Chương 19 -THÊM VÀI NHẨN VẬT CÓ CÁ TÁNH ĐỘC ĐÁO TRONG TRUYỆN TẦU:-LÃ BẤT VI, QUÁCH HÒE, DỰ NHƯỢNG và TẠ NGUYỆT KlỀU
Càng đọc truyện Tàu, tôi càng thích thú và lượm được nhiều bài học trong cách xây dựng nhân vật, qua những nét mà các bậc tiền bối đã truyền dạy cho. Trong lịch sử nhân loại có lẽ chỉ một mình Lã Bất Vi là tên lái buôn chúa tể các lái buôn thôi.
Buôn vua! Một việc làm không ai có thể tưởng tượng, vậy mà họ Lã làm trót lọt, thành công hoàn toàn và trở thành thái thượng hoàng, cha của ông vua lừng danh nhất lịch sử nhân loại: Tần Thủy Hoàng đại đế. Người ta bảo con hoang lớn lên thường tàn ác để trả thù cuộc đời. Tôi xin kể tóm lược việc buôn vua:
Vào thời Đông Châu Liệt Quốc, nước Tàu chia ra hàng trăm mảnh, lớn nhỏ mỗi mảnh có một người đứng ra xưng hùng, nhỏ thì xưng chúa xưng hầu, lớn thì xưng vương, xưng thiên tử. Lúc bây giờ có những nước lớn là Tần, Tề, Ngụy, Sở, Triệu, Hàn, Yên, v.v.. Các nước đánh nhau như băm bầu, sáng hòa chiều đánh, nay bạn mai thù, hồn ai nấy giữ. Các điển tích Kinh Kha sang Tần, Ngô Phù Sai – Tây Thi, Bao Tự đều lấy trong Đông Châu Liệt Quốc. Lúc bấy giờ ở nước Triệu có một anh lái buôn vàng bạc, kim cương, tên là Lã Bất Vi. Họ Lã dùng tiền bạc mua chuộc được các quan trấn biên ải, nên qua lại các nước như đi chợ, và buôn bán được lãi rất nhiều. Một hôm Lã về nhà, bố Lã hỏi chuyến này con lời được bao nhiêu? Lã đáp: “Cũng nhiều, nhưng buôn vàng ngọc không bằng buôn vua. Con chỉ cần một chuyên là giầu sang phú quí cả vạn đại nhà mình”.
(Chỉ một nét này thôi, nhân vật Lã Bất Vi đã trở thành bất hủ). Chúng ta hãy xem họ Lã buôn vua cách nào?
Số là nước Triệu bắt con vua nước Tần là Dị Nhân sang làm con tin. Vua Tần có quá nhiều con, nên Dị Nhân bị bỏ quên. Con vua mà sống lang thang thiếu thốn và buồn nhớ quê hương, nhưng vua cha không đoái hoài tới.
Lã Bất Vi rất sành tâm lý, nên lân la giao du với Dị Nhân, mời chàng ta ăn nhậu và tặng tiền bạc để tiêu xài, đồng thời mua chuộc viên quan của triều đình chuyên lo quản trị… con tin các nước. Nhờ đó, Lã được tự do giao dịch với Dị Nhân. Đàn ông con trai lại xa xứ cần gì khác nữa? -Gái! Cái mạch này không cần bắt cũng nắm được, huống chi Lã là một tay bán trời không mời thiên lôi.
Trong nhà Lã có một đám hầu non mua được ở các nước trên con đường thương mại. Trong đó có nàng Triệu Cơ đẹp nghiêng quán xiêu đình. Một hôm Lã mời Dị Nhân cùng với một ít quan chức có thẩm quyền về con tin đến thết đãi. Dị Nhân bị ép uống khá nhiều, nên xong tiệc khách khứa ra về hết, chỉ còn ông hoàng tử ở lại thôi. Họ Lã bèn cho Triệu Cơ ra tiếp đãi. Thấy sóng tình dường đã xiêu xiêu, Lã bèn rút lui, để cho chàng và nàng tỉ tê tâm sự. Nàng thì lụy nhỏ vắn dài, còn chàng thì than thân lưu lạc.
… Đến khuya, Lã mở cửa phòng vào, thấy đôi uyên ương đang chắp cánh bay trên giường, Lã ta đùng đùng nổi giận:
– Tôi tin thái tử là lá ngọc cành vàng, nên cho vợ tôi ra tiếp đãi, chẳng dè cơ sự thế này.
Dị Nhân sụp lạy xin lỗi lăng xăng. Lã đỡ dậy, và sau một lúc phân tỏ thiệt hơn, Lã bèn nhường nàng hầu Triệu Cơ lại cho Dị Nhân, lại còn giúp cho hai bên thành vợ chồng chánh thức.
Bước đầu quan trọng đã thành công, bây giờ sang bước thứ hai. Lã sang Tần, lại dùng tiền bạc để mua chuộc các quan to quan bé xin vào yết kiến Hoa Dương hoàng hậu là người được vua Tần yêu dấu nhất, nhưng lại không có con, trong lúc nhà vua lại có rất nhiều con với những bà phi khác.
Lã đã nhìn thấy rõ chỗ yếu của Hoa Dương là không có con, cho nên khi được vào yết kiến, lão tâu:
– Hoàng hậu là người đẹp nhất nước Tần, nhưng sắc đẹp không tồn tại mãi. Một khi nhan sắc phai tàn thì biết chúa thượng có còn yêu mãi hoàng hậu chăng?
Nghe nói, Hoa Dương mới giật mình, lúc này bà đã đứng tuổi, nhan sắc đang phai dần, câu nói của họ Lã như mũi dùi đâm thẳng vào tim bà. Lã lại tiếp:
– Chi bằng hoàng hậu nên chọn trong số con của chúa thượng, nhận một đứa làm con nuôi. Chúa thượng yêu hoàng hậu, tức nhiên con của hoàng hậu sẽ nối ngôi, địa vị của hoàng hậu sẽ vững chắc.
Hoa Dương thấy Lã nói đúng quá, bèn bảo Lã lui ra để bà suy nghĩ. Lần sau, chính Hoa Dương cho vời Lã vào để hỏi ý kiến. Lã tâu ngay:
– Hạ thần biết Dị Nhân là đứa con có hiếu… Vậy hoàng hậu nên nhận Dị Nhân làm con.
Thế là Hoa Dương ưng chịu, nghe lời họ Lã. Trong lúc yến ẩm với nhà vua, Hoa Dương bèn làm ra ủ dột mày châu. Vua thấy thế bèn hỏi han, Hoa Dương tâu thật nỗi lo sợ của mình về sau. Nên đã nhận Dị Nhân làm con. Vua hứa sẽ cho Dị Nhân kế vị. Vua bèn lấy chiếc đũa bẻ làm hai, chia cho Hoa Dương một khúc, còn mình giữ một khúc như để giữ lời hứa.
Quả nhiên khi vua Tần băng hà, Dị Nhân được triệu về nước lên ngôi. Và cô hầu non Triệu Cơ được phong chức chánh cung hoàng hậu. Dị Nhân có ngờ đâu trong bụng Triệu Cơ đã tượng hình hòn máu của gã lái buôn họ Lã.
Nhưng trời lại che lấp tội lỗi của gã, nên đứa trẻ kia mười hai tháng mới chào đời. (Khi vừa lọt lòng mẹ đã có bốn cái răng). Do đó Dị Nhân cứ tưởng là con của mình. Chính là Tần Thủy Hoàng sau này.
Dị Nhân phong cho Lã Bất Vi chức thừa tướng, được phép ra vào cung cấm tự do, tha hồ chàng lái buôn móc ngoéo lại với bồ cũ.
Nhân vật Lã Bất Vi thành công trong cú buôn vua là nhờ hai yếu tố: tiền bạc và tâm lý. Hay có thể nói họ Lã rất sành tâm lý, đánh phát nào trúng phát ấy. Đây là một loại nhân vật rất ly kỳ. Hình dáng và cách tung tiền của họ Lã, không được tác giả mô tả rõ nét. Tác giả chỉ đi sâu vào tâm lý là yếu tố sâu sắc và khó mô tả nhất.
Bây giờ đến nhân vật Quách Hòe. Họ Quách là thái giám. Trong cung hoàng hậu và thứ phi cùng lâm bồn. Nhưng oái oăm thay, chánh cung lại sanh công chúa còn thứ phi lại cho ra đời một hoàng nam. Chánh cung sợ con thứ phi lên ngôi, mình sẽ mất địa vị thái hậu, bèn sai Quách Hòe đem mèo chết lén tráo hoàng nam, (gọi là ly miêu hoán chúa) rồi hô toáng lên là thứ phi đẻ ra đồ yêu quái.
Quách Hòe vâng lệnh chủ, hoàn thành độc kế xong, lại phóng lửa đốt cung cấm để phi tang.
Hai mươi mốt năm sau, trong một dịp chẩn bần, Bao Công đã tìm ra manh mối, bèn tâu vua. Vua sai bắt Quách Hòe ra tra khảo. Vì ăn lộc của chánh cung ngập mặt, nên bị đòn roi chết ngất nhiều lần, họ Quách vẫn không khai, và bảo: “Ta chết xuống âm phủ mới khai”
Bao Công nghe thế bèn cho lập cung điện Diêm vương nhung nhúc quỉ sứ ngưu đầu mã diện, rồi cho đánh Quách Hòe chết đi sống lại nhiều lần. Vào lúc nửa đêm, cho khiêng Quách Hòe ném xuống “Diêm đài”. Khi tỉnh dậy, Họ Quách tưởng mình đã chết, bèn khai rõ cả đầu đuôi…. Sau khi biết rõ lầm mưu Bao Công, họ Quách cắn lưỡi tự vẫn.
Chỉ một nét thôi, tác giả đã dựng nên một Quách Hòe bất hủ. Truyện này đã được chuyển thành tuồng cải lương, rất được yêu thích.
Nếu không có việc thiết lập Diêm đình để tra khảo lấy cung thì Quách Hòe chỉ là một thái giám giỏi chịu đòn, không có gì đặc sắc.
Câu chuyện mà tôi sẽ kể sau đây cũng vậy. Nhân vật Dự Nhượng cũng chỉ có một nét khắc họa mà sông muôn đời.
Vào thời Đông Châu Liệt Quốc, ông vua A liên minh với ông vua B để đánh lấy nước của ông vua C. Nhưng trong lúc sắp xẩy ra chiến tranh, thì vua B lại xỏ lá quay sang cặp bồ với vua C để quay lại xơi tái vua A. Vua A thua và bị bắt giết. Còn vua B và vua C chia nhau đất đai của vua A. Dự Nhượng là bề tôi của vua A. Sau khi mất nước, Nhượng bỏ kinh thành vào núi ở ẩn, để tìm cách báo thù cho cựu chủ.
Nhượng cắt tóc, rạch mặt, bôi đen cả tay chân, nuốt than đổi giọng nói, để không còn ai nhìn ra mình nữa, và tìm cách lại gần vua B, để đâm chết tên đồng minh phản phúc này. Một ngày kia, được tin vua B sẽ đi ngang qua một chiếc cầu, Nhượng bèn chui vào bụi rậm ở móng cầu, chờ vua B đi tới sẽ nhào ra đâm chém, nhưng việc không thành. Quân hầu cận của vua B bắt Nhượng đem tới trước mặt vua. Nhượng không quì, lại còn trỏ mặt mắng vua B là quân chó má, khăng khăng đòi giết cho được vua B để trả thù cho chủ mình. Vua B thấy Nhượng là người trung can nghĩa khí như vậy, bèn cởi áo bào của mình, cho Nhượng đánh một roi, để hả lòng mà quên thù cũ đi.
Nhượng cầm roi, thét lên một tiếng, và dùng hết sức mình quất roi vào chiếc long bào của vua B.
Khi về triều, nhà vua nghe đau ê ẩm khắp người. Nhìn lại thấy trên long bào làn roi rướm máu. Vua kinh hãi phát bịnh và đau luôn rồi chết.
Sức căm thù của Dự Nhượng ghê gớm đến nỗi chiêc áo vải trở thành con người thật của vua B khi làn roi quật xuống. (Đoạn truyện này đã được chuyển thành tuồng cải lương, có tên là “Dự Nhượng đả long bào”. Khán giả xem tuồng đều phải sởn gai ốc khi Dự Nhượng vùng dậy quật thẳng cánh ngọn roi vào chiếc áo.)
Chỉ một nét thôi, tác giả đã dựng nên một nhân vật ly kỳ, sức sáng tạo của ngòi bút thật là phi thường.
Năm 1972, tôi được chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa gởi đi châu du bẩy nước trên thế giới. Trong dịp này, tôi có ghé thăm nhà lưu niệm của Shakespeare ở Stratford- on-Avon, Anh Quốc. Khi ở Hà Nội tôi được xem nhiều phim của Liên Xô (cũ) dựng từ kịch bản của Shakespeare. Khi về Hà Nội, tôi đi xem tuồng cải lương ở rạp Kim Chung cả tháng ròng nhưng không thấy có tuồng San Hậu. Tôi hỏi anh Sỹ Tiến, thì anh nói: Có kịch bản, nhưng không có đủ diễn viên đóng, nhất là đào kép không ca vọng cổ được.
Do đó mà vở tuồng trứ danh của Nam Bộ bị mai một. Tới bây giờ mà không thấy có đoàn nào diễn lại tuồng ấy cho toàn vẹn như thủa tôi còn bé xem nó ở đình làng Minh Đức, quê ngoại tôi. Bây giờ tôi già rồi, bỗng một hôm tôi được xem lại San Hậu trên video như một dịp may trời cho. Tôi vụt có ý nghĩ: vở tuồng này đâu có thua gì các phim của Shakespeare, tôi xem vừa kể ở trên.
San Hậu là một giai đoạn bi tráng của Tề triều, trong đó diễn tả đủ mọi quan hệ của xã hội đương thời: Vua tôi, Vợ chồng, Anh em, Cha con, Mẹ con, Bạn bè, Tôn giáo, Trung và Nịnh, Chân và Dỏm, mỗi nhân vật đều điển hình rất đặc sắc.
Tôi có ý định viết một bài về vở tuồng này nhưng chưa có dịp, thì nay dịp may tới. Đó là quyển sách này.
Tóm tắt câu chuyện như sau:
Vua Tề nhu nhược, bị hoàng hậu là Tạ Ngọc Dung đầu độc chết, để em trai mình là Tạ Thiên Lăng soán ngôi với sự hùa theo của hai người em trai khác là Tạ Nhược và Tạ Ôn Đình.
Nhưng âm mưu này bị Tạ Nguyệt Kiểu phản đối. Nguyệt Kiểu là tam cung của vua, và lại là em gái của Tạ Ngọc Dung. Dù bị phản đối, Tạ Ngọc Dung vẫn cùng các em trai thực hành âm mưu soán ngôi. Sau khi vua băng hà, Tạ Thiên Lăng lên ngôi, còn Tạ Nguyệt Kiểu thì âm thầm cứu nguy cho Phàn Phụng Cơ, một ái phi của vua đang có thai. Cứu Phụng Cơ là cứu được giang san nhà Tề cho nên Tạ Thiên Lăng sau khi soán ngôi quyết giết Phụng Cơ để trừ hậu hoạn. Nhờ sự che chở của Nguyệt Kiểu mà Phụng Cơ được hoãn án, chờ sau khi sinh nở sẽ bị chém.
Lại nhờ có hai võ tướng trung thành là Khương Linh Tá và Đổng Kim Lân đưa Phụng Cơ cùng ấu chúa thoát vòng vây của quân soán nghịch. Nhưng dọc đường Khương Linh Tá bị địch quân giết chết và chặt đầu, còn Phụng Cơ tay ẵm con, tay cầm gươm đánh giặc và bị thương, chỉ còn Đổng Kim Lân phò trợ. Khương Linh Tá hiện hồn lên làm đuốc soi đường cho Đổng Kim Lân và Phụng Cơ qua núi giữa đêm tối mịt mùng.
Cuốì cùng đến được San Hậu thành là nơi Phàn Định Công, cha ruột của Phụng Cơ, ông ngoại của ấu vương trấn thủ. Và các tướng tá mưu đồ khôi phục Tề trào. Tạ Thiên Lăng xưng vương, phong cho Tạ Ôn Đình làm nguyên soái thống lãnh binh quyền, trong khi Nguyệt Kiểu xuống tóc đi tu. Quân của Phàn Định Công giao chiến với quân soán nghịch Tạ Ôn Đình bất phân thắng bại. Tạ Ôn Đình bắt mẹ của Đổng Kim Lân đem lên mặt thành, mong Kim Lân phải hạ khí giới. Nhưng bỗng một hôm, Tạ Ôn Đình lại thấy Tạ Nguyệt Kiểu bị trói dưới chân thành Đổng Kim Lân đòi đổi lấy Đổng Mẫu. Ôn Đình có ngờ đâu đó là kế của Nguyệt Kiểu.
Cuối cùng quân soán nghịch thua. Âu vương đã mười tuổi, được quần thần tôn lên ngôi, chính nghĩa đại thắng. Đây là một vở tuồng lâm ly, bi tráng đầy éo le, gây cấn. Nếu có bổn cũ nguyên văn, và có đủ đào kép tài ba, một công ty nào đó còn yêu mến nghệ thuật xưa của nước nhà, dựng lại tuồng San Hậu một cách đầy đủ thì may mắn cho khán giả Việt Nam vô cùng. Những giá trị nghệ thuật như tuồng San Hậu, nếu không được phục hồi, thì thật đáng tiếc. Nếu chạy theo tuồng chưỡng, thì ta cứ lẹt đẹt ở phía sau thiên hạ mà thôi.
Đứng về mặt nghệ thuật mà bàn luận, thì toàn bộ nhân vật trong vở tuồng đều rất xuất sắc. Phe soán nghịch ham địa vị cao sang: Tạ Ngọc Dung, Tạ Kim Lăng, Tạ Ôn Đình, mỗi người đều có nét rất độc đáo. Tạ Nguyệt Kiểu chán chê trò phản trắc của chị em mình, bỏ cảnh cung vàng điện ngọc đi tu. Phe trung thần có Phàn Định Công khi tiếp được chiếu chỉ của “Tạ thiên tử” thì tức tối hộc máu ra mà chết. Khương Linh Tá đã bị giặc giết, nhưng linh hồn trung nghĩa vẫn theo phò ấu vương.
Hồi nhớ lại những năm tôi còn bé, ít khi nào tôi vắng mặt ở rạp hát. Không vào được bên trong từ đầu, thì cũng coi cọp được màn chót khi hát thả giàn. Không có tuồng truyện nào tôi bỏ qua.
Thời đó sân khấu ta phong phú vô cùng là nhờ tuồng truyện. Có những gánh hát chuyên diễn tuồng truyện, tuồng truyện rợp trời. Xem lại chỉ dăm ba tuồng Tây phóng tác, như Trà Hoa Nữ, Tristan et Yseult. Còn tuồng Tàu có hằng trăm: Phụng Nghi Đình, Phong Ba Đình, Xử án Bàng Quí Phi, Xử án Quách Hòe, Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu Thành, Phàn Lê Huê phá Hồng thủy trận Tiết Giao đoạt ngọc, Tiết Đinh Sơn cầu Phàn Lê Huê Thần nữ dựng Ngũ linh kỳ chuộc tội Tiết ứng Luông Quan Công đắp đập bắt Bàng Đức, Quan Công phục Huê dung đạo, Quan Công hiển thánh, Tôn Tấn Bàng Quyên Tôn Tần hạ san, Tôn Tẩn tái sanh, Tiết Nhơn Quý chình đông, Tru Tiên trận, Hội Hồng môn, Địch Thanh giải chinh y, Khổng Minh tam khí Châu Do v.v…và v.v. không kể hết nổi.
Quả là truyện Tàu đã làm phong phú sân khấu Việt Nam, và làm cho tim óc trẻ thơ của tôi biết rung cảm. Tới bây giờ tôi đã già, đọc lại truyện Tàu, xem lại tuồng truyện, tôi vẫn rung cảm như hồi còn thơ. Lạ thay!
Đó là nhờ bàn tay khối óc của những nghệ sĩ lớn.
Ông Đạo Xôi Ba Du ơi! Ông có còn sống chăng thì cũng đã ngoài tám mươi, và Tư Sạng – Tạ Nguyệt Kiểu sao vẫn cứ đẹp tuyệt trần trong trí tôi, với bộ nâu sồng dưới mái chùa.