← Quay lại trang sách

Chương chín

Nửa đêm trời bổng nổi giông rồi một cơn mưa tuôn ào ào như thể ông trời đang trút ào ào ra cho hả giận! Di vội ngồi bật dậy đóng kín các cửa sổ và đắp mền cho hai đứa con. Cái bóng đèn Cà na để trên đầu giường đột nhiên tắt ngắm. Cứ mỗi lần mưa lớn là điện bị cúp. Di đốt ngọn đèn trứng vịt rồi ngồi nhìn cái bóng mình in trên tường. Gió lòn cả vào bên trong ống khói nên ngọn lửa cứ chập chờn hắt hiu làm cái bóng lung linh chao đảo, giống như một âm hồn bị nhốt trong vách. Như một người nào đó ở thế giới bên kia đang ngó Di đăm đắm.

Nỗi buồn cũng theo cái lạnh bao trùm khắp người. Di thèm một hơi thở, một bàn tay để xua nó tan đi. Bỗng nhớ đến một người hay âm thầm xuất hiện cạnh Di trong những cơn mưa ngày cũ. Gió thổi mạnh như bạt cả lòng Di, cuốn sạch lớp tro bên trên và đóm lửa nhỏ nhoi vùi sâu tận đáy, đột nhiên cháy bùng lên một cách dữ dội. Di nghe nhớ An đến quặn ruột. Di nói thầm:

-An ơi! Cơn mưa nầy có ghé thăm An không vậy? Nếu có chắc An cũng bị nó đánh thức. An sẽ ngồi dậy đốt một điếu thuốc và lấy đàn ra gãy. Ước gì lúc nầy có An bên cạnh, nhìn Di một cách xót xa như ngày xưa và chỉ hỏi hai tiếng " sao vậy" mà thôi! Bây giờ Di nghèo lắm An ơi! Cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vốn liếng thu nhặt của một thời chỉ còn lại là những kỷ niệm mà Di chắt chiu, không dám lấy ra xài. Di đã vung tay hoang phí cạn cả đời mình, để bây giờ cứ cào vét đến te tua. An ơi! Tiểu Long Nữ ngày xưa từ nay sẽ vùi thân trong U hồn cốc. An hãy ráng luyện võ cho thật cao cường để cứu Di An nhé!

Di cắn chặt môi cố ngăn tiếng khóc, âm thanh bị dồn nén biến thành chất lỏng chảy ràn rụa khắp mặt Di rồi rớt xuống áo. Cả đêm Di cứ ngồi nói thầm với An cho đến sáng.

Kể từ hôm ấy, bất cứ cái gì cũng gợi lên nỗi nhớ. Di nhớ đến cả những vòng tròn khói thuốc mà An hay chúm môi để thổi về phía Di như trao một nụ hôn. Di nhớ cái vệt tóc mai mà An cố tình nuôi dài để làm điệu một cách vụng về. Di nhớ tia mắt thu nhỏ hết mức, hẹp như lưỡi dao mỏng để khi chạm phải Di nghe lòng nhoi nhói. Người Di như bị tách làm đôi một dùng cho công việc hàng ngày và một đang lần theo những vết xe trên con đường cũ.

Ngày bé Duyên đủ tuổi, Di dắt con vào trường Mẫu giáo. Ngôi trường nầy thời trước thuộc về nhà thờ Công giáo nay thuộc quyền quản lý của nhà nước. Nó được cất từ rất lâu nên những cây Phượng trong sân to chẳng kém cây Phượng mà Di bỏ lại, có điều trên thân cây không có cái tên nào được khắc. Di đưa tay vuốt nhẹ lên thân cây, ngước mắt nhìn những bông hoa cuối cùng đang đong đưa trong gió, từng phiến lá như những bàn tay vẫy gọi. Một khối gì tận đáy lòng Di đang dâng lên rồi dừng ngang cổ.

Tối hôm ấy Di trằn trọc hoài mà không sao ngủ được, rồi Di ngồi vậy làm thơ. Kỷ niệm như từng hạt nhỏ, kết dính vào nhau tạo thành xâu chuỗi ngọc trai lóng lánh, những chi tiết mờ nhạt ngày nào bỗng trở nên sáng chói. Những câu thơ như một lời tâm sự, một lời tạ lỗi dành cho một người, không biết có còn nhớ đến Di hay không nữa:

Từ đó em ra đi

Từ đó anh ở lại

Đã mấy mùa hè qua

Mấy mùa rồi anh nhỉ?

Hoa phượng đỏ ngày xưa

Vẫn còn tươi màu lửa

Biết lòng anh bây giờ

Có còn thương em nữa?

......

Ôi mùa thu năm nào

Tập vở và áo mới

Hai đứa còn khoe nhau

Còn trao anh quyển tập

Bắt anh ghi thật đẹp

Tên em trên trang đầu

Bây giờ trang giấy cũ

Còn hoài nét chữ anh

Ghi tên em nắn nót

Giờ tay anh ngày xưa

Viết thêm tên ai nữa...

Đây có lẻ là thời kỳ "vỡ mộng" trong đời Di. Những sự kiện trái ngược hẳn với những điều mong mỏi liên tục xãy ra. Như thể trái đất đã hình thành một hố sâu và kéo theo một chuổi những sụp đổ chung quanh nó. Di mới có hai mươi lăm tuổi mà đã mang tâm trạng của một người già cỗi lắm. Đã bắt đầu sống với nỗi buồn, đau, luyến tiếc và ân hận. Nhìn những mơ ước, hoài bảo một thời của mình xa dần mà xót xa như tiễn chân những người thương đi vào lòng đất.

Mỗi đêm, sau khi kể chuyện cho hai con để ru chúng ngủ thì cái buồn trong Di lại trổi dậy. Nằm ôm gối, quay mặt vào vách mùng, Di bỗng cảm nhận rằng khoảng cách của hai người nằm sát và đâu lưng với nhau là cái khoảng cách xa nhất trên mặt đất. Nỗi cô đơn quá cụ thể làm cho Di đột nhiên đưa tay ra như muốn xô đổ nó, như thể nó đang ngồi chểm chệ trên ngực, thít chặt lấy cổ và cố làm cho Di ngột thở vậy.

Ngày trước Di rất tự tin vào khả năng, cho rằng mình sẽ, chẳng những sống rất độc lập không cần phải dựa vào ai mà còn có thể lo cho má, ngoại và những người thân nữa. Người chồng trong trí tưởng tượng của Di, là một người có thể chia sẻ với Di, từ những việc lớn lao cho đến những điều nhỏ nhặt nhất. Y có trách nhiệm, tìm thấy niềm vui trong gia đình, có mặt đều đặn trong mỗi bữa cơm và ghiền những món ăn do chính tay Di nấu.

Dù hay mơ mộng nhưng bản chất Di là một phụ nữ á đông truyền thống. Cái đức hy sinh, tận tụy, chung thủy của người phụ nữ cho Di thấy ở họ một tính cách rất cao cả, rất đáng khâm phục và quyết noi theo. Di cho rằng đa số phụ nữ đều sẵn sàng đem lại niềm vui cho gia đình mà dẹp bỏ những lợi ích bản thân. Má, ngoại và dì của Di đều ăn cơm sau chót và nhường thức ăn ngon cho chồng, con và cháu. Hồi đó Di đâu có biết cứ cằn nhằn sao má không chịu ăn cơm một lượt. Bây giờ khi làm vợ, làm mẹ Di mới hiểu ra và càng thương má nhiều hơn.

Theo Di, thất vọng lớn nhất của người phụ nữ, chính là cái thất vọng về tình yêu và nhận ra sự khác biệt quá lớn lao giữa hai nhân vật cấu thành nó. Mục đích của người đàn bà lại là phương tiện của người đàn ông. Người đàn bà hướng đến tình yêu còn người đàn ông chỉ chăm chăm vào tình dục. Điều nầy lý giải tại sao trong xã hội nghề mãi dâm chỉ dành cho nữ giới. Trước đây Di cho rằng những người phụ nữ đó làm xã hội dơ đi, họ là người xấu. Nhưng bây giờ Di nhận ra rằng họ chỉ là nạn nhân, là những người bất hạnh nhất bởi vì đối với Di mãi dâm là thực hiện hành vi tình dục mà không có tình yêu. Đó là một sự hy sinh quá lớn lao, hay một hình phạt quá ác độc dành cho người phụ nữ. Họ cảm thấy thể xác của mình đang bị dày xéo và tâm hồn tan nát. Theo Di bất cứ một người vợ nào, cũng bị làm gái mãi dâm ít nhất là một lần trong đời.

Thời kỳ nầy Di mang tâm trạng của một người nổi loạn. Những điều lệ đã hình thành, được áp đặt cho biết bao thế hệ. Trước đây được Di tuân theo răm rắp, nay bỗng nhiên bị nghi ngờ về giá trị, lợi ích thực sự của nó. Những luật lệ ấy được đặt ra từ tầng lớp thống trị, hầu như chỉ nhầm mục đích bảo vệ quyền lợi của họ. Nó đặt biệt đúng trong các tập tục, trong các nếp nghĩ, nếp làm từ rất lâu xưa được truyền miệng lại.

Di cho rằng cái chế độ ưu việt nhất, hợp lý nhất đó chính là chế độ mẫu hệ. Bởi người phụ nữ có nhiều lòng yêu thương, đức hy sinh và tận tụy hơn nam giới rất nhiều.

Cái mơ ước được đi làm hoặc đi học lại như đốm lửa nhỏ nhoi cứ leo lét mãi trong lòng Di. Mỗi lần đạp xe ngang qua trường cũ, bây giờ được đổi tên thành "Đại học tổng hợp", Di lại nghe một niềm tiếc nhớ cao và nhọn như đỉnh núi chọc thủng cõi lòng mình.

Khung cảnh chung quanh vẫn vậy, vẫn hàng cây liêm xẹt chăm chỉ rắc hoa trải thảm khắp sân. Sinh viên lác đác ra vào, khu vực để xe ngày xưa đầy kín xe máy, giờ chỉ còn mấy hàng xe đạp lưa thưa. Những người bạn của Di không biết còn lại bao nhiêu? Ngọn gió giao thời đã làm chuyển hướng và thổi bạt đi vô vàn chiếc lá, có chiếc bay xa rất xa và có chiếc bị vùi lấp ở một nơi ẩn khuất như Di.

Có lần Di đi trên đường Duy Tân, một con đường nổi tiếng nhờ những hàng me già che mát. Hàng me vẫn còn đẹp, vẫn còn vói tay mơn trớn lấy nhau và những chiếc lá nhỏ xíu như hạt mưa rất nhẹ vẫn bay bay... Di bỗng nhớ một bài thơ có nhiều câu đố nghe đâu phát sinh từ trường luật:

Anh đố em mưa gì không ướt áo?

Trời ban trưa lại sáng quá một đôi sao?

Mây thương ai? Nhà gió ở phương nào?

Đêm anh ngủ chiêm bao về ai vậy?

Trường Luật bây giờ không còn nữa, nên Di không biết tìm ai để hỏi về những câu thơ còn lại.

Di đã mua không biết bao nhiêu tờ sơ yếu lý lịch, đem sao y cái bằng cấp tú tài của mình để sẵn, hể nghe chỗ nào cần người là nộp vô liền, rồi chờ dài cổ và ghé hỏi thăm miết. Lúc nầy tiêu chuẩn được chọn không phải trình độ mà là lý lịch tốt, nhất là có người đương chức giới thiệu thì chắc ăn. Lòng nghi kỵ đã làm thui chột biết bao nhiêu cái tài, cái tâm...

Tiền thu được từ việc bán bớt các phần lương thực, nhu yếu phẩm không còn dùng đủ. Có ngày Di phải ngửa tay nhận từng đồng của chồng đưa đi chợ mà nghe buồn tủi hết sức, người chồng hể thấy cơm nhà không ngon là bỏ qua nhà má chồng ăn ké, mâm cơm thường chỉ có ba mẹ con.

Rồi cơ hội kiếm tiền cũng đến, khi cô em chồng bỏ đi vượt biên má chồng kêu Di về phụ và cho Di tiếp thu công việc của cổ. Di bắt đầu tập buôn bán. Cái ly cà phê phin lần đầu khách gọi, Di mang ra trên hai bàn tay run lẩy bẩy, nó kêu lộc cộc làm ai cũng cười.

Số tiền kiếm được lần đầu trong đời ấy Di mua cho con mỗi đứa một bộ đồ, mua cho chị Ba một cây viết, gửi về cho ngoại và má hai cây bánh bía...

Lại đối mặt với những nghi ngờ, soi bói của mấy người chị và cô em chồng. Những câu chọc ghẹo quá thô thiển của mấy ông khách làm Di cảm thấy bị xúc phạm và đau lòng hết sức. Có một ông khách hỏi Di trước khi lấy chồng làm việc gì, Di trả lời:

-Sinh viên.

-Xạo, cái mặt bà mà sinh viên, sinh viếc gì!

Cũng có những người tốt, nhưng những câu hỏi xoay quanh về thu nhập, lời, lỗ...làm Di phát chán. Cái tật hóng chuyện ngày xưa lại trỗi dậy. Di hay lắng tai nghe coi họ nói cái gì. Quán cà phê là nơi gặp gỡ của cái giới mánh mun, nên những câu chuyện của họ càng làm Di ngao ngán, càng làm Di nhớ về thời vàng son của mình:

Đâu rồi gốc Phượng ngày xưa

Bóng cây, che bớt nắng trưa trên đầu

Áo bay phất phới qua cầu

Đường chiều có bước chân nào đón đưa

Ai đàn trong những đêm thưa

Ai chung chiếc áo đội mưa đi, về...

Cái quán cà phê của Di chỉ có khách vào sáng sớm, đến trưa thì hầu như vắng ngắt, khoảng mười hai giờ là Di dẹp.

Một tháng đôi lần, một đôi tình nhân lấy chỗ nầy làm điểm hẹn, họ chỉ đến khi Di sắp về. Không phải vì muốn bán thêm hai ly cà phê, một đen, một sữa đá nên Di nán lại, mà chỉ vì mối thiện cảm Di dành cho họ mà thôi! Cho dù mối tình ấy bị xã hội lên án rất dữ vì cả hai đều là con gái.

Cả hai đều trên ba mươi.

Người đóng vai con trai luôn mặc áo sơ mi tay dài vạt áo bỏ vào trong, bao giờ cũng ôm theo cái bìa đựng hồ sơ to đùng, bên trong chứa mấy bức tranh nên Di đoán y làm trong ngành hội họa. Cô gái có mái tóc rất dài để xỏa, luôn mặc cái áo cổ chữ V khoét rộng và sâu. Cô ta là giáo viên, vì có lần Di nghe cổ mét với người yêu là có một đứa học trò rất hổn hay làm cho cổ khóc.

Qua cách họ trò chuyện và nhìn nhau Di biết họ yêu nhau vô cùng sâu đậm. Hồi trước bạn bè hay gọi Di và Thu là hai vợ chồng. Di băn khoăn, không biết tình bạn của hai đứa có vượt qua mức bình thường không, lấy làm xấu hổ và đôi khi muốn xí Thu ra. Vào thời đó, những người thuộc giới tính thứ ba được coi như bệnh hoạn, bị xem thường và trêu chọc rất dữ. Lúc đó Di không bận tâm về họ lắm, nhưng bây giờ khi trực diện Di mới cảm thấy một sự bất công liên đới, cố nhấn họ chìm sâu trong mặc cảm. Suy cho cùng họ là nạn nhân do sự hớ hênh của ông trời, con người chẳng những không cảm thông mà còn a dua theo để làm cho cuộc sống của họ thêm khốn khổ. Từ đó Di suy rộng ra, những người không may mắn có thân phận và hoàn cảnh hẩm hiu, bị mọi người xa lánh thay vì giúp đỡ. Có khi họ còn bị lợi dụng, bị đem ra làm vật hy sinh.

Hôm ấy Di đang chuẩn bị nghỉ trưa thì cái đôi ấy lại xuất hiện. Biết Di sắp về nên họ nhìn Di một cách van lơn rồi cười lấy lòng và nói:

-Cô chủ quán xinh đẹp ơi! Làm ơn cho hai ly cà phê một đen một sữa đá.

Di cũng cười thật tươi đáp lại để họ không cảm thấy ái ngại. Họ lại ngồi y nơi cũ, ở cái bàn cuối trong góc khuất, chỗ ít ai bước tới. Di mang cà phê xong là ra cái bàn ngoài cùng ngồi cho họ được tự nhiên mặc dù vẫn để tai xem họ nói chuyện gì với nhau. Những câu chuyện trên trời dưới đất được họ kể và nghe một cách say sưa, cô gái nói:

-Hôm qua em đi ngang qua cái nhà sơn màu xanh đầu hẻm, hổng biết ai ở trên lầu liệng cái vỏ chuối rớt trúng đầu làm em hết hồn.

-Em có đứng lại xem ai làm rồi chửi cho nó một trận hông?

-Hông, em đi luôn đã vậy còn bị mấy đứa con nít nó cười nữa chớ!

-Cái tụi mất dạy, anh mà có ở đó là cho tụi nó biết tay!

Họ gọi nhau bằng anh em rất ngọt, rất tự nhiên. Lúc đầu Di nghe cứ thấy gai gai trên da nhưng riết rồi cũng quen. Im lặng hồi lâu rồi người làm anh dựng đứng tấm bìa cứng lên và nói với cô gái:

-Để anh cho em xem bức tranh nầy đẹp lắm!

Di nghe tiếng kéo ghế chắc cô gái ngồi sát hơn để xem cho rõ. Di thôi không thèm chú ý đến họ mà móc tiền trong túi ra đếm và xếp lại cho có thứ tự. Một người đàn ông lao vút vào quán. Di chưa kịp chào ông ta đã đi nhanh đến cái bàn cuối, hất tấm bìa cứng rớt xuống đất. Một cảnh tượng làm Di sửng sốt: Cô gái đang ngồi trong lòng, đầu ngửa ra phía sau tựa vào cổ của người yêu, ngực ưởn cao để đón nhận bàn tay của y đang thọc sâu xuống từ cổ áo.

Cô gái kêu, giọng thảng thốt:

-Ba!

Người cha đứng chết trân. Ba cặp mắt họ giao nhau, căm lặng nhưng lại diễn tả nỗi thống khổ một cách vô cùng hùng biện... Di nhìn cả ba. khi không mà trở thành khán giả trong một vở kịch buồn.

Từ hôm đó họ không còn ghé quán nữa. Di hay nghĩ nhiều về họ, tự hỏi không biết họ có tìm được một chỗ an toàn hơn, hay phải chia tay vì áp lực gia đình.

Một hôm tình cờ khám phá một chỗ cho thuê sách. Di mừng như gặp lại người bạn cũ. Lướt tay lên hàng dãy sách xếp trên giá, tim Di bỗng xốn xang và lòng bùi ngùi thổn thức. Từ ngày lấy chồng đến nay Di chưa đọc lại một quyển truyện nào. Những tờ báo hàng ngày quá khô khan, quá nặng về phần tuyên truyền nên Di không có hứng thú. Tiền thuê không mắc lắm thế là Di lựa cho mình một bộ "Anna Karênina" mang về.

Ngày hôm đó Di vui vô cùng vừa làm việc vừa hát, cũng đã lâu rồi Di không ca lại những bản nhạc ngày xưa. Mấy đứa con của Di ngạc nhiên lắm. Thay vì kể chuyện và hát mấy bài đồng dao để ru con ngủ Di cho chúng nghe những bản nhạc mà Di từng yêu thích. Nước mắt rơi trên má và giọng Di nghèn nghẹn, chúng ngạc nhiên lắm hỏi:

-Sao mẹ khóc vậy mẹ?

-Tại mẹ cảm động quá!

-Cảm động là sao vậy mẹ?

-Là vui, là buồn...

-Vui sao cũng khóc vậy mẹ?

-Có nhiều chuyện vui mình cũng khóc nữa, mà tụi con có thích mẹ hát mấy bản nhạc nầy hông? Có thấy mẹ hát hay hông?

-Có, con thích lắm, mẹ hát hay lắm.

-Con cũng thích, mẹ hát thêm đi mẹ.

Chờ các con ngủ Di mở sách ra đọc liền, lần đầu tiên cảm thấy hài lòng với cuộc sống của mình, cuộc đời của Di bỗng trở nên ấm áp, bình yên. Di mang ơn người viết, người dịch, người in...Tất cả những người bỏ công ra để hoàn thành một quyển sách cho Di thưởng thức. Họ chắc phải đắn đo sắp xếp từng ý tưởng, đẻo gọt từng câu chữ, phân vân trước mỗi dấu chấm, dấu phẩy để cố tạo ra một sản phẩm hoàn thiện nhất trong khả năng của mình.

Vừa gấp cuốn sách lại là Di tìm bút viết ngay cho chị Ba một bức thư:

Chị rất thương!

Em vùa đọc xong quyễn" AnNa Ka Rê Ni Na", nó hay đến nỗi mà em không sao ngủ được. Thói quen ngày xưa lại trỗi dậy. Cái nhu cầu muốn chia sẻ, muốn tâm sự với chị khi lòng ngập tràn cảm xúc bắt em phải ngồi dậy viết thơ liền cho chị đây!

Chị còn nhớ ngày xưa, một lần chị từ Long Xuyên, tức tốc về thăm để mang cho em một quyển truyện mà chị vô cùng yêu thích hông? Em còn nhớ nó mang tên "Những bàn tay bẩn". Và cứ mỗi dịp chị em mình gặp nhau là tụi mình đều bị má rầy vì cứ thức sáng đêm mà bàn luận về những quyển sách đã cùng đọc. Hầu như lúc nào hai chị em mình cũng có cùng một cảm nhận, cuốn gì chị thích là em thích và ngược lại.

Bây giờ em ước chi có chị bên cạnh, để chia sẻ với em cái điều đang làm lòng em thổn thức. Em thương An Na quá chị ơi! Cái chết của cổ ám ảnh em đến độ mà em như trông thấy trước mắt cái thân hình nằm vắt ngang trên dường rây, với những vết máu từ từ thấm qua lớp áo. Sao tác giả chọn cho cổ một cái chết thảm thương vậy chị? Sao không để cho cổ mặc cái áo đầm bằng sa ten trắng, nằm trên giường với vô số hoa hồng xếp chung quanh. Sao ổng nỡ làm cho lòng em nhói buốt như thế nầy!

Ở quê mình chị có mượn hoặc mướn được sách mà xem hông? Nếu không hè nầy chị nhất định phải lên thăm em đó! Em vừa tìm ra một chỗ có nhiều sách cũ lắm. Người chủ rất dễ thương, khi em chọn bộ sách nầy ổng nhìn em với đôi mắt thích thú hỏi:

-Cô cũng thích loại sách nầy sao?

Tiền thuê không mắc lắm nhưng tiền thuế chân thì vượt quá khả năng của em, nếu không em đã cuổm luôn mà gửi về cho chị rồi.

Em muốn kể cho chị về An Na nhiều lắm! Nhưng thôi, hãy để chị tìm đọc để tự khám phá, rồi kể cho em nghe những chi tiết mà chị ưa thích nhất, để xem tụi mình còn giống hệt nhau như ngày xưa hông!

Ở chỗ mướn sách Di quen được một cô bạn mới, chỉ nghe cái tên "Xuân An" thôi, Di đã dành sẵn cho cổ một mối cảm tình vượt mức bình thường, huống chi cổ còn rất dễ thương và có một cuộc sống bấp bênh, vất vả.

Cổ là người Đà Lạt, hơn Di một tuổi nhưng trông rất trẻ và gọi Di bằng chị, đang học luật thì trường bị bải bỏ. Cổ ở lại Sài Gòn bán chợ trời để kiếm sống, tìm cơ hội để vượt biên vì người yêu của cổ đã đi sang Mỹ. Nghe chuyện cổ mà Di khâm phục cho cái ý chí kiên cường của cổ. Cổ bán đủ thứ hết từ quần áo cũ rồi chuyễn sang sách và cuối cùng là bán thuốc tây. Thuê chung một căn gác với mấy cô gái khác cũng cùng hoàn cảnh. Cổ kể có lần bị công an bắt khi kiễm tra nhân khẩu. Họ nghi bọn cổ làm gái mãi dâm, cứ gặng hỏi mãi làm cổ nhục quá khóc suốt...Di hỏi sao cổ không về ở với má, cổ nó cổ có ba ghẻ tính tình không tốt nên cổ không muốn về nhà. Di gợi ý cho ở nhờ nhưng cổ cương quyết từ chối, chỉ thỉnh thoảng đến chơi và ở lại ăn cơm. Cổ rất thích cái món mắm kho của Di, cứ khen và đòi ăn thêm lần nữa.

Vậy là Di đã có sách, có bạn để cùng trò chuyện, bếp nhà Di, mấy món ăn tinh thần đang tỏa mùi thơm phức!

Đã sáu tháng trôi qua từ ngày Di kết bạn với Xuân An. Một buỗi chiều khi rước hai con ở trường về nhà, Di thấy Xuân An đang đợi sẵn. Cô đứng dựa vào hàng rào phủ đầy dây lá Sâm được Di trồng từ ngày mới về, dưới chân là một cái giỏ đệm to đựng đầy sách. Di mừng lắm ngỡ Xuân An dọn đến ở nên hỏi:

-Đồ đạc có bây nhiêu thôi hả?

-Em mang tặng chị hết sách của em đó, hy vọng chị thích.

-Chớ hổng phải dọn đến đây ở luôn sao? Còn cái túi gì trên tay vậy?

-Em đi chợ mua đồ về cho chị kho mắm, bữa nay phải ăn no cành hông mới được.

-Xời ơi! Làm người ta mừng hụt.

Di mở khóa dắt hai con vào. Xuân An rinh cái túi đệm vào theo. Di mở cái túi thức ăn kiểm tra xem thấy có một con cá lóc cỡ 300 gr, một miếng thịt ba rọi, cà tím, đậu đũa, khổ qua và một bịch rau ghém gồm mấy thứ rau ăn mắm trộn chung như: chuối cây, rau muống, rau sống v...v.. Di hỏi:

-Bộ em hổng mua xả hả?

-Chết cha, em quên mất tiêu, không có xả được hông chị?

-Không được đâu, nó với ớt là gia vị bắt buộc, thôi để chị chạy đi mua.

Di chạy một cái vèo ra chợ chồm hổm nằm trong cái hẻm phía bên kia đường. Mua thêm xả, ớt và một nhúm ngò gai, ăn mắm phải có ngò gai mới ngon. Về đến nhà thấy Xuân An đang tắm cho hai đứa nhỏ rồi lấy mấy bộ đồ mới tinh ra mặc cho chúng, thấy Di ngạc nhiên cổ giải thích:

-Cái nầy em mới mua cho hai cháu.

Hai đứa nhỏ được mặc đồ mới, sung sướng quá cười toe.

Bữa cơm được dọn trên mấy tờ giấy báo trải xuống đất, cả bốn người ngồi xúm xít. Xuân An có vẻ ít nói cắm cúi ăn, Di hỏi:

-Có ngon hông em?

-Ngon quá trời quá đất luôn, mắm nầy do má chị làm hả?

-Ừ, ngoại chị làm mắm ngon nổi tiếng trong xóm, ngoại truyền cho má.

-Chị có biết cách làm không?

-Không, bởi vậy chị sợ nó bị thất truyền luôn. Chị cũng muốn học lắm chớ nhưng mà làm mắm khó lắm, qua rất nhiều công đoạn. Nầy nhé cá làm xong phải bưng xuống sông rửa mới đủ nước cho nó sạch. Trộn muối cho ngấm, đúng thời điểm lấy ra, thắng đường, trộn thính vô gọi là " chao mắm ". Có loại mắm phải cho thêm cơm rượu. Xong xuôi mới nhận vô từng cái gáo dừa. Lấy lá chuối khô dậy trên mặt rồi gài vĩ tre lên, ém cho thật chặt, cuối cùng là sắp vô cái lu. Mắm sẽ từ từ rỉ nước ra, cái nước nầy gọi là nước mắm đồng có màu đậm hơn nước mắm mình mua ngoài chợ độ đạm rất cao.

-Nước mắm đó có ngon không?

-Ăn quen mới thấy ngon. Bà con quê chị tới mùa nước hay kho mắm lắm, vì mùa nầy có đủ thứ rau như điên điển, bông súng, rau dừa...Tính ra nội cái món rau không là cả chục thứ. Ăn mắm mỗi người phải có hai cái chén. Một chén đựng cơm còn một chén cho rau vào, rồi chan mắm vô mà lùa chớ hổng có gắp nhúng vô tô như mình đâu!

Ăn cơm xong hai chị em giành nhau rửa chén, rồi cả hai cùng rửa. Di rửa xà bông còn Xuân An tráng lại bằng nước sạch. Hai đứa con xin đi chơi với mấy đứa bạn trong xóm để khoe áo mới. Di kéo Xuân An lên gác, nhường cái võng cho cổ nằm rồi ngồi sát một bên đưa tay đẩy, đột nhiên cổ kề sát tai Di nó nhỏ:

-Ngày mai em đi rồi!

-Đi đâu?

-Vượt biên!

Di thở hụt một nhịp rồi hỏi:

-Sao hôm trước em nói chưa đủ tiền?

-Chỗ nầy quen với bồ em, họ liên lạc với ảnh rồi, qua tới đó ảnh trả đủ cho họ.

-Bao nhiêu vậy?

-Ba cây.

Một nỗi lo và buồn tràn ngập lòng Di, chắc nó lộ ra nét mặt nên cổ an ủi:

-Chị đừng có lo, em có đi coi bói rồi. Bà thầy nói chuyến nầy đi trót lọt. Em qua tới bển kiếm việc làm rồi sẽ gởi tiền về giúp chị mua sách về cho mướn tại nhà, khỏi đi bán nũa.

-Đừng có lo cho chị, chỉ cần em đi đến nơi rồi báo tin cho chị biết là được rồi. Có cho má em biết chưa?

-Em không dám! Sợ má em can ngăn rồi khóc lóc làm bể chuyện.

Di nghe cổ nói vậy bèn ráng kềm hai giọt nước mắt sắp trào ra. Cổ ngồi bật dậy ôm lấy Di thật chặt rồi nói:

-Em nói cái nầy chị đừng buồn nha! Chị với chồng chị tính không hợp đâu, chị còn trẻ, sống như vầy phí đời lắm!

Di đưa cổ ra tận ngoài đường, nhìn theo cho tới khi mất hút. Nước mắt bây giờ được dịp tuôn ra như bể bờ bao, cảm thương cho phận số của mình, hể thương ai một cái là chia tay liền. Chiều hôm sau đi bán về Di ghé qua ngôi chùa gần nhất, bỏ tờ giấy một đồng vào thùng công đức, rồi quỳ xuống chân phật cầu xin phù hộ cho người tên Trương thị Xuân An hai muơi bảy tuổi ở Đà Lạt, đi đường được bình an vô sự. Bỗng nhớ tới một người nữa cũng tên An, Di lại khấn tiếp;

-Xin Phật nhân tiện che chở luôn cho một người tên Nguyễn An, hai mươi bốn tuổi quê ở Châu Đốc được công thành danh toại, mạnh khỏe và hạnh phúc.

Cầu nguyện xong Di cảm thấy xấu hổ, vì chỉ cúng có một đồng mà xin đủ thứ nên bỏ thêm vào thùng một tờ giấy năm đồng nữa.

Từ hôm Xuân An đi, ngày nào Di cũng thấp thỏm không yên. Di mong ông phát thơ quá chừng nhưng càng mong ổng càng đi biền biệt. Di gữi cho chị Hai nhà bên cạnh hai đồng, để khi nào chị nhận được thơ từ nước ngoài gữi về cho Di thì biếu ông phát thư giùm. Di không ngờ khỏang trống mà Xuân An để lại trong lòng Di lại rộng lớn đến vậy. Di cảm thấy có lỗi với chị Ba rất nhiều, vì nỗi thất vọng khi nhận ra cái thư trên tay không phải của Xuân An mà là của chỉ!

Xuân An để lại cho Di rất nhiều sách, đa số là những tác phẩm của các văn hào Nga như: Chiến tranh và hoà bình, tuyển tập thơ và truyện của Put kin, Sê khốp, Tội ác và hình phạt, Sông đông êm đềm...v...v...Mỗi lần đọc là Di nghe một nỗi nhớ nhung tràn ngập. Di nhớ đôi mắt nhỏ, dài bộc lộ đức tính của một người hiền thục mà ông bà ta ưa chuộng và gọi tên là "mắt lá Răm". Di nhớ đôi gò má da rất mịn, hồng như da con nít. Cái miệng nhỏ, gọn với viền môi rất rõ, cả cái răng chó nhọn mọc hơi so le trông rất tinh ranh của cổ.

Tin tức được truyền miệng về những chiếc tàu bị bão, bị cướp, bị chìm...v...v...liên tục đến tai Di. Có chiếc trôi giạt lênh đênh hàng tháng trên biển. Những thuyền viên đói đến nổi phải ăn cả giày, dép. Có người phát điên vì thất vọng, làm Di vô cùng lo lắng. Mỗi đêm Di cầu xin thật thiết tha mong cho cổ sớm đến bên người yêu một cách an lành.

Rồi một đêm cách ngày Xuân An đi gần một tháng, Di mơ một giấc mơ mà khi tỉnh dậy Di khóc đến độ chồng và con Di phát hoảng. Di thấy Xuân An nằm trên võng như lần gặp cuối, tóc và quần áo của cổ sủng nước. Những giọt nước từ mái tóc của cổ chảy ròng ròng tạo thành một vũng to dưới võng, nó cứ lan dần và rộng mênh mông như một cái hồ. Cái võng như chiếc thuyền chở cổ trôi về bờ bên kia, còn Di thì đứng chôn chân phía bên nầy cố vói tay mà không thể nào chạm đến. Đôi mắt cổ nhìn về một chỗ nào đó ở thật xa phía sau lưng Di, tia mắt mờ đục như mắt con cá Lóc chết, môi cổ mấp máy. Di cố gọi mà cuống họng như nuốt cục xôi to mắc nghẹn không thốt nỗi một từ.

Di tỉnh giấc nhờ bàn tay chồng lay mạnh rồi nhớ lại giấc mơ liền, linh tính báo cho Di biết đây là một điềm dữ. Ngày Xuân An từ giã Di đã có cảm giác nầy, rất muốn ngăn mà không dám. Thôi chắc Xuân An về báo cho biết để Di thôi không chờ thư nữa. Xuân An đã nằm dưới đáy nước rồi!

Rồi Di khóc. Khóc cho một người bạn đã mang đi một phần hồn của Di. Khóc cho những đau thương mà bạn phải chịu đựng trong cái giây phút sau cùng ấy. Khóc cho cuộc trùng phùng không bao giờ có được, để lại một nỗi ăn năn, ray rức cho người còn sống. Khóc cho một bà mẹ và hai đứa em sẽ cứ mong đợi và trách móc hoài một người con, một người chị vì không về cho dù là ngày giỗ, tết...

Hôm sau Di nấu một mâm cơm để cúng Xuân An, vẫn là cái món mắm kho mà cổ thích, mua thêm mấy bộ đồ bằng giấy và một xấp giấy tiền vàng bạc. Di bưng cái mâm ra ngã ba đường để cúng vì nghe người ta nói những người chết dưới sông không được vô nhà. Di vừa đốt nhang vừa nói thầm với cổ: " Xuân An ơi! Chừng nào em đói và lạnh hay thèm ăn mắm kho thì nhớ báo cho chị biết nhé, chị sẽ gửi cho em".

Kể từ hôm ấy Di không còn mơ gặp cổ nữa, một tia hy vọng bắt đầu leo lét trong Di, biết đâu Xuân An còn sống, biết đâu...

Hè năm ấy, chị Ba đã hy sinh chuyến tham quan ĐÀ LẠT, do nhà trường thưởng để lên thăm Di.

Chị khuân mấy cái giỏ to đùng chứa nào là bánh tét, bánh ú, xôi vị của má làm gửi lên cho. Vì gạo, nếp bị cấm chuyên chở nên má làm đủ thứ bánh. Má cho thêm một túi bột gạo để Di làm bánh khọt, bánh xèo... Rồi nào là khô, mắm, đậu xanh, đậu nành...Tóm lại nhà có cái gì là má cho cái nấy. Má còn kho thịt kho tàu chứa trong mấy cái lon guizgo, luộc sẵn một chục hột vịt đem theo cho khỏi bể. Chị Ba thì may cho Di một cái áo Mút sơ lin màu tím, bé Duyên và cu Tèo mỗi bé được ba bộ đồ mới. Nhìn chị tay xách, nách mang nào bao, nào túi lủ khủ mà Di thương làm sao! Chị nói:"Mình chỉ mang theo đồ để dùng thôi mà mỗi lần tới mấy cái trạm là bụng đánh lô tô, run như thằn lằn đứt đuôi. Nghĩ mà thương cho những người đi buôn, chắc ai cũng đau tim hết trọi. Mà nhà nước cấm mấy thứ nầy chi vậy ta? Đã gọi là nhu yếu phẩm thì ai cũng cần mà cấm làm chi".

Mẹ con Di chiêu đải lại chị bằng cách mời chị đi coi xi nê. Trời đất ơi! xuất chiếu sáu giờ mà ba giờ chiều mẹ, con, dì, cháu đã kéo nhau đứng xếp hàng trước cửa rạp. Vậy mà nào có được yên. Phòng vé vừa mở cửa bán là từ đâu không biết, cả đám đông ùa đến chen ngang vào. Hai đứa con của Di bị ép sợ quá khóc ré lên, chị Ba lật đật kêu to:"Đi ra thôi Di ơi! coi chừng hai đứa nhỏ bị ép lòi bong bóng đó!". Thế là không xem phim được, bèn kéo nhau đi ăn chè Huế cho đỡ buồn.

Tối hôm ấy Di vừa khóc vừa kể cho chị Ba nghe về Xuân An. Chị Ba rút cái gối dưới đầu của Di ra rồi luồn tay vào và ôm Di thật chật, chị nói:

-Có thể Xuân An đã lạc mất địa chỉ của em nên không gửi thư được. Giấc mơ là do em bị ám ảnh mà sinh ra đó thôi! Đừng có suy diễn theo lối bi quan mà khổ, sống là phải ăn mót niềm vui, em cứ nghĩ ngợi lung tung, bởi vậy kỳ nầy lên chị thấy em bơ phờ quá!

Di đem sách của Xuân An ra cho chị xem. Chị rất thích bộ "Chiến tranh và hòa bình". Chị bỏ ra cả một tuần để xem liền một mạch. Có chị Ba Di nghĩ bán mấy ngày để ở nhà chơi với chị. Hai chị em sống lại không khí ngày xưa, cứ ăn xong là đọc sách.

Di ao ước phải chi có Xuân An, chắc cổ sẽ khoái mấy món bánh má làm và thích chị Ba lắm! Khi Di mở những quyễn sách của Xuân An để đọc, mỗi lần lật sang trang, ngón tay trỏ của Di đặt vào mép giấy. Di lại tưởng tượng là mình đặt tay lên đúng ngay chỗ ngón trỏ của Xuân An từng đặt vào để lật sách. Cảm giác như đã được chạm vào Xuân An một cách gián tiếp làm Di thấy ấm lòng.

Chị Ba ở chơi được nửa tháng thì về vì còn phải học bồi dưỡng chánh trị. Chỉ than đi dạy cả năm không ngán, mà nói tới học chính trị thì ai cũng rầu thúi ruột. Vậy mà chẳng có ai dám phản đối, thật là vừa tốn công vừa tốn của, cái bệnh hình thức ngày càng phổ biến. Di ghẹo:

-Chị được đi dạy sướng thấy mồ, còn được học trò thương nữa. Nghe má nói chị được phụ huynh mời ăn đám giỗ liền xì, em nghe mà bắt ham. Hay là chị đổi cho em đi!

-Đừng có tưởng bở! Bộ đi đám giỗ xách hai bàn tay không hả? Cũng phải mua bánh, mua trái cây tới chớ. Đã vậy có lần chị nghe con nhỏ học trò nó khoe với đứa bạn:"Hôm qua cô Ba Lệ tới nhà tao ăn đám giỗ". Từ đó chị cương quyết từ chối không đi cái đám nào nữa hết, nhờ vậy mới dư chút đỉnh tiền.

Hôm chị soạn đồ về Di buồn hết sức, có cảm giác như chị đi xa lắm! Lâu lắm mới được gặp lại, thấy mắt Di cứ rưng rưng chị nói nửa đùa, nửa thật:

-Hay là em với hai đứa nhỏ về quê ở luôn đi! Rồi xin đi dạy cho biết mùi với người ta!

-Em muốn lắm mà tiếc cái hộ khẩu. Bao nhiêu người họ chạy chọt để ở Sài Gòn mà không được, còn mình thì bỏ về quê thấy cũng uổng.

-Đó gọi là tính a dua, tính bầy đàn đó em. Nói vậy chớ ráng ở đây cho hai đứa nhỏ có điều kiện học tốt. Sau nầy tụi nó thành tài rồi thì về quê ở với chị, tới chừng đó chị cất cái nhà nhỏ ở sau hè...

Di ngắt lời chị:

-Bộ chị hổng tính có chồng sao?

-Chị thấy lấy chồng sao giống mua vé số quá. Chị lại tham lam chỉ muốn trúng độc đắt thôi nên chắc khó lắm!

-Em xúi chị vậy chớ giá cho em trở lại làm con gái rồi giảm nửa số tuổi của mình em cũng chiụ, với điều kiện là còn hai đứa nhỏ.

-Em có nghĩ đến chuyện li dị hông?

-Thời buổi nầy li dị cũng khó lắm chị ơi! Ở xóm nầy có một cô bị chồng đánh hoài, cổ chịu hổng thấu bèn làm đơn xin ly dị. Thế là họp tổ dân phố được đem ra thảo luận, rồi hội phụ nữ, ban hòa giải...Cứ mời họp miết, cuối cùng cổ chán quá rút đơn lại luôn.

-Ngẫm lại trong hôn nhân phụ nữ thua thiệt nhất!

-Vậy mà ai cũng khoái đâm đầu vào chỗ chết! Ba mươi tuổi mà chưa lấy được chồng là lo sốt vó!

Chị Ba vừa cười vừa rũ cái túi xách. Một cái thư rơi ra chị cầm lên rồi kêu:

-Thôi chết rồi hổm rày chị quên mất, may mà soạn cái túi không thôi là mang tiếng làm hiểm rồi!

-Cái gì vậy chị!

-Thơ của chị Đơn dạy chung trường với chị, chỉ nhờ đưa cho đứa em đang đi học trên nầy.

-Em chỉ ở đâu? Để em đưa cho.

-Có ghi địa chỉ đây nè, em xem có tiện thì đưa giùm, còn không thì mua tem dán vô rồi gửi giùm chị.

Di cầm lấy thư lẩm nhẩm đọc rồi nói:

-Cái chỗ nầy gần nhà má chồng em lắm, để mai em đưa tận tay cho, chị đừng lo.

Khuya hôm ấy hai chị em nằm nói chuyện với nhau cả đêm, đến lúc sắp đi chị hỏi:

-Em định sống như thế nầy hoài sao? Phải cố tìm một việc làm cho ổn định để uổng công học hành biết bao năm. Mỗi lần bà con hỏi em đang làm gì chị thấy má buồn lắm, má cứ nói:

-Chồng nó không cho đi làm, ở nhà giữ con thôi.

-Em cũng đi xin đủ chỗ rồi mà không được, đành phải chịu!

-Chồng em cũng còn đi chơi, ăn nhậu thâu đêm vậy sao?

-Công chuyện của ảnh phải giao tiếp nhiều, bắt buộc như vậy mà chị.

-Chị nói hổng phải trách, chớ chị thấy nó thay đổi nhiều lắm. Hồi chưa cưới em cứ xun xoe lấy lòng chị miết. Còn bây giờ...Chị ở chơi nửa tháng mà chưa có nói được với nó hai câu.

-Thì em giành hết rồi còn chỗ đâu mà ảnh nói nữa.

-Em ráng giữ mình. Nó quen biết tùm lum coi chừng đổ bệnh cho em là khổ lắm đó!

Rồi chị ôm lấy Di thật chặt, nhắc thêm lần nữa:

-Em còn có chị, biết hông?

Di gật đầu, mím môi rồi cố dồn hết sức mạnh vào đôi tay mà ôm lại chị.

Hôm sau, đưa hai con đi học xong Di đi giao thư liền.

Đó là một toà nhà cao mười hai tầng nằm trên đường Trần Hưng Đạo, ngày trước có tên là hotel President nay đổi thành nhà hát Trần Hữu trang. Đây là chung cư dành cho giới nghệ sĩ, nó còn có cả các trường đào tạo những lãnh vực về nghệ thuật, chắc cô em của chị Đơn học về nghành sân khấu hoặc điện ảnh.

Di nhìn tên ghi trên bao thư rồi phì cười. Em của chị Đơn tên Trần thị Chiếc làm Di nhớ đến cái kiểu đặt tên con rất đặc biệt của quê mình.

Ở quê Di bà con suy nghĩ rất đơn giản và có óc hài hước, cho nên có những cái tên thoạt nghe người ta không hiểu cha, mẹ đương sự mong mỏi điều gì cho con mình. Phải kết hợp với tên anh, chị, em hoặc tên cha, mẹ mới hiểu nổi. Có những cái tên thật dị hợm vì cha mẹ không dám đặt tên đẹp cho con sợ bị quở, khó nuôi, nhất là khi đã để xẩy một hoặc hai đứa đầu.

Xóm Di có anh năm Thít có hai đứa con trai sanh đôi. Ảnh cho một đứa tên Đúi còn đứa kia tên Đụi. Tội nghiệp hai đứa nhỏ đi học bị bạn bè trêu chọc dữ quá, cứ bị ghép chung với tên cha rồi láy lại mà kêu. Tụi nó đi học về là mình mẩy xây xát vì mỗi ngày đều đánh lộn, cho nên chữ chưa đầy lá Mít là nhất định nghỉ luôn không thèm đi học nữa!

Di gửi xe rồi leo lên cái cầu thang bộ tối hù. Phía trước có hai cô gái khiêng cái thùng đầy nước, nước rớt theo mỗi bước đi nên cầu thang rất trơn. Cái địa chỉ ghi ở lầu chín. Di vừa leo vừa thở dốc tự hỏi sao họ không cho xài thang máy, đúng là phung phí sức người quá đỗi!

Đến nơi Di gõ cửa, trong phòng đang có tiếng ồn ào chợt ngưng bặt, hai cô gái xuất hiện một lượt. Di vừa thở vừa hỏi:

-Ở đây có ai tên Trần thị Chiếc hông? Có thư của chị cổ gửi nè!

Một cô gái ốm nhom như chiếc đũa chạy đến chìa tay:

-Em nè, bộ chị dạy chung với chị Đơn của em hả?

-Chị là em cô giáo Lệ, bạn của chị em. Xin lỗi nghe, chị của chị quên nên đưa hơi trễ.

-Em cám ơn chị hổng hết chớ ở đó mà lỗi, phải gì. Chị vô ngồi nghỉ uống miếng nước cho khoẻ nghen. Em thấy chị thở coi bộ mệt dữ.

Di định từ chối, nhưng một phần đuối sức, lại muốn nhân cơ hội tìm hiểu xem nơi ăn chốn ở của mấy cô nàng nầy như thế nào, bèn bỏ dép bước vào. Căn phòng chừng ba chục mét vuông bao gồm cả nhà vệ sinh. Nó trống trơn không kê bàn, ghế, giường, tủ gì hết. Cả chục cái thùng cạc tông xếp chồng lên nhau. Gối mền mùng xếp vào một góc, chiếm một phần diện tích không nhỏ, Di hỏi:

-Tụi em có mấy người mà mùng mền nhiều quá vậy?

-Đâu chị đoán thử coi. Chiếc vừa cười vừa nói.

Di đếm mấy cái gối rồi nói:

-Sáu người hả?

-Trật rồi, tám người lận!

-Trời đất! Hèn gì em bị ép gầy nhom!

Mấy cô gái cười ồ.

Di ngồi nghỉ chừng mười phút, rồi từ giã ra về để đi chợ mua đồ chuẩn bị cho ngày mai bán lại. Chiếc có vẻ áy náy:

-Làm phiền chị quá! Mai mốt chị bỏ vào thùng thơ phía dưới được rồi, có người phát cho tụi em, đừng có leo lên đây mệt lắm. Chị đi xuống nhớ cẩn thận nghe, cầu thang trơn lắm đó!

-Chị biết rồi em đừng lo, mà ở đây bộ không có thang máy sao em?

-Có chớ nhưng nghe nói hư rồi nên đã khoá không dùng được nữa.

-Uổng ghê phải còn cho tụi em đỡ cực, mà tụi em có phải xách nước lên xài hông vậy?

-Có chớ sao không!

Di bước xuống thang một cách thật cẩn thận, lại đi sau một người con trai hai tay cầm hai cái xô nhựa lớn. Xuống tới chỗ để xe Di mò trong túi kiếm cái giấy gửi xe, cái túi trống trơn. Di nhìn vô giỏ đệm cũng không thấy. Trời đất ơi! Không lẻ rớt ở chỗ ngồi hồi nãy. Nghĩ tới việc phải leo lên chín tầng lầu là Di nghe hai ống chân mõi rệu. Di nghĩ thầm thôi cứ lại năn nỉ người giữ xe trước coi có được không, anh ta trông có vẻ hiền lành chắc không làm khó đâu. Di vừa đi vừa lâm râm cầu khấn. Người giữ xe ban nảy không còn ở đó, thay vào đấy là một người mà thoạt trông Di đã lấy làm ngờ ngợ. Anh ta đang đọc báo, gương mặt cúi nghiêng để lộ một bên tai với cái cục thịt dư sát mép trông quen lắm! Di tiến tới gần hơn rồi đứng chết trân. Người con trai linh cảm có người nhìn nên quay mặt lại. Y vừa ngước lên, vừa gọi một cách thảng thốt:

-Di!

-An!