Chương 20 MẤY TRUYỆN NGẮN TÔI KHÔNG BAO GIỜ QUÊN
Truyện ngắn! Một thể loại khó viết vô cùng. Bằng một số chữ ít nhất, người viết phải thể hiện cái ý định của mình rõ rệt và mạnh mẽ nhất!
Anh Bùi Hiển, một cây bút viết truyện ngắn tài ba trước 45, tác giả quyển Nằm Vạ được giải thưởng của Tự Lực Văn Đoàn – đã định nghĩa truyện ngắn như sau với tôi: “Đó là một cái coupe dọc hoặc ngang của một con người hoặc của xã hội. (C’est une coupe latérale ou transversale d’un homme ou d’une société)”- Tôi hiểu ra đó là một mặt, một khía cạnh nào đó của một con người hoặc của xã hội, chớ không phải toàn bộ con người hoặc toàn bộ xã hội.
Thí dụ: Bỉ Vỏ không phải là một truyện ngắn, vì nó biểu hiện toàn bộ xã hội “chạy vỏ” trong cái xã hội thời bấy giờ gồm có nhiều người, nhiều mặt mà Tám Bính và Năm Sài Gòn là tiêu biểu.
Tôi có hỏi anh nên bắt đầu truyện ngắn từ đâu? Anh bảo: “Từ chỗ có chuyện!” Tôi hiểu ra rằng: cắt bỏ khúc đầu càng nhiều càng tốt, cắt đến chỗ nào không thể cắt được nữa. Vì nếu cắt thì chuyện sẽ thiếu.
Tôi có cái tật là viết phải lấy trớn một đoạn hoặc một vài đoạn rồi mới “vô” được. Viết xong, thường thường tôi bỏ khúc đầu.
Với định nghĩa trên đây, tôi xin lược thuật đại ý mấy truyện ngắn mà tôi nhớ đã ba bốn chục năm nay. Và có lẽ không bao giờ quên các truyện của Antoine Tchékhov (nhà văn Nga):
A. TCHÉKHOV: CÁI CHẾT CỦA MỘT CÔNG CHỨC
Một anh công chức đi xem hát, ngồi trên tầng lầu. Xem một lát, anh bỗng thò đầu ra nhổ một bãi nước bọt xuống phía dưới. Anh ta có cái thói quen ây từ lâu, ở nhà hoặc ở công sở. Nhưng dù có mất vệ sinh, cũng không tác hại nhiều, vì ở nhà và ở công sở anh không ngồi trên lầu, còn ở rạp hát thì anh lại ngồi trên lầu. Ngồi trên lầu mà nhổ nước bọt xuông tầng dưới, thì thật tai hại. Sau khi nhổ xong, anh mới giật mình nhớ ra rằng mình không nên nhổ như vậy, nhưng đã muộn rồi. Bãi nước bọt kia rơi trúng một cái đầu hói bóng lưỡng. Cái đầu hói kia ngẩng lên nhìn xem kẻ nào bất lịch sự đến vậy, thì anh công chức nhận ngay rằng đó là cái đầu hói của ông giám đốc nhà mình.
Anh bèn bỏ chỗ, nhẩy thang ba nấc một xuống đứng trước mặt vị giám đốc, cúi gập người, lắp bắp:
– Thưa ông giám đốc, tôi đã vô tình nhổ nước bọt lên đầu ông giám đốc.
– Thế à? – Ông giám đốc đã lau xong bãi nước bọt, nhét khăn vào túi. Không có vẻ gì giận dữ.
– Thưa ông giám đốc, đây chỉ là sự vô tình thôi ạ!
Ông giám đốc xua tay, độ lượng:
– Không sao cả. Anh không phải lo!
– Vâng ạ! Thưa ông giám đốc, đó chỉ là vô tình. Tôi không cố ý nhổ như….
– Được rồi! Anh cứ trở lại xem tự nhiên. Kịch đang hồi hay.
Anh công chức lại cúi rạp cám ơn lia lịa và vọt trở lên, nhưng đến nửa chừng thì anh ta lại trở xuống với những cử chỉ quan trọng hơn lần trước.
– Thưa ông giám đốc, tôi quả tình không có ý định nhổ nước bọt trên đầu ông giám đốc. Đó chỉ là một sự vô ý, một sai lầm vì bất cẩn, vì thói xấu tự nhiên của một con người. Và loài người ai mà không có một hoặc nhiều thói xấu!
Ông giám đốc rộng lượng nhưng hơi khó chịu vì ông đang say mê theo dõi vở kịch. Mắt ông đăm đăm nhìn lên sân khấu, mồm nói:
-Tôi hiểu! Tôi hiểu! Anh cứ yên tâm.
– Cảm ơn ông giám đốc, tôi xin được mãi mãi làm người tôi tớ của ồng giám đốc, và ông giám đổc sẽ mãi mãi là người chủ anh minh nhất của tôi.
– Tôi sẽ không xuống cấp anh, sẽ không bớt lương anh. Anh yên tâm chưa nào?
– Cám ơn ông giám đôc. Vợ con tôi sẽ đến xin lỗi và cảm ơn ông giám đốc.
– Tôi không muốn nghe những lới nịnh hót thái quá của anh nữa. Anh nên trở lại mà xem hát.
Anh công chức lại trịnh trọng cảm ơn rồi trở lên lầu. Nhưng lương tâm cắn rứt, anh không ngồi yên được mà xem hát. Anh như mất hồn cho đến lúc vãn. Về nhà anh lại cũng không yên tâm. Nhổ nước bọt lên đầu ông giám đốc, đâu phải là lỗi nhỏ. Anh không thể nào sống yên được.
Ông giám đốc về nhà, vở kịch hay làm cho ông thích thú. Đến lúc vào buồng ngủ, ông hãy còn bàn bạc với vợ về các vai đào kép. Nhưng lại có tiếng đập cửa, có vẻ khẩn cấp. Ông để luôn đồ ngủ, chạy ào ra mở cửa.
Cả một tốp người hiện ra trước mặt ông, kẻ đứng, người quì gối:
– Tôi xin cắn rơm cắn cỏ xin ông giám đốc tha tội cho!
Ông giám đốc nhận ra tiếng anh nhân viên, bèn quát:
– Tôi đã bảo anh không có tội gì. Nghe rõ chưa!?
Anh công chức quì mọp xuống, và cứ lải nhải:
– Quả thật con không có ý định làm… cái đầu của ông giám đốc nhơ bẩn ra vì một bãi nước bọt vô tình.
– Tôi xin lấy danh dự của một giám đốc hứa với anh rằng tôi không bắt lỗi anh gì hết!
Ông giám đốc quát rồi, trở vào đóng sầm cửa lại.
Anh công chức dắt vợ con về nhà. về đến nhà, anh không nói không rằng gì cả, anh leo lên giường nằm ngay chân ra mà chết.
A. TCHÉKHOV: CHIẾC MỀ ĐAY
Nhân viên sở hỏa xa An-tôn Séc-gây-ép-ki lấy làm hân hoan được giấy mời đi dự tiệc tối nay. Anh ta khoe với vợ tấm thiếp mời, rìa chạy chỉ vàng, và giữ nó trong túi áo không rời. Từ giờ đến lúc vào tiệc còn ba tiếng đồng hồ nữa. cố làm sao đừng mất, đừng làm bèo nhèo tấm thiếp quí. An-tôn nhắp nhỏm chờ tới giờ là phóng lên xe đi ngay. Phòng tiệc cũng vừa đông khách thức ăn đã dọn lên bàn, nào thịt gà quay, nào thịt bò chiên thơm bát ngát. Khách toàn những ông to bà lớn sang trọng Những chiếc áo có đuôi, bên cạnh những chiếc váy đăng ten. Những bộ ria mép tỉa tót kỹ hơn hàng rào vào ngày lễ Phục sinh. Ngực nhiều ông chói lói những huy chương cao cấp, những bội tinh nói lên công trạng lẫn ân đức của người được trao tặng.
An-tôn cũng có một chiếc chớ có thua ai? Chiếc huân chương “Hoàng hậu Anna” là loại cao nhất đang đeo lủng lẳng trên ngực, nhưng chàng ta không dám chường mặt và ưỡn ngực ra như thói thường những kẻ đeo huân chương. An-tôn hơi len lén, nhưng chỉ một lát thôi, rồi chàng ta lấy lại dũng khí như thường. Vừa lúc đó thì chủ nhân buổi tiệc mời khách vào bàn.
Chiếc ghế mà chàng ngắm nghía cho mình là chiếc ghế ở trong cùng, nhưng quái ác thay, chủ nhân lại dành cho chiếc ghế ở giữa bàn, nơi mà từ mọi phía tia mắt đều có thể chĩa vào tấm huân chương “Hoàng hậu Anna” rực rỡ của chàng. Chàng đâm ra sợ hãi, trong lúc ăn, chàng hơi mọp xuống cho chiếc huân chương thòng gần mép bàn. Và chàng chỉ dùng tay mặt để cầm dao nĩa, còn tay trái thì vờ gãi đầu gãi tai, chùi mép bằng chiếc khăn bàn, để có lý do che chiếc Hoàng Hậu Anna đệ nhất đẳng. – Bây giờ chàng mới biết cái khổ tâm của kẻ mượn huân chương đeo đi ăn tiệc. Chàng sợ những người quen biết điều đó. Cũng may, ở đây không ai quen, nên dù có ngó thấy tấm Hoàng hậu Anna trên ngực chàng, họ cũng không biết là chàng đã mượn của một người bạn.
Bất thần, chàng trông thấy thằng bạn Sà-lù-bốp ngồi trước mặt chàng, chỉ cách nhau có con gà quay. Chốc nữa đây, khi chú gà biến đi, thằng Sà-lù sẽ chẳng gặp khó khăn nào để xoi mói vào tấm huân chương cao quí của chàng. Hắn ta dư biết chàng làm gì có tấm huân chương ấy. Nhưng mà sao me xừ Sà-lù cũng có vẻ len lét? Hắn không nhận chàng là bạn quen, cũng không nhìn chàng như thường lệ. Càng lạ hơn nữa, hắn cũng chỉ dùng có một tay xử dụng dao nĩa, còn tay kia thì lại quơ quơ trước ngực. Nhưng có lẽ hắn thấy thế không tự nhiên, nên hắn buông cả muỗng, nĩa, và lấy chiếc khăn bàn giắt lên cổ áo. Chiếc khăn bàn thừa sức phủ kín cả cái phía trước của hắn: ngực lẫn bụng. Rồi hai tay hắn tha hồ hoạt động. Cả cặp mắt hắn xoáy vào ngực chàng một cách thẳng thắn, hằn học hoặc chế riễu làm cho chàng đã lúng túng càng thêm lúng túng.
An-tôn mong cho buổi tiệc tan nhanh để trở về nhà lột cái huân chương trả cho bạn, và thề không bao giờ đi mượn danh dự của người khác để đi dự tiệc nữa.
Nhưng kìa, bỗng nhiên cái khăn ăn trên ngực Sà-lù-bốp lại rụng xuống như có bàn tay nào giựt. Sà-lù buông dao nĩa và chụp lại, nhưng không kịp. Cả bộ ngực hắn phơi ra, trên đó lủng lẳng tấm huân chương “Đại đế Guy- dôm“. Antony thở phào: Hắn cũng mượn huân chương của người ta. Hắn làm gì có được huân chương “Đại đê Guỵ-dôm” mà đeo?
Thế là An-tôn dùng cả hai tay cầm muỗng nĩa, còn bên kia, Sà-lù cũng không cần giữ miếng gì hết.
Hai bên cắt xôm, nhai ngốn lia lịa, không bên nào sợ bên nào nữa cả. Chưa thỏa mãn, họ còn buông dao nĩa, dùng cả hai tay quơ hốt!
Hai truyện trên chứng tỏ sức sáng tạo của nhà văn thật là phi thường. Có lẽ ông tưởng tượng nhiều hơn là lấy chất liệu từ thực tế. Một nét nho nhỏ ngoài đời vào tay nhà văn trở thành một bức họa sinh động và bất hủ.
Đọc Cái chết của một công chức ta thấy mấy hình tượng- Bãi nước bọt và cái đầu hói. Tchékhov đã cường điệu cái chết của viên công chức một cách tài tình hết sức. Ngoài đời chắc là không có cái chết nào như vậy, nhưng trong văn học ta thấy nó thực vô cùng. Còn truyện Cái mề đay thiệt là lý thú. Kẻ đi mượn danh dự của người khác làm của mình, rồi sớm muộn gì cũng bị lột mặt nạ.
Tchékhov là một vị bác sĩ, không hiểu sao ông lại bỏ nghề mà đi viết văn và nổi tiếng hơn cả nghề lương y. Ông có lối viết sắc nhọn chế riễu xã hội như trên. Tôi không được đọc ông nhiều, nên không dám nhận định tổng quát.
Sau đây là hai truyện của Guy de Maupassant, có lẽ nhà văn mà tôi đọc nhiều nhất trong các nhà văn nước ngoài.
Truyện Tình yêu mà tôi thuật lại sau đây không có chi tiết nhiều như hai truyện của Tchékhov, nhưng luận đề của nó rất sâu sắc. Truyện này tôi đọc ít nhất là đã trên ba mươi năm, nhưng mới vài ba năm trước, tôi gặp lại một người bạn cũ hồi còn trẻ. Ngồi nói chuyện với nhau, tôi bỗng nhớ lại truyện này, và tôi đã kể lại cho người bạn nghe. Không hiểu sao nó lại bất ngờ hiện lên trong trí tôi như thế?
GUY de MAUPASSANT: TÌNH YÊU (L’amour)
Từ Paris đến… tôi đi vào rừng gặp một đôi chim. Tôi giương súng bắn một phát. Một con chim rơi xuống máu me nhuộm cỏ. Con chim còn lại không bay đi mà cứ bay quần trên đầu tôi, có ý nhìn xuống người bạn mình đang hấp hối dưới đất. Không biết đó là con trống hay con mái. Tôi định giương súng bắn tiếp, nhưng rồi hạ súng xuống, không bắn nữa. Định hè này ở chơi lâu vùng miền Nam. Nhưng hôm sau tôi bỏ ý định đó và trở lại Paris.
Truyện chỉ có thế, đâu chừng hai trang. (Câu kết không ăn nhập gì với truyện cả, vậy mà truyện gây một ấn tượng không phai.)
GUY de MAUPASSANT: TRÊN TOA XE (En wagon)
Trên toa xe, một anh nông dân đặt những đồ nghề gồm những cuốc xẻng dưới gầm băng và tìm chỗ ngồi. Bên dẫy băng trước mặt có một người đàn bà đứng tuổi, mập mạp, nhưng vẻ mặt đầy lo âu, pha lẫn chút đau đớn. Chị ta ngó mông ra ngoài, như tìm một người quen.
Đoàn tầu chạy nhanh, không đỗ lại ở ga nào. Người đàn bà nhăn nhó, rồi một lúc sau ôm ngực tỏ vẻ khó chịu, chị ta càng để lộ vẻ đau đớn. Anh nông dân bèn đến gần và hỏi thăm cớ sự để giúp đỡ. Chị ta nói:
– Tôi bỏ đứa con ở nhà, đi ở vú cho người khác cách đây hơi xa. Sữa căng, tôi đau đớn vô cùng. Tôi mong tầu đỗ lại để tìm một đứa bé cho nó bú, thì hết đau.
Anh nông dân nói:
– Như vậy… tôi có thể giúp bà được không?
– Nếu ông vui lòng.
Người đàn bà vạch áo ra, và người đàn ông quì xuống làm nhiệm vụ của một đứa bé. Xong rồi, anh đứng dậy. Người đàn bà lấy làm khoan khoái, kêu lên: “Tôi xin cảm ơn ông!”
Người đàn ông nói:
– Chính tôi phải cảm ơn bà. Tôi đang thất nghiệp, đi tìm việc làm. Đã hai hôm tôi không có cái gì cho vào dạ dầy.
Đó là hai truyện ngắn của Maupassant đăng trong tập Truyện chọn lọc của ông. Ở đây nhà văn vừa sáng tạo phi thường và vừa chứng tỏ sự quan sát của mình cũng phi thường không kém.
Nếu với một cây bút không có bản lĩnh thì trên đây chỉ là hai mẩu chuyện nhưng dưới ngòi bút của Maupassant, nó trở nên những truyện ngắn tuyệt tác. Rất tiếc tôi không nhớ những chi tiết để ghi lại mà chỉ nhớ cốt truyện.
Một tý bột ông đã gột nên hồ. Cái đặc biệt của cặp mắt và trái tim của nhà văn là ở chỗ đó. “Thấy” cái trước mắt mà người thường “không thấy”. Cũng như các anh Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài… thường nói về Vũ Trọng Phụng:
“Cái thằng Xuân Tóc Đỏ nó lù lù ở trước mặt đó mà chẳng anh nào ‘thấy’ cả, để Vũ Trọng Phụng viết lên rồi mới té ngửa ra!”
Vậy vấn đề “thấy” của nhà văn cũng quan trọng như vấn đề viết. Có khi “thấy” lại còn quan trọng hơn. Không “thấy” thì làm sao mà viết được. Cũng như Vũ Trọng Phụng “thấy” chàng Xuân Tóc Đỏ vậy.
Một truyện ngắn hay, một truyện dài hay đều có một hoặc tất cả những yếu tố sau đây;
– Cốt truyện ly kỳ. (Bỉ Võ)
– Sự sáng tạo của tác giả. (Số Đỏ)
– Văn chương mượt mà.
– Sự bố cục khéo léo (độc giả bị ngạc nhiên, nhưng bố cục vẫn mạch lạc).
Những truyện trên đây tôi cố gắng kể lại. Thưởng thức một truyện ngắn chỉ đọc được tóm tắt, thì chẳng khác nào mua trâu vẽ bóng. Tuy nhiên, ta có thể rút ra được một điều gì bổ ích.
Sau đây tôi xin đưa ra truyện ngắn của hai nhà văn Việt. Một Nam, một Bắc, một già, một trẻ dưới cặp mắt của tôi.
XUÂN TƯỚC: CON RẮN VÚ NÀNG
Bà vợ Cai tổng có nhân tình là Ba Sanh. Anh này sợ bà mà phải tới lui. Sanh có nhân tình là Tư Phước. Bà Cai ghen, nên muốn chia rẽ hai người. Bà bèn than thở với ông Cai rằng mình già rồi mà chưa có con. Rồi bầy mưu cưới cô Phước cho ông làm vợ bé để kiếm chút con nối dòng. Thế là đôi uyên ương đứt đường tơ. Bà Cai trả được thù Ba Sanh, đồng thời được “rảnh tay” để hú hí với tình nhân mới là ông thầy thuốc rắn trong xóm. Nhưng chẳng bao lâu, vợ bé ông Cai lại có bầu. Như thế, bà Cai sẽ mất của mấ’t quyền trong nhà ông Cai. Bà bèn nhờ tay ông thầy rắn giết giùm con yêu tinh kia.
Ông thầy đi tìm con rắn Vú Nàng là loại rắn cắn chết ngay, thường ở trong gốc tre già. Ông thầy phải bỏ nhiều công mới bắt được con rắn đem về nuôi trong chai. Bà Cai lại nghĩ cách dùng con rắn để giết tình địch. Ông thầy đóng một chiếc giường, bốn chân làm bằng gốc tre, ông thầy dùi một lỗ bỏ con rắn vào. Xong bà Cai chở chiếc giường lại tặng, cho bà nhỏ “nằm chỗ”. Nhưng đứa bé đã ra đời mà mẹ nó cứ sống nhăn. Bà Cai càng sốt ruột, nên tự tay bà bào chế thuốc độc đem lại gạt tình địch bảo là sâm nhung, em uống cho khỏe. Nhưng đến nơi thì trời mưa, bà Cai trượt chân té, làm đổ chén thuốc và tắt đèn. Khi mẹ thằng bé tìm được hộp quẹt đốt đèn lên, thì thấy bà Cai nằm dưới đất sủi bọt mồm. Trong lúc đèn tắt, phòng tối om con rắn mới bò ra. (Loại rắn này kị ánh sáng, nên trong thời gian trước nó không bò ra, vì ban đêm người mẹ để đèn sáng cho tiện việc cho con bú). Bữa nay phòng tối om nó mới bò ra vào đúng lúc bà Cai chụp vào cái chân giường, nên bị nó cắn.
Ông Cai chạy đến thì vợ lớn đã chết, nhưng nhìn cô vợ bé trẻ nõn nà, lại có thêm đứa bé nối dòng, ông cũng buồn nhưng không khóc. Ông không biết thằng bé là con của Ba Sanh.
Khi tôi đọc truyện này, thì tôi nghĩ ngay đến Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, một truyện tiêu biểu nông thôn miền Bắc. Tôi bèn gọi phôn cho cụ Xuân Tước, đề nghị viết truyện Con Rắn Vú Nàng thành truyện dài như Tắt Đèn, nhưng cụ bảo đã viết truyện ngắn rồi, không phá ra được.
Trong truyện này có một chi tiết thần kỳ: “Bà Cai cột sợi dây lưng quần của bà vô ngón tay cái của anh Ba, rồi bảo giật đi, giật mạnh đi!” Xin nói thêm để độc giả cả ba miền rõ là đàn bà con gái Nam Kỳ thời đó mặc quần dây lưng rút, hễ nắm đầu dây lưng giật mạnh là… ăn thua ngay. Nhưng ở đây bà Cai lại không tự giật, mà buộc nó vào ngón tay của tình nhân và bảo giật. Với cách nào khác cũng không hay bằng cách này, nó vừa âu yếm lai vừa có cái tâm lý: Chia hai tội lỗi với người tình.
Ngoài ra tôi còn thú vị cái kết của câu chuyện: Bà Cai thù người hại mình, nên chết bất ngờ. Độc giả bị một cái “double surprise” (ngạc nhiên hai lần.) Cái chết của bà Cai là một, rồi đến thằng bé mà ông Cai mừng rỡ nựng nịu tưởng là con mình lại là con của tình địch, là hai.
Cái kết này cũng hay như cái kết của Món trang sức (La Parure) của Maupassant. Ngoài ra nữa, câu chuyện rất Nam Kỳ, ai đọc cũng không lầm lẫn được. Còn về bố cục thì rất khéo léo và hợp lý.
Sau đây cũng là một truyện ngắn rất khó kể lại. Dù cố gắng mấy cũng không kể cho độc giả thưởng thức được. Nó khó kể cũng như truyện Tình yêu của Maupassant.
ALPHONSE DAUDET: NHỮNG VÌ SAO (Les Étoiles)
Cô nàng lên núi chơi, rồi bị suối lũ trở về nhà không được. Một người tớ trai đem cơm lên cho cô, rồi gặp trời tối nên không trở về được. Đêm đó hai người ngồi trong lều nói chuyện tới khuya. Rồi vì hơi lạnh của núi mà nhích lại gần nhau hồi nào không hay. Vẫn kể chuyện, hết chuyện rồi đếm sao trên trời. Cho đến lúc cô nàng thấy một số sao rụng, nhìn lại nghe vai mình nằng nặng mới hay rằng chàng trai đã ngả đầu trên vai mình mà ngủ.
Sáng lại chàng ta ra về, cô nàng ngồi trong lều ngóng theo bước chân chàng và nghe sỏi rơi từng hòn một ưên trái tim mình.
Truyện này như một bài thơ bằng văn xuôi.
NGUYỄN ĐÌNH PHÙNG: TỘI ÁC
Một ông già đi nhà thờ. Lúc xong thánh lễ, ông ta xin với vị Linh mục được xưng tội. Được vị Linh mục nhận lời, ông đến tòa giải tội và thú tội.
– Tôi đã giết chết hôn phu của em gái tôi, và đổ cho vc giết. Sau đó tôi hãm hiếp em gái tôi, và nó có thai. Vì xấu hổ, nó trốn đi lên rừng ở một thời gian, rồi vượt biên sang Hoa Kỳ. Chuyện cách nay đã ba mươi năm.
– Rồi sao nữa?
– Tôi sang đây để tìm nó, thì được biết nó mới chết cách nay vài tháng.
Tác giả không nói đứa con hoang kia chính là vị Linh mục vừa giải tội cho lão già, nhưng trong cách tình bầy rất điêu luyện và tinh tế, người đọc vẫn hiểu như vậy.
Đọc truyện này tôi hoảng hồn. Trên đời này có một loại tội ác kinh hoàng đến thế hay sao? Và còn độc địa hơn, trớ trêu hơn cái kết quả của tội ác kia lại chính là kẻ nhân danh Thiên chúa mà tha thứ cho kẻ phạm tội! Đây là một truyện ngắn tuyệt bút, có thể đặt ngang hàng với những truyện hay trên thế giới.
VŨ TRỌNG PHỤNG: LÀM ĐĨ
“….Em vẫn cứ nhìn xuống mũi giầy, thì Tân đã nhấc tay em lên miệng để hôn. Thấy em không kháng cự, Tân từ từ ôm chặt lấy em, hôn vào miệng em, không phải cái hôn tầm thường, nhưng mà cái hôn đặc biệt. Nhờ nó, em và chàng cảm thấy ẩm ướt ở miệng nhau thì sung sướng, tựa hồ uống được lỉnh hồn của nhau, một cái hôn đắc thắng của ái tình trước bổn phận mà tiếng trống ngực thình thình điểm khúc khải hoàn ca. Một cái hôn nó giống của màn ảnh, do đó, em tưởng chừng em đã phó thác ca thân thể cho người ta vậy. Tờ giấy cam kết của hai bên như vậy là đã có chữ ký của hai bên rồi. Một cái hôn như thể đã tổng công kích lần cuối cùng để làm hại cả một đời đàn bà chỉ còn một số tàn quân đạo đức trong thành lương tâm. ”
Một cái hôn mà nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận định rằng từ trước đến nay (1942) chưa một văn sĩ Việt Nam nào tả đến cùng như thế. (Nhà Văn Hiện Đại quyển II).
Tôi chỉ xin trích một câu của Vũ tiên sinh thôi. Nhưng là một câu làm ta nhớ cả quyển.