An kéo ghế cho Di ngồi, cử chỉ ấy làm Di cảm động, gọi cho mình một ly cà phê đen rồi không hỏi mà gọi cho Di một ly đá chanh. Vừa cầm muỗng khuấy ly cà phê An vừa nói:

-Mấy lần An định ghé quán Di, uống thử cà phê của Di pha mà không dám.

Di ngớ ra, hỏi dồn:

-Bộ An biết chỗ Di bán sao?

-Biết chớ! An còn biết Di dọn hàng rất trễ, biết Di có cái áo mưa Ba đờ suy màu vàng, biết có lần Di té xe phải đi cà nhắc mấy ngày.

Di nghe hai dòng nước mắt dâng lên, cố hết sức kềm chúng lại, rồi hỏi An bằng giọng nghẹn ngào:

-Lâu chưa, ai cho An địa chỉ vậy?

-Cũng lâu rồi, nhờ đưa thơ giùm chị Ba nên biết.

-Sao lúc đó An không vào thăm Di?

-An cũng rất muốn mà không kềm được cơn run. Chỉ đưa cái thơ thôi mà bàn tay cứ run lẩy bẩy, cô em chồng của Di cứ nhìn chầm chập.

-Làm Di cứ thắc mắc từ đó đến nay.

-An có thấy Di chạy ra nhìn dáo dác.

-Lúc đó An ở đâu mà Di không thấy?

-An núp sau chiếc xe mì. Di vô nhà rồi An vẫn còn đứng mãi, đến chừng ông bán mì với bà vợ nghi ngờ. Họ nhìn An rồi nói tiếng Hoa với nhau, thế là An ngại quá, bỏ đi luôn.

-An có nhận ra Di liền hông?

-Có, dù Di ốm hơn lúc trước nhưng gương mặt vẫn không thay đổi. Di có bệnh gì không mà ốm quá vậy?

-Bây giờ là đỡ lắm đó, chớ có lúc Di còn chưa tới bốn chục ký!

Rồi Di kể cho An nghe cái lần Di sinh con gái đầu vừa được bốn tháng, cứ đến mười hai giờ trưa là Di sốt mê man. Ai cũng cho là Di bị bệnh Lao, đi chụp hình phổi, thử đàm, thử máu đều không phải. Di sụt gần cả chục ký lô, đến chừng đi y tế phường mới phát hiện viêm Amidal phải mổ.

Di lại kể cho An nghe cái điều mà bấy lâu nay Di giấu kín, không nói cho ai biết cho dù với chị Ba hay má:

-Di còn nhớ cái lần Di một mình đi mổ. Cái hạch sưng to quá nên phải chụp thuốc mê. Người ta kê cái lon inox cho máu chảy vào. Những người có thân nhân theo nuôi, người nhà phải cầm cái lon sát miệng bệnh nhân để máu trào ra đầy thì đem đổ liền. Di nằm mê man máu chảy ướt cả áo. Hôm ấy Di mặc cái áo bà ba màu trắng, khi xuất viện Di đón xích lô về không ai chịu chở vì tưởng Di điên. Bởi cái bệnh viện Di nằm sát bên nhà thương điên chợ Quán. Di phải đi bộ về, cũng may là nhà ở gần.

An nhíu mày nên Di phát hiện có mấy nếp nhăn giữa hai chân mày:

-Mấy người trong nhà không ai theo nuôi Di sao?

Di lắc đầu, An hỏi tiếp:

-Di có thân, có nói chuyện với ai không?

-Có cậu em trai út là có thiện cảm với Di thôi! Cẩu còn nhỏ xíu hà, tánh hay mắc cỡ chỉ quanh quẩn bên Di chớ không có nói gì nhiều.

-Còn người kia, có quan tâm đến Di không?

-Cũng có, nhưng mê bạn nhiều hơn.

-Vậy Di còn sinh con nữa làm chi?

Di không trả lời cái câu hỏi gần như là trách móc đó.

Hai người khách ngồi trước đã ra về. An đứng lên đến gần người chủ quán nỏi nho nhỏ. Di thấy ông ta gật đầu rồi thay cái băng nhạc hòa tấu vào, không gian ngày xưa cũng theo tiếng nhạc ùa về. Di như đang ngồi trong lớp học vào những buổi chiều của năm lớp mười một. Thuở ấy, cứ vào khoảng ba, bốn giờ là quán cà phê đối diện trường lại cho nghe mấy bản nhạc Pháp thịnh hành. Di như thấy lại ánh nắng chiếu hắt lên hàng cây ven đường làm mấy đọt cây như được thấp sáng. Con đường vắng ngắt với một vài chiếc xe lôi không có khách uể oải lướt qua rất chậm, tiếng thước gõ lên bảng và tiếng đọc Anh văn rời rạc của cái lớp bên cạnh. Sân trường rộng vắng tanh trong giờ học, gió liên tục xô những chiếc lá chòng chành làm những đốm nắng trên lưng chúng rơi xuống, nằm run run trên mặt đất.

-Nhớ trường quá An ơi!

An không trả lời, móc túi lấy thuốc ra hút. Di hỏi:

-An cũng còn hút thuốc hả?

An nói như xin lỗi:

-Ráng nhịn sợ Di buồn mà chịu hết nổi.

-An cứ hút đi, Di bây giờ không còn cầu toàn như trước nữa. Có phải khi mình buồn hút thuốc thấy ngon lắm hả?

-Nó cũng cho mình sự phấn chấn và tự tin nữa. Nhờ nó mà An sắp nói với Di một điều mà An ấp ủ từ lâu lắm.

-Điều gì?

-An thèm một lần được nắm tay Di, một lần được hôn Di, được ôm Di...

Giọng nói của An như kéo Di trở lại con đường đất gập ghềnh giữa hai rẫy Bắp trong cái buổi chiều của bảy năm về trước, lòng Di lại rưng rưng. An cắn môi, rồi đưa điếu thuốc lên rít một hơi dài. Di chià bàn tay trái của mình ra phía trước, nhìn sâu vào mắt An mà không nói một lời nào cả. An chụm ba ngón tay: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa lại, chỉ cầm một ngón giữa trên bàn tay của Di mà mơn man rất nhẹ.

Ngày xưa Di hay suy nghĩ những điều vô cùng vớ vẩn. Di tự hỏi ông thần tình yêu ăn cái thứ gì để có sức vác cái cung to đùng đi khắp thế giới và bắn lung tung. Bây giờ Di đã có câu trả lời cho riêng mình rồi: đó chính là thời gian. Trước sự hiện diện cuả ổng thời gian như bị nuốt chửng, khi Di nhìn lên cái đồng hồ treo sau lưng mình thì đã bốn giờ kém năm phút rồi. Di kêu bằng giọng hốt hoảng:

-Chết rồi An ơi, Di trễ giờ đón con rồi!

-Di phải đón lúc mấy giờ vậy?

-Bốn giờ.

-Con Di học ở trường nào?

Di nói tên trường và cả tên đường nơi nó toạ lạc. An trấn an Di.

-Từ đây đến đó chừng mười phút thôi, Di đừng có lo!

Rồi An nói tiếp:

-Để mai An mang theo đồng hồ.

-Không phải ngày mai An về An Giang nhận nhiệm sở sao?

-Trễ một ngày chắc cũng không sao? Chắc không ai nỡ trả lại trường. An còn nhiều điều chưa nói hết, còn chưa đưa cái lá thư mà An viết sẵn cho Di.

-Thư nào? An viết lâu chưa?

-Lâu rồi! Từ hơn ba năm trước, đáng lẽ An đưa chung với cái thư của chị Ba nhưng không dám. An vẫn còn cất chung với mấy lá thư Di gửi cho An hồi đó, Di có muốn xem lại không?

-Có! Di cũng muốn cho An xem bài thơ Di làm có An ở trỏng. Đây là bài thơ đầu tiên của Di sau bảy năm không dụng tới sách vở, thơ văn...

-Di có đọc thơ của Du tử Lê chưa, hay lắm! An có một tập thơ chép tay, để An tặng cho Di.

-Từ ngày lên Sài gòn đến giờ Di không có đọc bài thơ nào cả, nên những nhà thơ mới hầu hết Di đều không biết.

-Vậy thú vui của Di bây giờ là gì?

Di không trả lời An, Di không muốn cho An thấy sự cùn mòn trong cuộc sống của mình. Ngoài những nụ cười mang cho con và do con mang lại, Di hầu như chỉ có mấy lá thư của chị Ba để làm niềm an ủi. Lúc sau nầy chị Ba cũng thưa viết cho Di, có khi cả tháng trời Di mới nhận được một lá. Mấy lá thư ấy được Di cho chung vào cái túi tiền, mỗi ngày đi bán đều mang theo, đọc đến nỗi thuộc lòng từng lá một.

Đôi khi Di có cảm giác như mình đang sống trong một ngôi nhà không có cái cửa sổ nào hết. Không phải Di không có thời gian, Di chỉ không dám đối mặt với những điều gợi Di nhớ về những ngày tháng cũ. Di như đứa bé cuả ngày xưa vì vụng về đã làm vỡ một món đồ rất quí, phải chịu trừng phạt bằng cách ngồi trong góc tối và nhịn ăn cho tới chết.

Nắng chiều chiếu từ phía sau xô cái bóng của Di che hết lưng An. Di có cảm giác như An đang cõng Di trên lưng và bước rất nặng nhọc:

-An có mệt hông, sao đạp chậm quá vậy?

-Chắc tại đói bụng. Di có đói không?

Di lại kêu lên thảng thốt:

-Thôi chết rồi Di chưa đi chợ, không biết cho hai đứa nhỏ ăn gì đây?

An không trả lời và có vẻ hơi buồn. Gần đến trường Di kêu An dừng xe lại. An xuống xe rồi đột ngột cầm tay Di rất chặt và nói:

-Sáng mai An đợi Di ở đây, Di nhất định phải đến đó!

Rồi không đợi Di trả lời An quày quả bỏ đi liền.

Di đón con mà lòng đầy ray rức, hai đứa bé chắc sốt ruột lắm nên vừa thấy mẹ là chạy ùa lại liền, Di ôm cả hai đứa cùng một lúc, nói thầm trong lòng lời xin lỗi, rồi hỏi hai con:

-Tuị con muốn ăn bánh bao hay bánh mì thịt?

Bé Duyên đòi ăn bánh mì thịt còn cu Tèo thì đòi bánh bao. Di mua cho chúng cả hai thứ, vẫn còn thấy quá nặng lòng. Di mua thêm cho mỗi đứa môt bịt nước Mía nữa!

Tối hôm đó ba mẹ con Di chơi với nhau rất vui. Di nằm co chân xích đu lơ cho từng đứa một, cu Tèo thích cảm giác mạnh nên cứ luôn miệng đòi:

-Cao nữa đi mẹ, mẹ hất con bay thật cao đi mẹ!

Bé Duyên thì ngoan lắm ít đòi hỏi, vừa ngồi lên chân mẹ mà thấy em đòi là nhường liền, tính giống hệt như chị Ba. Tèo thì giống Di hơn, hay tưởng tượng đủ thứ, còn nhỏ mà cái máu hài đã bộc lộ rồi.

Di ráng chìu con như để chuộc lỗi, đến chừng mệt quá mới bảo chúng:

-Ngủ thôi tụi con, mẹ đuối lắm rồi.

Cu Tèo phụng phịu rồi nói:

-Ngày mai mình chơi nữa nghe mẹ.

Di phải hứa và nghoéo tay cam kết cu cậu mới chịu nằm im.

Di nằm giữa hai con cứ luôn tay vỗ mông đứa nầy mấy cái rồi quay sang đứa kia. Hôm nay Di không nghĩ ra được câu chuyện mới nên kể lại một câu chuyện cũ, vậy mà cũng không tập trung nên chúng nó cứ ngắt lời:

-Không phải như vậy, hôm trước mẹ kể như thế nầy nè...

Dỗ con ngủ xong Di cứ nằm trằn trọc, những điều đè nén từ nãy, giờ mới bùng lên: Gương mặt An với tia nhìn thu hẹp như tia lửa từ cái mỏ hàn. cố tập trung tất cả sức nóng vào một điểm. Lòng Di như nồi súp đang sôi sùng sục trên bếp lửa, mọi cái bên trong đều đảo lộn. Có những thứ bị vuì sâu dưới đáy bây giờ mới vùng lên một cách mạnh mẽ đòi lại quyền sống cho mình. Trái tim lại lên tiếng nhắc cho Di nhớ đến sự hiện diện của nó, Di đặt tay lên ngực, nói thầm:

-Xin lỗi nghe, đúng là sống với tôi không dễ dàng gì. Hãy thông cảm bởi trong lúc nầy tôi không khống chế nổi những cảm xúc của mình. Rồi nó cũng sẽ qua nhanh thôi, cố mà chịu đựng giùm tôi nghe bạn!

Sáng hôm sau Di đưa con đến trường, còn đang phân vân đã thấy An đạp xe trờ tới. An mượn từ người bạn một chiếc xe đòn giông rồi biểu Di tìm chỗ gửi xe. Hôm nay An ăn mặc rất chỉnh tề, cái quần tây đen được ủi thật thẳng li cùng cái áo sơ mi tay dài màu xanh đậm, trông An khá lịch lãm làm Di đâm ra tự ti. Chợt tiếc sao mình không mặc cái áo Mút sơ lin màu tím mà chị Ba mới cho, mà mặc một bộ đồ đen thui trông buồn thảm quá!

An giục:

-Di nghĩ gì vậy? lên xe đi!

-An bây giờ trông lạ quá An ơi!

-Là tốt hay là xấu?

-Tốt.

An khoe:

-Có thấy An cao hơn Di gần một cái đầu hông!

-Đâu có nhiều dữ vậy, hơn nửa cái chút xíu hà.

-Bữa nay Di muốn đi những đâu?

-Tùy An đó, nhưng phải về sớm hơn hôm qua.

-Đừng lo hôm nay An có đeo đồng hồ nè!

An vừa nói vừa chìa cái đồng hồ màu đen đeo ở cổ tay trái ra cho Di xem, rồi hỏi:

-Hồi tối Di có ngủ được không?

-Cũng tàm tạm, còn An?

-An cũng vậy, chỗ Di đêm rồi có mưa không?

-Có, khoảng hai giờ có mưa lâm râm, đâu chừng nửa giờ là tạnh hà!

-Lúc đó Di làm cái gì?

-Không có làm gì hết, chỉ cố mà ngủ thôi, còn An?

-An lấy cây đàn ra, đàn lại mấy bản ngày xưa mà Di hay ca đó! Rồi An ước chi mướn được cái nhà sát bên nhà Di...

Di vội ngắt lời:

-An tính chở Di đi đâu vậy?

-Di muốn đi đâu?

-Đâu cũng được càng ít gặp người ta càng tốt.

Rồi Di nói tiếp:

-Lúc Di còn nhỏ, ông ngoại cũng hay chở Di trên cái xe giống vầy, chạy trên mấy con đường cộ nhỏ vào những buổi chiều.

-Chi vậy?

-Con đường ấy có mấy cây bông Trang, bông Điệp mọc hai bên lề, ông hái bông để cúng.

An không nói gì, đạp xe nhanh hơn. Di lại nhắm mắt và bỗng nhận ra một mùi thơm nhè nhẹ từ lưng áo cùa An. Một niềm xúc động lại xâm chiếm lòng Di, ước chi An yêu cầu Di tựa đầu vào lưng An, quàng tay quanh eo An như ngày xưa ấy!

-Di đang nghĩ gì vậy? An hỏi

-Di đang nhớ con đường đất đỏ mà mình đi hồi đó!

-An đang chở Di đến đó nè, bộ Di hổng thấy sao?

Di mở choàng mắt, nhận ra một khung cảnh quen thuộc, hay xuất hiện trong trí của mình. Di kêu một cách vui sướng:

-Trời ơi! Ở Sài Gòn cũng có những con đường như thế nầy sao An?

-Có chứ, bộ Di chưa từng đi tới đây hả?

-Chưa! Nếu biết có chỗ này...Nếu biết có chỗ nầy...

Di nghẹn ngào không nói trọn câu, lẳng lặng ngắm căn nhà lá nằm giữa vườn cây ăn trái giống hệt như ở quê nhà. Một bầy gà con chừng mười ngày tuổi đang đi sau lưng mẹ, thỉnh thoảng chúng dừng lại mổ xuống đất rồi nghe tiếng mẹ gọi lại nháo nhào chạy tới cất tiếng chíp chíp như xin lỗi. Một cái võng treo giữa cây mận và cây sung, đang bỏ trống hơi đong đưa trong gió làm Di chợt thèm nằm lên hết sức. Mấy dây bầu, mướp leo chung trên một cái giàn rất thấp thả những cái trái dài thòn, lòng thòng gần sát đất.

-Sao ở đây người ta làm giàn thấp quá vậy An?

-Chắc họ sợ bị hái trộm, làm thấp như vậy chui vào khó hơn.

-Hổng phải đâu, chắc họ không có cây cao, to đó thôi!

Hai bên đường cũng có những cái thúng đặt trên ghế đẩu bày bán mấy bó rau muống, rau lang, cà tím...An dừng xe lại bên một thúng bắp còn toả khói mua bốn trái, lột vỏ một trái đưa Di, một trái cho mình rồi chạy xe một tay còn tay kia đưa bắp lên miệng cạp, được phân nửa An quay lại đưa cho Di nói:

-Đổi!

Di phì cười, đưa trái bắp của mình mới cạp được giáp một vòng cho An rồi nói:

-Vậy là Di chịu lỗ đó nghen!

Rồi hai đứa cùng nói một câu giống hệt:

-Nhớ mấy trái bắp ăn chung ngày xưa quá!

Một nỗi buồn từ thinh không rơi xuống đậu trên vai Di, những vòng quay của bánh xe cũng dần chậm lại. Ăn hết mấy trái bắp Di lấy khăn tay ra lau rồi chuyền cho An, lau xong An không trả cho Di mà cho vào túi áo luôn, Di ghẹo:

-Cái tật cũ không bỏ sao ta? Trả khăn lại cho tui đi " Công tử Đạo chích"!

-Còn lâu! Hởi "Liêm xẹt cô nương".Ta sẽ giữ chiếc khăn nầy để làm tín vật!

-Trả cho Di đi, chiếc khăn đó cũ rồi. Để Di thêu cho An cái khăn mới.

-Chừng nào có cái mới, An sẽ trả cái khăn nầy lại cho Di.

Xem ra bây giờ An "chì" hơn ngày xưa nhiều quá, Di nhìn An, lắc đầu rồi hỏi:

-An có đem mấy bức thơ theo hông?

-Có.

-Để đâu, sao Di hổng thấy?

An đưa tay vỗ vào bụng:

-Trong nầy nè! Có tập thơ nữa.

-Sao không cầm ra ngoài mà nhét ở trỏng?

-Để tránh mấy thằng bạn, tụi nó đang nghi ngờ, bắt gặp cái nầy tụi nó chắc không để An yên đâu!

Dừng lại một chút An hỏi:

-Người đó có hỏi gì Di không?

-Hổm rày y đi vắng?

-Đi đâu vậy?

-Di không biết, Di không có hỏi.

-Chừng nào về?

-Di không biết?

-Di có hạnh phúc hông?

-Di không biết?

-Sao cái gì Di cũng không biết hết vậy?

-Di cũng không biết nữa... Mà Di cũng có đem cho An bài thơ của Di nè!

-Đâu đưa An xem.

-Đang chạy xe mà coi cái gì, té sặc máu bây giờ, để kiếm chỗ dừng lại rồi hãy xem.

-Vậy mình ghé vô chỗ nầy được không?

Một cái quán sát lề đường bán tạp hoá, có kê mấy cái bàn thấp, có mấy đứa con nít bưng mấy cái tô nhựa nho nhỏ ngồi ăn. Di lắc đầu:

-Kiếm cái quán nào thật là ế đi, như cái hôm qua vậy đó!

-Vậy mình trở lại đó nghe?

-Có xa lắm hông?

-Cũng hơi xa, nhưng mà đâu có sao!

Rồi An vòng xe quay trở lại, bánh xe cán lên một hòn đá to, nẩy bật lên. Di vội chụp cứng cái eo của An rồi rút tay lại liền. An vói tay ra phía sau cầm tay Di đặt lại vào chỗ cũ, rồi cứ giữ yên như vậy mãi cho đến khi ra đường lộ lớn mới chịu buông ra.

Cái quán hôm qua đang đông khách, xem chừng hôm nay Di không may mắn lắm. An hỏi:

-Quán đông quá, hay mình đi tiếp nhe!

-Tùy An đó!

An chạy luôn gần tới cuối đường, một quán cà phê hơi vắng nhưng lại gần ngã tư nên xe hay dừng khi đèn đỏ. An rẽ tay phải rồi tiếp tục chạy nữa, bỗng đột ngột thắng xe lại rồi vừa cười vừa nói:

-Đúng là ý trời rồi!

Di nhìn thấy một ngôi nhà ngói cũ, phía trước có cái sân rất rộng, bảng tên bằng gỗ rất đẹp gắn trên thân cây Sao trước nhà trùng với tên mình. Dưới những tàng cây có mấy cái bàn trải khăn trắng và những bình hoa trang trí trên đó, nó đang không có khách. Di hơi ngại:

-Chỗ nầy có mắc hông An?

An vỗ tay vào túi nói:

-Đừng lo An mới lãnh lương.

-Đi học mà cũng có lương sao?

-Có chớ!

An khóa xe rồi xâm xâm đi vào. Di ngại hết sức nhưng cũng lủi thủi đi theo, giá cả chỉ là cái cớ, điều Di sợ là ở những chỗ như vầy ngày xưa chồng của Di hay đưa Di đến. Di không dám nói vì sợ An tủi thân.

An đi đến cái bàn cuối cùng, sát hàng rào dưới gốc một cây cao cao có những chùm hoa cánh dài màu xanh nhạt toả hương thoang thoảng, Di kêu lên thích thú:

-A! Bông Công chúa!

-Di biết cái bông nầy hả?

-Biết chớ! Vườn ngoại Di hồi đó có trồng mà.

Một người con trai ăn mặc rất lịch sự mang cái menu đến. An vẫn gọi cà phê đen rồi chuyền cái thực đơn qua cho Di. Di không nhìn vào mà gọi cho mình một ly trà đá.

-Cái vườn nầy làm Di nhớ ngôi vườn nhà ngoại quá!

-Di có về thăm quê thường không?

-Sáu năm, ba lần.

-Có đi ngang qua Châu Đốc không?

-Một lần, chưa tới nhà mợ là tim Di đã đập túi bụi rồi. Di có nhìn vào con hẻm nhỏ, nó vẫn vắng teo như hồi trước.

-Sao không vô thăm An?

Di chỉ lắc đầu mà không trả lời. Rồi Di lấy trong túi xách ra một cuốn tập đưa cho An. An cũng rút từ thắt lưng một cái bì thư lớn đưa cho Di, cái bì thư nóng và ẩm. Di kẹp nó giữa hai bàn tay một lúc rồi mới mở ra, bên trong là một quyễn tập và mấy lá thư được cột dính lại bằng một sợi dây thun. Di đọc cái thư của An trước. Cái thư nầy An viết sau khi lên Sài gòn tìm Di không gặp, nước mắt cứ rơi lộp độp lên trang giấy. An móc cái khăn đưa lại cho Di. Di cầm lấy rồi vừa lau nước mắt vừa nói, cái câu xin lỗi muộn màng ấy, bị những tiếng nấc của Di ngắt thành từng từ một:

-Di...xin...lỗi...An!

An bắt đầu kể cho Di nghe về cuộc sống của An từ ngày không có Di. An kể cho Di nghe về chùm ổi An hái từ nhà ngoại để dành cho Di mà không kịp đưa, rồi trùm mền lại mà cất trên giường ngủ. Mang qua Phú Lâm cũng không gặp mặt, không dám gửi cho má Di nên lại phải mang về.

An giải thích cho Di biết tại sao mình chụp hụt trái vú sữa, để rồi đêm đó mơ thấy nằm chung với Di trên võng.

An lật tập thơ có dấu vân tay màu tím ở trang cuối, nói cho Di biết đó là vết mực dính trên bàn học của Di. An thấm vào tay rồi in vô để làm kỷ niệm.

An cũng cho Di biết cái tên" Đường tình hoa đỏ" mà An đặt cho con đường đất ngày xưa và từ ngày Di đi, mỗi chiều An đều đạp xe qua đó. Và về một lần An nhói tim khi đang ngồi trong cái quán cà phê bên kia đường, thấy Di nhìn đăm đăm như thể đã nhận ra An...

Di cũng nói với An về cái tai nạn mà Di gặp phải khi đi dạy kèm, đó cũng là lần đầu tiên Di đã gọi tên An trong vô thức. Về cảm giác của Di khi nằm trong phòng nghe An nói chuyện với má. Về những giấc mơ thấy mình còn đang đi học cứ đánh thức Di vào lúc nửa đêm. Về cơn khóc vào buổi chiều trong bệnh viện khi nhìn những đứa bé chơi đùa, màu áo trắng và những bông hoa phượng đỏ. Về cái thói quen mới có sau nầy là hay đột ngột gọi tên An...

Di trao cái khăn tay lại cho An rồi nói:

-An còn chưa hôn Di phải không? An có muốn...

Đôi môi An đáp lên môi Di. Nó êm và rung nhẹ như đôi cánh bướm. Một cái hôn trong trẻo không dục tính, sao làm Di nghe nhoi nhói ở một nơi rất sâu trong cơ thể. Di hỏi khi vẻ mặt An cho thấy An còn đang váng vất:

-An có biết đàn bà chưa vậy?

An lắc đầu:

-Nghe mấy người bạn kể về chuyện ấy An thấy ghê ghê làm sao!

-Nhưng chắc An có đọc sách hoặc xem qua phim rồi phải hông?

-Không nhiều như Di nghĩ đâu!

An định nói tiếp một điều gì đó, Di lật đật đổi đề tài:

-Ngày mai giờ nầy chắc An đã ở Long Xuyên rồi há?

An không trả lời, cả hai nhìn nhau một lát rồi lại cúi đầu đọc thơ. An ngẩng đầu lên trước và nói:

-Sao Di viết ngắn quá vậy, sao không viết cho kín cuốn tập luôn, bỏ giấy trống uổng quá!

-An thích câu nào nhất? Di hỏi

-Câu nào An cũng thích hết, còn Di?

-An hỏi về cái gì? về bức thư của An hay về tập thơ?

-Tập thơ.

-Chắc An thích Du Tử Lê lắm hả? Di thích Phạm Thiên Thư hơn, nhất là bài nầy, rồi Di đọc:

Đêm nghe mưa đổ

Động mái liều thơ

Dưng nhớ người xưa

Áo vàng thuở nọ

Người tình nho nhỏ

Nhỏ mãi trong ta

Như chùm hạ hoa

Buồn ơi đốt thuốc...

Lần trang sách nhòa

Nầy những đóa hoa!

Ép từ hạ cũ

Tưỡng em tóc rũ

Trong dòng mưa sa.

Rồi hai đứa lại cãi nhau để bảo vệ lập trường của mình, cho đến khi nghe tiếng chuông đồng hồ từ trong nhà vang ra gõ mười lăm tiếng. Di đứng lên:

-Mình về thôi An

-Ngồi thêm chút xíu nữa đi Di!

An nói bằng cái giọng của ngày xưa, ở những giây cuối cùng trong những lần hẹn hò ngày ấy.

-Hôm nay Di phải về sớm!

An hỏi như một lời van lơn:

-Mình còn gặp nữa không Di?

-Di không biết, Di sợ lắm!

Rồi Di đứng bật lên. An cũng đứng lên theo, vói hai tay nắm chặt hai bàn tay của Di, mắt An buồn còn hơn lời từ giã. An nói:

-Cười đi Di. Cười bằng cả đôi mắt, bằng cả khuôn mặt đi. Cười giống như ngày xưa ấy!

Di cố cười thật tươi, hai giọt nước lăn qua môi, vị mằn mặn trôi từ từ vào cổ họng.

Thời kỳ nầy Di trở nên vô cùng đa cảm. Những sự việc ngày trước trôi tuột qua mắt, bây giờ bỗng gieo vào lòng Di biết bao cảm xúc. Một chiếc lá rơi trên vạt áo cũng làm Di lâng lâng, như thể đây là món quà mà cây cố tình gửi tặng. Một làn gió vờn trên má cũng làm Di rung động khi tưởng tượng cái làn gió kia từ nơi ấy đến, mang theo hơi thở và mùi hương của ai đó. Chỉ cần thấy một đôi chở nhau là Di lại nghĩ đến An, hình ảnh An cứ bàng bạc khắp nơi. Hơn một lần Di đạp xe muốn hụt hơi chạy theo một người phía trước vì họ có một mái tóc, một bờ vai, một màu áo nhớ.

Hình như năm nay mưa nhiều hơn và kéo dài hơn các năm trước. Di đã mua được một cái máy caset cũ và một số băng nhạc mà mình yêu thích. Mỗi khi giật mình tỉnh giấc trong đêm là Di lại mở nhạc lên nghe. Những bài hát như một lời an ủi, như từ nơi xa xôi ấy An đang bật tay lên phím đàn để gửi đến Di những giai điệu mượt mà. Sau những phút giây đắm mình trong nỗi nhớ ấy lòng Di lại ăn năn ray rức. Di lại cố đền bù cho con. Như thể tình thương của Di là chiếc bánh, hể lỡ chia cho An phần lớn rồi, thì phải cắt cho con một phần còn lớn hơn nữa.

Thỉnh thoảng Di cho con đi sở thú hoặc làm những món mà con ưa thích, hình như con nít đứa nào cũng khoái ăn sườn nướng. Di hay làm món cơm tấm cho con ăn và lần nào cũng trộn thêm một tô dưa mắm ăn theo kiểu quê nhà, chồng của Di cứ cằn nhằn:

-Ăn cái kiểu gì lạ vậy?

Nhất là khi thấy Di ăn bắp với mắm sống là y cứ rùng mình như thể Di là người man rợ vậy.

Di vẫn chưa dám kể cho chị Ba nghe về việc Di gặp lại An, Di sợ chị lo và buồn cho Di. Di sợ sẽ nghe cái câu mà nhất định chỉ sẽ hỏi là Di tính làm sao? Nó sẽ nhắc cho Di nhớ hoàn cảnh hiện tại của mình và tước mất niềm vui mà Di đang vay mượn.

Di mua vải may áo cho con, mua dư ra để làm cho An một chiếc khăn tay như đã hứa. Cái khăn màu xanh da trời rất nhạt. Di thêu lên ấy một hàng chữ "CTĐC-LXCN", khăn làm xong đã lâu mà không có dịp đưa cho An.

Rồi một ngày trên đường đi bán về Di nghe một tiếng gọi vô cùng thân thuộc "Di". Di quay ngang khi xe còn đang chạy. Chiếc xe An trờ tới vậy là Di té, đâu có phải tại té đau mà Di chảy nước mắt ào ào...An vội nhảy xuống xe đỡ Di đứng dậy, cái bánh xe trước cong vòng phải đem chỉnh. Lại có cơ hội cho An chở Di vào một cái quán ở gần đó. Vui và sợ làm người Di cứ "đánh bò cạp", hai hàm răng cứ chạm vào nhau. An nhìn Di rồi nói:

-Di đừng sợ nữa, thấy Di như thế nầy An đau lòng lắm!

Di lắc đầu cố nói:

-Không...phải...sợ...đâu...Di...vui...mà.

An đưa tay ra muốn cầm tay Di để trấn an rồi không dám. Di cố hít một hơi thật sâu rồi thở ra từ từ, làm được vài lần thì Di tim đã đập bình thường trở lại, An hỏi:

-Đỡ chưa Di?

Di gật đầu, An khuấy ly nước chanh cho tan đường rồi đưa cho Di và nói:

-Uống từ từ thôi.

Chờ Di uống xong ly nước An nói:

-Hồi nãy cái mặt của Di xanh lè hà, An cứ sợ Di xỉu.

Di cười cho An yên tâm rồi lấy trong túi xách cái khăn đưa cho An. Giọng An đầy ngạc nhiên và vui thích:

-Sao biết gặp An mà đem theo vậy?

-Di để sẵn trong túi.

An áp cái khăn lên mũi hít một hơi dài rồi nói:

-Thơm quá!

-Xạo! có xức cái gì đâu mà thơm.

-Có mùi hai bàn tay của Di.

An mở khăn ra xem, đưa tay sờ lên hàng chữ rồi nhìn Di, cái nhìn làm Di quá xốn xang nên vội cụp mắt xuống. Di tằng hắng một cái rồi hỏi:

-An về được mấy ngày?

-Một ngày thôi, chút nữa là An phải đi liền, tưởng không kịp gặp rồi, mà Di té có đau không?

-Cái xe của Di thấp chũm hà! Nhờ vậy nên té hổng có đau.

-Di có nhớ An không?

Di gật đầu để thay lời đáp.

-Di có thường ăn bắp không?

Di lại gật đầu.

-Ngày nào An cũng ăn một trái

-Bắp ở quê mình ngon lắm mà rẻ nữa.

-Di có biết mấy câu thơ nầy không:"Hạt ngô thơm mùi sữa, nở đều như răng em, anh ghé môi cắn vỡ, ăn mãi chưa đã thèm..."

Di lại gật đầu thêm lần nữa. An nói:

-Thôi đừng gật đầu nữa Di ơi! Nói đi, nói nhiều nhiều để khi về An ôn lại.

Di suy nghĩ một chút rồi hỏi:

-Ai nấu cơm cho An ăn vậy?

-An ở nhà tập thể, bốn năm thằng chung một phòng thay nhau nấu ăn.

-Có ngon không?

-Cũng tạm được, không có ngon bằng cơm của Di đâu!

-Lại xạo nữa, An có ăn đâu mà biết!

-An biết chắc như đinh đóng cột. Ước gì hôm nào Di ghé thăm rồi nấu cho An một bữa.

Di ngắt lời:

-An thích món gì?

-Canh khoai ngọt ăn với dưa mắm và cá muối chiên.

-Di cũng khoái mấy cái món đó nữa.

An nói bằng một giọng ưởm ờ:

-Mai mốt Di cho An ăn cái món đó hoài cũng được.

Câu nói đùa của An, như một làn gió làm làn da của Di se lại. An móc trong túi ra một lá thư để trần trao cho Di rồi nói:

-Di cất đi để về nhà hãy đọc.

Rồi An móc từ túi áo bên kia một cây son đưa Di. An cười và nói hơi ngường ngượng:

-Tặng cho Di nè! Tháng lương đầu của An đó!

Di mở cây son ra xem, nó có màu cam đỏ. An giục:

-Di thoa đi, cho An xem có hợp với Di không.

-Không có cái mặt kiếng làm sao thấy đường mà thoa?

-Kệ nó, lem một chút cũng đâu có sao, chìu An một chút đi mà!

Di tô một lượt thật nhẹ rồi hỏi:

-Được chưa, vừa lòng An chưa?

An nhìn Di hồi lâu, đưa lại cái khăn tay rồi nói:

-Di chậm môi vào đây cho An đi.

Di áp môi lên phía trên hàng chữ rồi trao nó lại, An cầm lấy rồi áp môi mình lên cái dấu son mờ mờ trên đó!

Về đến nhà Di không thay đồ mà lấy cái thư ra đọc liền, nó là một bài thơ của An làm và không có tựa:

Chia tay nhau, ba giờ, buồn tái tê

Đêm, một mình với ly cà phê

Sáng, đi lang thang...

Rồi lén đến rình em dọn bán

Nhìn em nhấc cái bàn

Anh nước mắt hai hàng

Ước gì... Em nhỉ

Em dẹp quán...anh đi...

Trong đầu mãi nghĩ

Giật mình nhìn kỹ

Lại thấy cầu chữ Y

Chân bước phân vân, lòng hỏi lòng

Qua mấy dãy phố đông

Anh ghé vào quán nhỏ

Gọi ly rượu

Màu rượu đỏ...sóng sánh... lung linh

Ngồi một mình, kỳ cục

Đốt điếu thuốc, khói thuốc đục ánh đèn

Nhớ em quay quắt

Di!

Sáu năm rồi không gặp

Hai đứa cùng xanh xao

Hai đứa cùng hư hao

Cùng thở dài như nhau

Sáu năm, mình gặp lại

Hai đứa vẫn hư thân

Đứa dối chồng, con

Đứa cãi cha, cãi mẹ

Tội lỗi ngập đầu

Thôi thì nguyện cầu

Mai mốt chết

Thà xuống địa ngục, để được ở chung hang

Còn hơn lên thiên đàng, mà không cùng một chỗ

Bớ nầy ông Phật tổ, Thích Ca Như Lai!

Nghe đồn ngài

Phép thần thông nhét đầy một túi

Mà sao

Có mắt cũng như đui

Tụi tôi, thương nhau vậy đó!

Sao chẳng thấy chẳng hay

Chẳng chịu xòe bàn tay, hóa thành năm trái núi

Nhốt hai đứa tôi vào hang tối muôn đời

Để sáu năm rồi, mỗi đứa vẫn một nơi

Giờ gặp lại mà cũng như chưa gặp

Dẩu nói muôn nghìn lời, cũng vẫn nhà ai nấy ở

Cho nên...

Buồn! Trăm ngàn phút kéo dài

Chẳng biết mai nầy, phải làm sao?

Đau, cùng khắp

Thấy trái bắp, nhớ mùa ngô

Đọc bài thơ, buồn da diết

Nuối tiếc, biết làm sao!?

-An sắp đi nghĩa vụ rồi Di ơi!

Di đứng chết điếng rồi lắp bắp:

-Chừng nào?

-Khoảng hơn tuần nữa.

-Sao mà đi gấp quá vậy An? Sao cho Di biết trể quá vậy?

-Biết sớm Di càng buồn nhiều hơn chớ có ích gì.

Thấy Di cứ đứng lặng người, An kéo tay Di rồi nói:

-Di ngồi xuống đi, đừng có buồn An đi xong rồi sẽ về mà!

-Chừng nào mới xong?

-Ba năm nữa.

-Lâu quá An ơi! Sao nước mình hết chiến tranh rồi mà còn đánh giặc giùm thiên hạ chi vậy trời!

An làm thinh, rồi cố nói đùa cho Di cười:

-Di ở nhà đừng có uống sữa nhiều quá mà dư chất vôi rồi biến thành hòn vọng phu đó nghe!

Di không cười nổi mà trách:

-Rầu thúi ruột mà còn giỡn, rồi Di sống làm sao đây?

Ấn vai cho Di ngồi đàng hoàng trên ghế. An ngồi lên cái ghế đối diện, nhìn Di hồi lâu rồi nói bằng một giọng bùi ngùi:

-Phải chi mình đừng có gặp lại nhau thì Di đâu có buồn há!

-Bộ An hối hận vì gặp lại Di hả?

-Di không hiểu An sao mà còn hỏi như vậy! Di có biết điều an ủi An lúc nầy nhất là đã được gặp lại Di, chớ nếu không chắc An chết cũng không nhắm mắt nổi.

Di ngắt lời bằng một giọng hốt hoảng:

-Đừng có nói chuyện không hay An ơi, mà An có phải đi qua biên giới hông?

-An cũng chưa biết nữa.

-Di thấy má chồng bỏ tiền ra lo cho mấy người con trai nên không có ai đi lính hết, sao An không thử...

-Trễ rồi Di ơi!

An không ngồi đối diện nữa mà kéo ghế ngồi sát bên Di rồi cầm bàn tay Di mà bóp nhè nhẹ. Cái quạt máy xoay từ từ thổi bạt mái tóc của Di phủ khắp mặt của An, An đưa tay vén, giữ lại rồi nói bằng một giọng ngậm ngùi:

-Tóc Di đẹp lắm Di có biết không?

-Đó là ngày xưa, bây giờ tóc Di thưa và mảnh lắm!

-Tóc của Di gọi là tóc mây đó, "tóc mây sợi vắn sợi dài...", Di ơi! Di có thích mình chẳng lấy được nhau để thương nhau đến ngàn năm không hả Di?

-Như vậy thì đẹp nhưng mà buồn lắm, An có thích như vậy không?

-An thích mình lấy được nhau mà vẫn thương nhau.

Nước mắt Di đã diễu hành khắp mặt. An thở dài rồi nói:

-Sao lần nào gặp nhau An cũng làm cho Di khóc hết, mà An thì chỉ muốn làm cho Di cười. An thật là vô tài, bất lực.

-Đừng nói vậy, Di mới chính là người có lỗi. Di đã không tin An, nghi ngờ cả tình cảm của mình nên cả hai mới khổ. Mà đâu chỉ có hai đứa mình khổ đâu, đây rồi cả gia đình cũng khổ lây nữa, rồi hai đứa con của Di..

Nói đến đây Di lại nghẹn ngào, An bóp tay Di mạnh hơn rồi nói:

-Di biết không, ông bà mình có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai". Tụi mình đã quá bỉ cực rồi nên ngày thới lai chắc chắn sắp đến gần. Di hãy ráng đợi An nha! Ba năm nữa An về mình sẽ gặp nhau đúng cái nơi nầy. Di có nhớ ngày đầu tiên mà mình gặp lại nhau là ngày mấy không? Mười tây tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi mốt, vậy là gần một năm rồi đó.

-Ba năm nữa liệu An có kịp về không?

-An nhất định sẽ có mặt tại đây đúng ngày hôm đó. Di hãy tin An, từ hôm nay đến ngày ấy nếu Di không ngại thì An sẽ viết thư đều đặn cho Di.

-Đừng An, rủi bị bắt gặp chắc Di chết quá. An đừng lo, ở nhà mỗi ngày Di sẽ cầu xin ơn trên phù hộ cho An được yên lành. Biết đâu khi An về Di cũng đã được tự do, đến ngày mười tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi lăm, Di sẽ ngồi đúng ngay chỗ nầy để đợi An.

Lần nầy không chờ Di giục, đúng bốn giờ An đứng lên liền, cái quán mấy lần trước ế nhệ mà hôm nay khách vô sao đông quá! An vừa đi vừa trách thầm ông trời quái ác, không cho An được hôn Di một cái hôn thật sự trước khi đi, thật đậm đà đúng như lòng An mong muốn. Có lẽ biết nỗi ẩn ức của An nên vừa ra khỏi đường một lát là trời mưa xối xả. Sợ Di rước con trễ An không dám dừng lại để đụt, chỉ ghé cái cửa hàng hợp tác xã bên đường mua một cái áo mưa. Hai đứa vừa trùm áo mưa xong, An chưa kịp yêu cầu Di đã vòng tay ôm lấy eo và úp mặt vào lưng An. Nước mưa chảy từ cổ xuống và cả nước mắt của Di nữa cứ ngấm dần làm cái áo ướt đẩm, dính sát vào lưng

Hai tháng sau Di bị bệnh nặng phải nằm một chỗ, cũng may là đúng mùa hè, bé Duyên và cu Tèo được gửi về cho chị Ba và má trông giùm.

Chị Ba lại viết thơ điều đặn cho Di, chị khen Duyên ngoan, hiền còn Tèo thì thông minh và rất ư lém lĩnh.

Nghỉ hè chị Ba mở lớp vừa dạy kèm vừa bán bánh kẹo, tập vở... cho học trò, học phí không phải đóng hàng tháng mà là hàng ngày.

Chị Ba kể mấy đứa học trò quê mình hiền và chân thật lắm! Bữa nào không có tiền là tụi nó thiếu chịu, mấy hôm sau mới trả. Có đứa thiếu nhiều quá chị nhớ không xuể vậy mà tụi nó không quên cho dù chỉ một ngày, có tiền là trả hết cho chị liền. Có đứa nghỉ học luôn vậy mà khi có tiền cũng mang trả đủ.

Mỗi ngày Duyên có nhiệm vụ cầm cái hộp đi gom tiền từng đứa, ra giờ chơi thì bán bánh kẹo cho chị. Chị nói chắc Duyên có tay buôn bán, từ ngày có Duyên hàng bán đắt quá chừng!

Duyên được học lóm nên đã biết sơ sơ các mặt chữ, rồi nhìn theo bức thư chị Ba viết sẵn mà viết thư cho mẹ. Lần đầu nhìn nét chữ của con Di sung sướng quá, chưa đi học mà viết như thế nầy là hay lắm rồi.

Tèo thì kết bạn rất đông, dám rủ nhau xuống sông để tập bơi, bị miễng chai cứa chảy máu mà không khóc.Trò chơi nào cũng tham gia, khoái trèo cây, tắm mưa, đu xe lôi y như Di ngày xưa.

Di nằm trên giường đúng ba tháng, không đi đứng được nên cơ chân teo lại, hai ống cẳng ốm nhom, nhỏ như hai cái que. Di thấy cơ thể mình giống hệt củ khoai lang được hai chiếc đủa cắm vào. Đêm đêm Di lại mơ thấy mình chạy trên đồng hoặc bơi trên sông. Một lần Di mơ thấy mình nhảy cò cò trên những bậc thang nhà ngoại. Di cứ co chân nhảy lên từng nấc một và ông ngoại thì đứng ở bậc thang trên cùng đang dang tay đợi sẵn để ôm Di. Vậy mà không hiểu sao khi Di càng cò lên cao thì ngoại càng xa dần...

Cơn bịnh hiểm nghèo như một dòng sông chia cuộc đời của Di thành hai bờ riêng biệt. Cái bến bỏ lại sau lưng, lỡ làng và cam go nhiều quá nên Di cố không ngoái lại. Chào từ biệt nỗi buồn, Di quyết không để cho mình rơi nước mắt nữa. Vẫn nhớ An nhưng lòng Di đã thưa dần niềm khoắc khoải. Di biết mình không có dũng khí để vượt qua vô vàn trở ngại. Di đã khao khát tình cha nên không muốn con mình cũng thế. Mối tình của Di như những cánh Phượng của mùa hè, nó được nuôi dưỡng bằng những giọt sương tinh khôi, bằng ngọn gió hiu hiu và màu sắc được lấy từ từng tia nắng. Thức ăn vô hình nên nó cũng không có thực thể, đâu thể nào nắm được trong tay! Và mùa hè rồi cũng qua đi...

Di tin rằng luật bù trừ được áp dụng trong mọi tình huống, mình còn sống được với con là may mắn lắm, nên phải đánh đổi bằng một điều quí giá tương tự. An là cái vé trúng độc đắc mà Di đã có trong tay. Di đã quá hờ hửng mà quên đi mất, chừng phát hiện thì đã hết thời gian nhận giải. Thôi! hãy cho nó thành khói mà bay đi, để không phải mỗi lần nhìn là một lần tiếc nuối.

Dù đã nhủ lòng như thế nhưng sao khi trời mưa Di lại nghe lòng mình sũng nước. Dù đang ở trong bệnh viện Di vẫn như ngửi lại được cái mùi nước mưa, nước mắt hoà cùng mồ hôi trên lưng áo An ngày ấy! Chúng phảng phất quanh Di. Tiếng huýt sáo bài "Đưa em về dưới mưa" của An lại vang lên khuấy động cả lòng Di:

Đưa em về dưới mưa

Nói năng chi cũng thừa

Như mưa đời phất phơ

Chắc ta gần nhau chưa?

....

Rất nhiều lần Di tự hỏi không biết bây giờ An đang ở đâu? làm gì? Tận đáy lòng Di cầu mong cho An được bình yên và thôi đừng thương Di nữa.

Ngày mười tháng sáu năm một ngàn chín trăm tám mươi lăm ấy, Di trở lại cái quán năm xưa, ngỡ ngàng làm sao cái quán ấy nay đã dẹp. Người ta thay món cà phê bằng vật liệu xây dựng.

Di ngồi trên yên của chiếc xe đạp mini, chống một chân xuống, đến chừng mỏi quá thì lót dép ngồi bệt trên vĩa hè. Chiếc xe đạp của Di y như một người bạn vô cùng tận tụy. Nó bây giờ đã cũ thêm một chút, nước sơn đã tróc hết, vành xe và những cây căm đã sét sẹt. Di vẫn không sơn và thay thứ mới, đã có một lần tay An chạm vào nó, nên đôi khi sờ vào Di có cảm giác như hơi ấm từ bàn tay An vẫn còn nguyên trên đó, đang từ từ chuyền qua tay Di.

Ngày hôm ấy đưa con đi học xong là Di đến liền chỗ hẹn, lòng Di lại nôn nao đến độ Di cũng cảm thấy bất ngờ. Di đứng quay mặt ra đường, kéo thấp vành nón xuống để che bớt một phần hai gương mặt, cố không bỏ sót từng cái lưng, cái mặt của những người qua đường. Di nhìn chòng chọc đến nỗi có người lấy làm lạ chạy qua rồi còn nhìn lui trở lại. Chẳng có ai dừng xe và đến bên Di, chỉ có những chiếc lá cứ rơi rơi đều đặn, có chiếc bám vào nón, vào áo của Di như trao một lời an ủi...

Di đã giữ đúng lời hứa, coi như Di đã không phụ lòng An lần nầy. An không đến vậy là vết thương trong An đã thành sẹo, cảm giác thanh thản và nỗi buồn cùng lúc xâm chiếm lòng Di. Đến bốn giờ chiều Di bỏ ra về, trùng hợp làm sao, trời nổi giông rồi mưa bắt đầu rơi nặng hạt. Di ngước mặt lên trời, gào vỡ ngực bằng những lời vô thanh:

-Mưa ơi! hãy tuôn hết nước xuống đây! Hãy rửa sạch giùm đời tôi đi!

HẾT